Nghiên cứu định danh loài và sự di cư khỏi nơi bản địa của loài mọt đục thân châu Á ở Xylosandrus crassiusculus (Motschulky, 1866) (Coleoptera: Curculionidae) Australia
Abstract
Xylosandrus crassiusculus (Motschulsky, 1866), a granulate ambrosia beetle, is an important member of the
genus Xylosandrus and also known as the Asian ambrosia beetle. This species is native to East and South East of Asia such as in Japan, Thailand and Taiwan. Currently, this species has spread across almost all regions over the world and to be considered as a high-risk quarantine pest in many countries. This study aims to identify to species and discover the migration of ambrosia beetle X. crassiusculus. The result of this study determined the population structure of X. crassiusculus divided into the two main clusters, in which the South East Asia population includes the population in New South Wales, Thailand and Madagasscar; the island population consists of the population in Queensland, North America and South America. The phylogenetic determination of X. crassiusculus suggested that the trading using wood packing material in shipping may potentially become a migration pathway of X. crassiusculus from native ranges to introduced regions
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu định danh loài và sự di cư khỏi nơi bản địa của loài mọt đục thân châu Á ở Xylosandrus crassiusculus (Motschulky, 1866) (Coleoptera: Curculionidae) Australia
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019 20 NGHIÊN CỨU ĐỊNH DANH LOÀI VÀ SỰ DI CƢ KHỎI NƠI BẢN ĐỊA CỦA LOÀI MỌT ĐỤC THÂN CHÂU Á Xylosandrus crassiusculus (Motschulky, 1866) (Coleoptera: Curculionidae) Ở AUSTRALIA The Identification Method and Migration of Asian Ambrosia Beetle Xylosandrus crassiusculus (Motschulky, 1866) (Coleoptera: Curculionidae) in Australia Trần Xuân Hƣng 1 , Phạm Quang Thu 1 , Simon A. Lawson 2 , Đào Ngọc Quang 1 , Nguyễn Minh Chí 1 Ngày nhận bài: 22.07.2019 Ngày chấp nhận: 09.08.2019 Abstract Xylosandrus crassiusculus (Motschulsky, 1866), a granulate ambrosia beetle, is an important member of the genus Xylosandrus and also known as the Asian ambrosia beetle. This species is native to East and South East of Asia such as in Japan, Thailand and Taiwan. Currently, this species has spread across almost all regions over the world and to be considered as a high-risk quarantine pest in many countries. This study aims to identify to species and discover the migration of ambrosia beetle X. crassiusculus. The result of this study determined the population structure of X. crassiusculus divided into the two main clusters, in which the South East Asia population includes the population in New South Wales, Thailand and Madagasscar; the island population consists of the population in Queensland, North America and South America. The phylogenetic determination of X. crassiusculus suggested that the trading using wood packing material in shipping may potentially become a migration pathway of X. crassiusculus from native ranges to introduced regions. Keywords: ambrosia beetle, Xylosandrus crassiusculus, phylogeny 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * Mọt đục thân là nhóm loài thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) bao gồm các phân họ Scolytinae và Platypodinae. Các loài mọt đục thân thường mang theo một số loài nấm như Ambrosiella sp., Ophiostoma sp. và Graphium sp. trên mảnh lưng