Nghiên cứu tình hình sử dụng thuốc trong điều trị tăng huyết áp tại bệnh viện trường Đại học Y dược Huế

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Tăng huyết áp là bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tăng huyết áp

nếu không được điều trị đúng và đầy đủ sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Việc kiểm soát

huyết áp đạt mục tiêu sẽ đem lại hiệu quả tích cực trong việc giảm tỷ lệ tử vong cũng như tàn tật

do các bệnh lý liên quan đến tăng huyết áp. Mục tiêu: (1) Phân tích tình hình sử dụng thuốc trong

điều trị tăng huyết áp (2) Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc trong điều trị tăng huyết áp tại Bệnh viện

Trường Đại học Y Dược Huế. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 388 bệnh nhân được chẩn

đoán tăng huyết áp điều trị nội trú tại Khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế,

phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Tất cả các thuốc hạ áp gặp trong mẫu nghiên

cứu đều nằm trong danh mục thuốc hạ áp theo khuyến cáo của Hội Tim mạch học Việt Nam. Ức

chế men chuyển và chẹn kênh calci là hai nhóm thuốc được dùng phổ biến nhất (96,6% và 71,4%).

Tỷ lệ sử dụng phác đồ đa trị cao hơn tỷ lệ sử dụng phác đồ đơn trị trong cả liệu pháp khởi đầu

(64,7%>35,3%) và liệu pháp cuối (61,9%>38,1%). Tỷ lệ bệnh nhân gặp tương tác giữa thuốc hạ áp

với các thuốc khác trong phác đồ là 7,5%. Tỷ lệ bệnh nhân được chỉ định sử dụng thuốc hợp lý là

84,3%. Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc trong điều trị cho thấy tỷ lệ bệnh nhân đạt huyết áp mục

tiêu trước khi ra viện là 67,3%. Phần lớn bệnh nhân được đánh giá là có tình trạng tốt khi ra viện,

chiếm 81,7%. Kết luận: Tất cả các thuốc hạ áp gặp trong mẫu nghiên cứu đều nằm trong danh mục

thuốc hạ áp theo khuyến cáo của Hội Tim mạch học Việt Nam, tỷ lệ sử dụng phác đồ đa trị cao hơn tỷ

lệ sử dụng phác đồ đơn trị, tỷ lệ tương tác thuốc – thuốc khá thấp, phần lớn bệnh nhân được đánh giá là

có tình trạng tốt khi ra viện.

pdf 9 trang yennguyen 2900
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tình hình sử dụng thuốc trong điều trị tăng huyết áp tại bệnh viện trường Đại học Y dược Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tình hình sử dụng thuốc trong điều trị tăng huyết áp tại bệnh viện trường Đại học Y dược Huế