ngực, miệng và đầu. Các loài nấm này sẽ xâm nhiễm vào cây trong quá trình mọt đào hang, phát triển và hình thành hệ sợi ngay bên trong hang mọt và được sử dụng làm thức ăn cho sâu non và mọt trưởng thành (Vega and Hofstetter, 2014; Schowalter, 2016). Chính vì vậy, các loài mọt đục thân trở thành loài gây hại nguy hiểm đối với các loài ký cây chủ. Mọt đục thân Xylosandrus crassiusculus (Motschulsky, 1866) được biết đến với tên thường gọi là mọt đục thân châu Á, một loài mọt gây hại phổ biến trong giống Xylosandrus. Đây là loài bản địa của châu Á, phạm vi phân bố chủ yếu ở phía Đông và Đông Nam châu Á như Nhật Bản, Thái Lan và Đài Loan (Storer et al., 2017). Tuy nhiên, thông qua việc vận chuyển hàng hóa thương mại toàn cầu mà loài mọt đục thân X. crassiusculus phát tán đến nhiều nơi trên thế giới và gây hại trên gần 200 loài ký cây chủ. Do vậy, 1. Forest Protection Research Centre, VAFS 2. University of the Sunshine Coast, Australia loài mọt đục thân này được xem là loài ngoại lai nguy hiểm và trở thành đối tượng kiểm dịch thực vật có nguy cơ gây hại cao tại nhiều nước như New Zealand và Mỹ (Reding et al., 2011). Lần đầu tiên ghi nhận sự có mặt của loài X. crassiusculus ở Australia vào năm 2011 tại Toolara State Forest, Queensland (Hulcr and Cognato, 2013). Chúng phát tán khá nhanh khi mà tiếp tục được ghi nhận vào năm 2013 tại Tewantin State Forest, năm 2015 tại Beerwah và năm 2016 tại Beerburrum State Forest, Queensland (Biosecurity Incident National Communication Network, 2016; IPPO, 2017). Việc mở rộng phạm vi phân bố quần thể và nhanh chóng trở thành loài chiếm ưu thế so với các loài bản địa khiến cho loài mọt đục thân X. crassiusculus trở thành một loài ngoại lai mới có khả năng gây hại đối với các loài thực vật tại Australia. Tại Australia, chỉ có một vài điều tra về sự xuất hiện của các loài mọt đục thân trong đó có loài X. crassiusculus trong các khu vực trồng bơ tại Queensland (Campell and Geering, 2013). Loài mọt đục thân X. crassiusculus được đánh giá là một loài ngoại lai mới có khả năng gây hại đến cây trồng, chính vì vậy việc nghiên cứu nguồn gốc phát sinh của loài mọt đục thân này là cơ sở trong việc xác định con đường xâm nhập của chúng đến nơi ở mới. Bài báo này trình bày Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019 21 kết quả việc định danh loài mọt X. crassiusculus và xác định sự xâm nhập của loài mọt đục thân tại một số nước khác nhau. 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tƣợng nghiên cứu Các mẫu mọt đục thân được thu trên các rừng trồng hỗn giao cây gỗ lớn tại Rocky Creek Dam và Federal, bang New South Wales. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đã sử dụng một số mẫu đã thu được từ Beerburrum, bang Queensland, Australia; các mẫu đã thu từ Thái Lan, French Polynesia, Madagascar, Canada, Mỹ, Argentina và Pháp. 2.2 Định danh loài mọt đục thân Sau khi thu thập mẫu tại hiện trường, mẫu mọt được phân loại và bảo quản trong cồn 95% ở 4 o C, được định danh bằng hai phương pháp là phương pháp hình thái học và phương pháp sinh học phân tử. Cả hai phương pháp được tiến hành tại phòng thí nghiệm sinh học thuộc trường Đại học Southern Cross, bang New South Wales, Australia. Định danh bằng phương pháp hình thái học Tất cả các mẫu mọt được soi bằng kính soi nổi Olympus SC50 và chụp ảnh bằng phần mềm Olympus Cellsens V1.18 (Olympus Corporation, Japan). Ảnh được chụp ở 3 góc cơ bản bao gồm góc nhìn từ trên xuống, góc