Nghiên cứu tình hình sử dụng thuốc trong điều trị tăng huyết áp tại bệnh viện trường Đại học Y dược Huế
76 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 32
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC
TRONG ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP 
TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
Thái Khoa Bảo Châu, Võ Thị Hồng Phượng 
 Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Tăng huyết áp là bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tăng huyết áp 
nếu không được điều trị đúng và đầy đủ sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Việc kiểm soát 
huyết áp đạt mục tiêu sẽ đem lại hiệu quả tích cực trong việc giảm tỷ lệ tử vong cũng như tàn tật 
do các bệnh lý liên quan đến tăng huyết áp. Mục tiêu: (1) Phân tích tình hình sử dụng thuốc trong 
điều trị tăng huyết áp (2) Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc trong điều trị tăng huyết áp tại Bệnh viện 
Trường Đại học Y Dược Huế. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 388 bệnh nhân được chẩn 
đoán tăng huyết áp điều trị nội trú tại Khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế, 
phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Tất cả các thuốc hạ áp gặp trong mẫu nghiên 
cứu đều nằm trong danh mục thuốc hạ áp theo khuyến cáo của Hội Tim mạch học Việt Nam. Ức 
chế men chuyển và chẹn kênh calci là hai nhóm thuốc được dùng phổ biến nhất (96,6% và 71,4%). 
Tỷ lệ sử dụng phác đồ đa trị cao hơn tỷ lệ sử dụng phác đồ đơn trị trong cả liệu pháp khởi đầu 
(64,7%>35,3%) và liệu pháp cuối (61,9%>38,1%). Tỷ lệ bệnh nhân gặp tương tác giữa thuốc hạ áp 
với các thuốc khác trong phác đồ là 7,5%. Tỷ lệ bệnh nhân được chỉ định sử dụng thuốc hợp lý là 
84,3%. Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc trong điều trị cho thấy tỷ lệ bệnh nhân đạt huyết áp mục 
tiêu trước khi ra viện là 67,3%. Phần lớn bệnh nhân được đánh giá là có tình trạng tốt khi ra viện, 
chiếm 81,7%. Kết luận: Tất cả các thuốc hạ áp gặp trong mẫu nghiên cứu đều nằm trong danh mục 
thuốc hạ áp theo khuyến cáo của Hội Tim mạch học Việt Nam, tỷ lệ sử dụng phác đồ đa trị cao hơn tỷ 
lệ sử dụng phác đồ đơn trị, tỷ lệ tương tác thuốc – thuốc khá thấp, phần lớn bệnh nhân được đánh giá là 
có tình trạng tốt khi ra viện. 
Từ khóa: Tăng huyết áp, thuốc điều trị tăng huyết áp.
Abstract
THE USE OF MEDICINES IN TREATING HYPERTENSION
 IN HUE UNIVERSITY HOSPITAL 
Thai Khoa Bao Chau, Vo Thi Hong Phuong
Falcuty of Pharmacy, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Hypertension is a common condition in the world as well as in Viet Nam. If 
hypertension isn’t treated well, it can cause many serious complications. Controlling target blood 
pressure will bring positive effects on reducing mortality rate and also disabilities caused by diseases 
related to hypertension. Objectives: (1) To analyze the use of medicines in treating hypertension. (2) To 
evaluate the effects of medicine usage in treating hypertension at Hue University Hospital. Materials 
and methods: 388 patients were diagnosed of hypertension with inpatient care at the Cardiovascular 
Department of Hue University Hospital, using cross-sectional descriptive study methods. Results: All 
antihypertensive drugs in the research are in the antihypertensive list recommended by Vietnamese 
Society of Cardiology. Angiotensin converting enzyme inhibitor and calcium channel blocker were 
- Địa chỉ liên hệ: Võ Thị Hồng Phượng, email: hongphuong1311@yahoo.com.vn 
- Ngày nhận bài: 31/12/2015 *Ngày đồng ý đăng: 10/3/2016 * Ngày xuất bản: 10/5/2016
77 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 32
the two most popular drug groups (96.6% and 71.4%, respectively). The rate of using multi-therapy 
regimens was higher than the rate of using uni-therapy regimens in both initial therapies (64.7%>35.3%) 
and final therapies (61.9%>38.1%). The rate of patients having interactions between antihypertensive 
drugs and the other kinds of drugs was 7.5%. The rate of patients having reasonable prescriptions was 
84.3%. Evaluating the effects of medicine usage in treatments showed that the rate of patients reaching 
target blood pressure before leaving the hospital was 67.3%. Most patients were evaluated as having 
good prognosis after treatment, up to 81.7%. Conclusions: All antihypertensive drugs in the research are 
in the antihypertensive list recommended by Vietnamese Society of Cardiology. The rate of using multi-
therapy regimens was higher than the rate of using uni-therapy regimens. The rate of drug interactions 
was quite low; most patients were evaluated as having good prognosis after treatment. 
Key words: Hypertension, antihypertensive drugs.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh tăng huyết áp là bệnh phổ biến trên thế 
giới cũng như ở Việt Nam, là mối đe dọa rất lớn 
đối với sức khoẻ của con người, là nguyên nhân 
gây tàn phế và tử vong hàng đầu ở người cao tuổi. 
Trong số các trường hợp mắc bệnh và tử vong do 
tim mạch hàng năm có khoảng 35 - 40% nguyên 