bên cạnh và góc từ phía đầu. Các đặc điểm được đối chiếu với khóa phân loại các loài mọt đục thân Xyleborini: “Ambrosia Beetles (Xyleborini): An identification tool to the world genera” (Hulcr and Smith, 2010). Đồng thời, Tiến sỹ Justin Bartlett, một chuyên gia phân loại các loài bọ cánh cứng tại Cục Nông lâm thủy sản và an toàn sinh học, bang Queensland, cũng đã giúp đỡ định danh loài mọt đục thân này. Định danh bằng phương pháp sinh học phân tử Từ các mẫu mọt đã được định danh bằng phương pháp hình thái học, định danh bằng phương pháp sinh học phân tử dựa trên đoạn gen ty thể cytochrome coxidase subunit I (COI) được tiến hành để khẳng định loài mọt đục thân X. crassiusculus và sử dụng cho các phân tích nguồn gốc phát sinh loài. Tách chiết DNA từ các mẫu mọt đục thân Nghiên cứu sử dụng 10 mẫu mọt đục thân X. crassiusculus thu được để tách chiết DNA theo phương pháp của Landi et al., (2017). Với mỗi mẫu mọt sẽ được xử lý sơ bộ, rửa sạch cồn bảo quản bằng nước vô trùng và để khô. Chỉ lấy các mô ở chân, đầu và phần bụng để tách DNA giúp giảm nguy cơ bị nhiễm bởi các vi sinh vật khác. Tách chiết DNA sử dụng Isolate II Genomic DNA Kit (Bioline, U.K.) theo hướng dẫn của nhà sản xuất đã được điều chỉnh cho phù hợp với mẫu mọt đục thân. Sản phẩm DNA sau khi tách chiết sẽ được bảo quản ở -20°C cho đến khi thực hiện phản ứng khuếch đại gen (PCR). Thực hiện phản ứng PCR sử dụng bộ Kit MyTaq TM HS DNA Polymerase (Bioline, U.K.) với mồi trước LCO1490 (5’-GGTCAACAAATCAT AAAGATA TTGG-3’) và mồi sau HCO2413 (5’- CATCTAAAAA TTTTAATT CCAGT-3’); HCO 2773 (5’-GGATAA TCTCTATATCGAC GAGG TAT-3’) (Folmer et al., 1994). Phản ứng PCR được thực hiện trên máy chu trình nhiệt S100 thermal cycler (Bio-Rad, USA) với các điều kiện nhiệt độ cụ thể cụ thể với mỗi chu trình: đầu tiên tăng đến 94 °C trong 1 phút; sau đó 49 °C trong 1 phút, 72 °C trong 1 phút. Tiếp sau đó sẽ có 34 chu trình tiếp theo được lặp lại và cuối cùng là giữ ở 72 °C trong 5 phút. Để đánh giá chất lượng sản phẩm tách chiết DNA, sản phẩm PCR được chạy điện di trên máy điện di Bio-Rad, sau đó chụp ảnh trên máy Molecular Imager Gel Doc XR và phần mềm Image Lab (Bio-Rad, USA). Trước khi thực hiện giải trình tự, sản phẩm được tinh sạch bằng bộ Kit ExoSAP-IT PCR Product Cleanup Reagent (Thermo Fisher Scientific, Waltham, Massachusetts, USA). Sản phẩm PCR tinh sạch sẽ được gửi tới AGRF Sanger Sequencing Service (AGRF, Australia) để giải trình tự, sử dụng Bigdye Terminator V3.1 Cycle Sequencing Kit (Applied Biosystems, U.S.A). Với mỗi trình tự nhận được sẽ sắp xếp và chỉnh sửa các nucleotid trên Geneious v.7.0 (Kearse et al., 2012). Sau đó các trình tự sẽ được so sánh với các trình tự trên GenBank với công cụ BLAST (Altschul et al.,1990). 2.3 Phân tích nguồn gốc phát sinh loài Tất cả các trình tự gen của loài mọt X. crassiusculus đã được công bố trên cơ sở dữ liệu trên Genbank. Các trình tự trên đoạn gen ty thể (COI) của loài X. crassiusculus từ các vùng địa lý khác nhau được lựa chọn để phân tích nguồn gốc phát sinh loài. Trình tự gen của 3 loài Xylosandrus monteithi, Cnestus bimaculatus và Euwallacea fornicatus được sử dụng như một nhóm ngoài để đối chiếu. Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019 22 Bộ dữ liệu trình tự gen được sắp xếp dựa trên chương trình trực tuyến MAFFT v. 7 Online Service (Katoh and Standley, 2013). Kết quả được xem và chỉnh sửa thủ công trên phần mềm MEGA v. 7 (Kumar et al., 2016). Phân tích nguồn gốc phát sinh loài được dựa trên hai thuật toán là Maximum Likelihood (ML) và Maximum Parsimony. Đối với thuật toán MP được phân tích trên phần mềm PAUP v. 4.0b10 (Swofford, 2003) with với 1000 lần lặp ngẫu nhiên để chọn ra cây phân loại tốt nhất. Đối với thuật toán ML, sử dụng PhyML v. 3.0 để phân tích (Guindon và Guscuel, 2003) với độ tin cậy được xác định dựa trên 1000 lần lặp ngẫu nhiên. Tất cả các cây phân loại sau khi phân tích được hiển thị trên MEGA v. 7 (Kumar et al., 2016). 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1 Đặc điểm hình thái của loài mọt đục thân Xylosandrus crassiusculus. Loài: Xylosandrus crassiusculus (Motschulsky, 1866) (Xyleborini, Scolytinae, Curculionidae, Coleoptera) Tên đồng nghĩa: Phloeotrogus crassiusculus Motschulsky, 1866 Đặc điểm hình thái: Loài mọt đục thân X. crassiusculus cũng như các loài trong giống Xylosandrus có hai chân trước khá rộng và tách biệt. Đặc điểm này phân biệt rõ với các loài khác trong tộc Xyleborini thường có hai chân trước sát nhau, điển hình như các loài thuộc giống Anisandrus có hình dạng khá giống với các loài thuộc giống Xylosandrus nhưng hai chân trước của chúng không tách biệt. Loài mọt đục thân X. crassiusculus có kích thước khá nhỏ, chiều dài cơ thể từ 1,95 đến 2,45 mm, có màu nâu đỏ, phía cuối cánh cứng có màu nâu đậm. Mảnh lưng ngực trước có kích thước khá to gần bằng kích thước của cánh cứng. Râu đầu có dạng hình chùy, 5 đốt với đốt cuối phình to. Phía cuối cánh cứng có rất nhiều chấm nhỏ li ti. Trên cánh cứng có các đường sọc và lông cứng thẳng. Nhìn từ trên xuống, đầu được giấu hoàn toàn dưới mảnh lưng ngục trước (hình 1). Hình 1. (A-B) Mọt cái Xylosandrus crassiusculus (C). Chấm nhỏ ở phía cuối cánh cứng. (D). Hai chân trước khá tách biệt khi nhìn từ phía bụng (Hình B và C do J.S. Bartlett chụp) B A DC Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019 23 Định danh bằng sinh học phân tử Từ các trình tự xuôi và ngược sau khi được giải mã được cắt và chỉnh sửa để tạo thành các đoạn có độ dài khoảng 750 cặp base và được sử dụng để so sánh với các trình tự trên cơ sở dữ liệu của Genbank. Kết quả so sánh các trình tự DNA của loài mọt đục thân Xylosandrus crassiusculus được trình bày tại bảng 1: Bảng 1. Kết quả so sánh các trình tự của loài mọt đục thân Xylosandrus crassiusculus với cơ sở dữ liệu của Genbank TT Loài Ký hiệu mẫu % độ tương đồng E value Mã tham chiếu 1 X. crassiusculus QLD 01 100 % 0 GU808710.1 2 X. crassiusculus QLD 02 100 % 0 GU808710.1 3 X. crassiusculus Federal 94% 0 KX035196.1 4 X. crassiusculus Rocky Creek 93% 0 KX035196.1 Đối với các mẫu thu tại New South Wales là Federal và Rocky Creek tỷ lệ tương đồng lần lượt đạt 94% và 93% so với cùng một mã tham chiếu KX035196.1 với thông tin như sau: KX035196.1: Loài Xylosandrus crassiusculus độ dài 16875 cặp base được Bảo tàng Lịch sử tự nhiên, Vương quốc Anh cung cấp vào ngày 07/04/2016. Đối với các mẫu tại Queensland là QLD 01 và QLD 02 tỷ lệ tương đồng là 100% so với mã tham chiếu GU808710.1 với thông tin như sau: GU808710.1: Loài Xylosandrus crassiusculus tách từ đoạn gen ty thể Cytochrome oxidase subunit I (COI). Chiều dài đoạn gen là 585 cặp base được Khoa côn trùng học, Đại học bang Michigan, Mỹ cung cấp vào ngày 16/2/2010. 3.2 Xác định sự di cƣ thông qua phân tích nguồn gốc phát sinh loài Cả hai thuật toán phân tích ML và MP đều cho thấy không có sự khác biệt đáng kể đối với hình dạng cây phân loại, mặc dù đối với cây phân loại dùng thuật toán ML thể hiện sự phân tách nhỏ giữa các mẫu loài. Cây phân loại theo kết quả phân tích ML được trình bày như sau (hình 2). Hình 2. Cây phân loại phân tích nguồn gốc phát sinh loài bằng phƣơng pháp Maximum Likelihood Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019 24 Kết quả phân tích ML đã cho thấy bằng chứng về sự phân tách rõ rệt của quần thể loài mọt đục thân X. crassiusculus thành hai nhóm với độ tin cậy là 99%. Tất cả các mẫu từ Thái Lan, French Polynesia và Madagascar hình thành một nhóm (Cluster 1) cùng với các mẫu thu được từ New South Wales, Australia. Trong khi đó, các mẫu từ Canada, Mỹ, Argentina và Pháp cùng với mẫu thu đươc từ Queensland, Australia (Xc02) hình thành một nhóm (Cluster 2). Chỉ có một khoảng cách nhỏ về sự khác biệt gen được thấy ở các mẫu thu từ Pháp với độ thay đổi là 0,01. Phân tích nguồn gốc phát sinh loài trong nghiên cứu này cũng hoàn toàn trùng khớp với một phân tích được thực hiện trên 198 mẫu mọt X. crassiusculus từ 20 khu vực khác nhau trên khắp thế giới cũng đã cho thấy sự phân tách trong quần thể loài mọt này thành 02 nhóm chủ đạo. Theo kết quả phân tích của Storer et al. (2017), nhóm thứ nhất có tên là nhóm quần thể Đông Nam Á (South East Asia population) trong đó bao gồm các mẫu thu từ Thái Lan, Indonesia. Ngoài ra các mẫu thu từ khu vực khác như Trung Quốc, thậm chí ở cả Châu phi (Madagascar) và Châu Đại dương (Papua New Guinea) nhưng cũng nằm trong nhóm quần thể Đông Nam Á. Nhóm thứ hai là nhóm quần thể đảo (island population) bao gồm các nước là Nhật Bản, Khu vực Bắc Mỹ và Nam Mỹ (Storer et al., 2017). Như vậy, có thể thấy từ quần thể bản địa đã có sự di cư sang các khu vực khác nhau và trong quá trình di cư chúng phân tách thành các nhóm riêng biệt. Với mỗi khu vực đặc trưng chúng lại có những thay đổi để thích nghi với điều kiện hoàn cụ thể. Ngoài ra, dựa trên sự phân tích nguồn gốc phát sinh loài từ các mẫu thu tại Australia cho thấy quần thể mọt X. crassiusculus tại Australia phân tách thành hai quần thể mọt riêng biệt là: (1) Quần thể mọt đục thân ở New South Wales có nguồn gốc từ quần thể Đông Nam Á và (2) Quần thể mọt đục thân ở Queensland có nguồn gốc từ quần thể đảo, có thể từ các đảo thuộc Nhật Bản hoặc lục địa châu Mỹ. Phân tích cây phân loại cũng cho thấy khoảng cách về gen giữa hai nhóm Cluster 1 và Cluster 2 là 0,14, tuy nhiên khoảng cách giữa hai kiểu gen Xc01 và Xc02 thu tại Australia là 0,20. Điều này cho thấy sự khác biệt khá lớn về nguồn gốc của quần thể mọt đục thân tại Australia với các mẫu thu tại New South Wales thuộc nhóm Chuster 1 và mẫu thu tại Queensland thuộc nhóm Cluster 2. Phân tích cũng chỉ ra hai mẫu thu tại hai địa điểm khác nhau tại New South Wales (Rocky Creek và Federal) là đồng nhất về kiểu gen (Xc01) với độ tin cậy 98%. Tuy nhiên, nó lại khác biệt đối với các mẫu còn lại trong nhóm Cluster 1 với độ tin cậy là 75%. Hai nhóm quần thể loài X. crassisuculus cũng được xác định riêng biệt so với các loài được sử dụng làm tham chiếu như X. compactus và X. germanus và Xyleborus ferruginus. Các mẫu mọt thu tại Australia có nguồn gốc phát sinh từ cả hai nhóm quần thể chủ yếu trên thế giới, điều này cho thấy sự xâm nhập của loài mọt này vào Australia có thể liên quan đến con đường vận chuyển hàng hóa với các nước như Mỹ, Canada hay các nước Đông Nam Á. Vận chuyển hàng hóa quốc tế có liên quan đến rất nhiều loài ngoại lai xâm hại đến những nơi mới nhờ loại chất liệu đóng gói kiện hàng hóa bằng gỗ mang theo. Ví dụ như Sirex noctilio và Ips grandicollis là hai loài ngoại lai xâm hại đến rừng thông tại Australia theo con đường này (Lawson et al., 2018). Theo báo cáo phân tích mối nguy cơ sinh học trên hàng hóa nhập khẩu thì có khoảng 30% các kiện hàng đóng gói bằng gỗ có chứa các loài ngoại lai cần kiểm dịch thực vật. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng các biện pháp kiểm tra bề ngoài thì sẽ không thể phát hiện ra các loài ngoại lai (Biosecurity Australia, 2001). Bên cạnh đó việc nhập khẩu gỗ từ Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á cũng tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2014 - 2015, chiếm tới 86% đồ gỗ nội thất và 61% sản phẩm gỗ khác (Lawson et al., 2018). Do vậy, các sản phẩm gỗ chưa được xử lý và sử dụng gỗ để đóng gói kiện hàng là con đường xâm nhập, làm gia tăng cơ hội lan truyền cho các loài ngoại lai như loài mọt X. crassiusculus di cư và xâm nhập vào các khu vực không phải bản địa của chúng giống như Australia. Mặc dù loài mọt đục thân X. crassiusculus bước đầu được ghi nhận sự xuất hiện của chúng như một loài ngoại lai ở Australia với mức độ gây hại thấp. Tuy nhiên đây là loài ngoại lai tiềm năng trở thành loài ngoại lai xâm hại như đã và đang xảy ra tại Mỹ và Israel (Storer et al., 2013). 3. KẾT LUẬN Đã định danh loài mọt đục thân X. crassiusculus bằng phương pháp hình thái học và phương pháp sinh học phân tử với kết quả so sánh trình tự đạt từ 93% đến 100%. Phân tích về nguồn gốc phát sinh loài đối với quần thể mọt đục thân X. crassiusculus đã cho thấy sự di cư Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 4/2019 25 của chúng đến các khu vực địa lý khác ngoài khu vực bản địa như tại Australia theo các nhóm quần thể riêng biệt đó là quần thể Đông Nam Á và quần thể đảo. Riêng tại Australia, quần thể mọt đục thân X. crassiusculus có sự xuất hiện của cả hai nhóm đó là nhóm quần thể Đông Nam Á bao gồm các mẫu thu tại New South Wales và nhóm quần thể đảo gồm các mẫu thu tại Queensland. Việc xác định nguồn gốc phát sinh loài chỉ ra các loài mọt đục thân có thể xâm nhập vào Australia một cách độc lập từ khu vực Đông Nam Á và từ khu vực châu Mỹ. Lời cảm ơn Nhóm tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Phó Giáo Sư Doland Nichols, trường Đại học Southern Cross đã giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình thu thập mẫu tại Australia. Đồng thời, nhóm tác giả cũng gửi lời cảm ơn đến Tiến sỹ Justin Barrlet, Cục Nông lâm thủy sản và an toàn sinh học, bang Queensland đã giúp đỡ trong việc giám định các mẫu mọt thu tại Australia. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Altschul, S.F., Gish, W., Miller, W., Myers, E.W. & Lipman, D.J., 1990. Basic local alignment search tool. Journal Molecular Biology. 215:403-410 2. Australia, B., 2001. Import risk analysis (IRA) for sawn coniferous timber from Canada, New Zealand and the United States. IRA Issues Paper. Canberra: Biosecurity Australia. 3. Biosecurity Incident National Communication Network (NCN), 2016). Granulate ambrosia beetle National Talking Points. Department og Agriculture and Water Resorce, Australian Government. 4. Campbell, P. & Geering, A., 2013. Biosecurity Capacity Building for the Australian Avocado Industry – Laurel Wilt. Queensland, Australia: Queensland Department of Employment, Economic Development and Innovation. 5. Cognato, A. I., Hulcr, J., Dole, S. A., & Jordal, B. H., 2011. Phylogeny of haplo–diploid, fungus‐ growing ambrosia beetles (Curculionidae: Scolytinae: Xyleborini) inferred from molecular and morphological data. Zoologica Scripta, 40(2), 174-186. 6. EPPO, 2017. Xylosandrus crassiusculus (Coleoptera: Scolytidae). ngày 18/02/2018 https://www.eppo.int/QUARANTINE/Alert_List/insects/ xylosandrus_crassiusculus.htm 7. Folmer, O., Black, M., Hoeh, W., Lutz, R., & Vrijenhoek, R., 1994. DNA primers for amplification of mitochondrial cytochrome c oxidase subunit I from diverse metazoan invertebrates. Mol Mar Biol Biotechnol, 3(5), 294-299. 8. Fungiflora, O. S., & Gascuel, O., 2003. A simple, fast and accurate method to estimate large phylogenies by maximum-likelihood. Syst Biol, 52, 696704. 9. Hulcr, J., & Cognato, A. I., 2013. Xyleborini of New Guinea, a taxonomic monograph (coleoptera: curculionidae: scolytinae). Entomological Society of America. 10. Hulcr, J., & Smith, S., 2010. Xyleborini ambrosia beetles: an identification tool to the world genera. URL: id/wbb/ xyleborini/index.htm 11. Katoh, K., & Standley, D. M., 2013. MAFFT multiple sequence alignment software version 7: improvements in performance and usability. Mol Biol Evol, 30(4), 772-780. doi:10.1093/molbev/mst010 12. Kumar, S., Stecher, G., & Tamura, K., 2016. MEGA7: Molecular Evolutionary Genetics Analysis Version 7.0 for Bigger Datasets. Mol Biol Evol, 33(7), 1870-1874. doi:10.1093/molbev/msw054 13. Kearse M, Moir R, Wilson A, Stones-Havas S, Cheung M, Sturrock S, Buxton S, Cooper A, Markowitz S, Duran C, Thierer T, Ashton B, Meintjes P, Drummond A. 2012. Geneious Basic: an integrated and extendable desktop software platform for the organization and analysis of sequence data. Bioinformatics28:1647–1649. doi:10.1093/bioinformatics/bts199. 14. Landi, L., Gómez, D., Braccini, C. L., Pereyra, V. A., Smith, S. M., & Marvaldi, A. E., 2017. Morphological and Molecular Identification of the Invasive Xylosandrus crassiusculus (Coleoptera: Curculionidae: Scolytinae) and Its South American Range Extending Into Argentina and Uruguay. Annals of the Entomological Society of America, 110(3), 344-349. 15. Lawson, S., Carnegie, A., Cameron, N., Wardlaw, T., & Venn, T., 2018. Risk of exotic pests to the Australian forest industry. Australian Forestry, 81(1), 3-13. 16. Reding, M. E., Schultz, P. B., Ranger, C. M., & Oliver, J. B., 2011. Optimizing ethanol-baited traps for monitoring damaging ambrosia beetles (Coleoptera: Curculionidae, Scolytinae) in ornamental nurseries. Journal of Economic Entomology, 104(6), 2017-2024. 17. Schowalter, T. D., 2016. Chapter 8 - Species Interactions. In Insect Ecology (Fourth edition). Academic Press, (pp. 249-290):. 18. Storer, C., Payton, A., McDaniel, S., Jordal, B., & Hulcr, J., 2017. Cryptic genetic variation in an inbreeding and cosmopolitan pest, Xylosandrus crassiusculus, revealed using ddRADseq. Ecology and Evolution. 19. Swofford, D. L. 2000. PAUP*: Phylogenetic analysis using parsimony (* and other methods) Version 4Sinauerunderland, MA. Swofford, DL (2000). PAUP*: Phylogenetic analysis using parsimony (* and other methods). Version, 4. 20. Vega, F. E., & Hofstetter, R. W., 2014. Bark beetles: biology and ecology of native and invasive species. Academic Press. 390p. Phản biện: TS. NCVCC. Nguyễn Văn Liêm
File đính kèm:
- nghien_cuu_dinh_danh_loai_va_su_di_cu_khoi_noi_ban_dia_cua_l.pdf