nhân do tăng huyết áp. Theo ước tính của Tổ chức 
Y tế Thế giới, năm 2000 toàn thế giới có tới 972 
triệu người bị tăng huyết áp và con số này tăng lên 
là khoảng 1,56 tỷ người vào năm 2025. Tại Việt 
Nam, tỷ lệ tăng huyết áp trong các nghiên cứu về 
dịch tễ học vào khoảng từ 20% đến 25% [6]. 
Tăng huyết áp nếu không được điều trị đúng và 
đầy đủ sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như: 
tai biến mạch máu não, suy tim, suy mạch vành, 
suy thận... Việc kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu sẽ 
đem lại hiệu quả tích cực trong việc giảm tỷ lệ tử 
vong cũng như tàn tật do các bệnh lý liên quan đến 
tăng huyết áp. 
Ở Việt Nam, mặc dù ngành y tế còn gặp nhiều 
khó khăn, nhưng công tác phát hiện và điều trị 
bệnh nhân tăng huyết áp vẫn luôn được coi trọng. 
Để góp phần nâng cao hiệu quả trong điều trị tăng 
huyết áp, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài với 
các mục tiêu:
1. Phân tích tình hình sử dụng thuốc trong 
điều trị tăng huyết áp. 
2. Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc trong điều 
trị tăng huyết áp tại Bệnh viện Trường Đại học Y 
Dược Huế.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân (BN) được chẩn đoán tăng huyết 
áp (THA) điều trị nội trú tại Khoa Nội Tim mạch 
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế (trong 
khoảng thời gian từ 01/01/2014 đến 31/12/2014) 
với các tiêu chuẩn:
• Tiêu chuẩn lựa chọn: BN trên 18 tuổi được 
chẩn đoán là THA vô căn, có thời gian nằm viện 
tại Khoa Nội Tim mạch ≥ 5 ngày.
• Tiêu chuẩn loại trừ: BN có thời gian điều 
trị tại Khoa Nội Tim mạch bị gián đoạn, BN 
chuyển khoa, bệnh án không đủ thông tin cần 
thu thập.
Dựa vào các tiêu chuẩn trên, chúng tôi chọn 
được 388 bệnh nhân vào mẫu nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu theo kiểu cắt ngang, mô 
tả, không can thiệp.
- Thu thập thông tin từ bệnh án lưu tại phòng 
Kế Hoạch - Tổng Hợp Bệnh viện Trường Đại học 
Y Dược Huế. Thu thập và đánh giá thông tin theo 
“phiếu khảo sát” 
- Cách lấy mẫu: lấy tất cả bệnh án thỏa mãn 
tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu.
2.3. Nội dung nghiên cứu
 Khảo sát các đặc điểm lâm sàng của bệnh 
nhân: 
- Tuổi, giới tính, tiền sử bệnh: dựa vào các 
thông tin trong bệnh án.
- Mức độ tăng huyết áp: dựa vào chỉ số HA 
được xác định trong bệnh án để phân loại mức độ 
THA theo tiêu chuẩn của WHO/ISH. 
- Các yếu tố nguy cơ: được xác định khi BN 
mắc phải một trong các YTNC như hút thuốc lá, 
béo phì, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, tiền sử 
gia đình có người bị THA, tuổi cao (nam > 55 tuổi, 
nữ > 65 tuổi). 
- Tổn thương cơ quan đích: được xác định khi 
BN bị một trong các tổn thương trên các cơ quan 
đích tim, thận, mắt, não.
78 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 32
 Phân tích tình hình sử dụng thuốc:
- Danh mục thuốc điều trị THA.
- Các liệu pháp điều trị.
- Tương tác thuốc. 
Bảng 2.1. Mức độ tương tác thuốc
Mức độ 
tương tác 
thuốc
Chú ý
Nặng
Tránh phối hợp, nguy cơ nhiều 
hơn lợi ích khi xảy ra tương tác 
này.
Trung bình
Thường tránh kết hợp, chỉ phối 
hợp trong những trường hợp 
đặc biệt.
Nhẹ
Giảm thiểu rủi ro, đánh giá rủi ro 
và xem xét một loại thuốc thay 
thế, loại bỏ nguy cơ tương tác và 
cần có kế hoạch giám sát.
- Tỷ lệ bệnh nhân được chỉ định thuốc hợp lý.
+ Chỉ định thuốc hợp lý: khi có phối hợp thuốc 
hạ áp đúng, nhịp đưa thuốc đúng, dùng thuốc theo 
chỉ định bắt buộc, tuân thủ chống chỉ định, không 
có tương tác thuốc bất lợi.
+ Chỉ định chưa hợp lý: không đạt một trong 
các chỉ tiêu của điều trị hợp lý.
 Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc: 
- Đánh giá hiệu quả kiểm soát huyết áp: dựa 
trên chỉ số HA đạt được trước khi ra viện so với 
đích HA cần đạt được theo khuyến cáo 2008 của 
Hội Tim mạch Việt Nam.
- Đánh giá tình trạng bệnh nhân khi xuất viện.
Bảng 2.2. Đánh giá tình trạng bệnh nhân
Hiệu quả 
điều trị
Tình trạng bệnh nhân
Tốt
HA khi ra viện ổn định và ở 
mức độ ≤ độ I.
Trung bình
HA những ngày cuối còn dao 
động và/hoặc HA khi ra viện ở 
độ II.
Không tốt
HA ngày cuối rất dao động và/
hoặc HA khi ra viện ở độ III và/
hoặc tình trạng BN được ghi 
nhận trong bệnh án là nặng hoặc 
tử vong.
2.4. Phương pháp xử lý số liệu nghiên cứu
- Số liệu sau khi thu thập được mã hóa và nhập 
vào máy tính bằng phần mềm Microsoft Excel 2010.
- Phần mềm thống kê SPSS 20.0 được sử dụng 
trong phân tích số liệu, thực hiện cả thống kê mô 
tả và suy luận, mức ý nghĩa thống kê α=0,05 được 
sử dụng trong thống kê suy luận.
- Đánh giá tương tác thuốc: sử dụng phần mềm 
tra tương tác thuốc online trên trang web: http://
www.drugs.com/drug_interactions.html.
3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân
Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới tính
Nhóm tuổi
Giới tính
Tổng
Tỷ lệ 
(%)
Tỷ lệ 
nữ/namBN 
nam
Tỷ lệ 
(%)
BN nữ
Tỷ lệ 
(%)
<50 19 4,9 12 3,1 31 8,0 0,63
50-59 44 11,3 41 10,6 85 21,9 0,93
60-69 41 10,6 48 12,4 89 22,9 1,17
70-79 37 9,5 64 16,5 101 26,1 1,73
≥80 44 11,3 38 9,8 82 21,1 0,86
Tổng 185 47,7 203 52,3 388 100,0 1,10
Tuổi thấp nhất 21 24 21
Tuổi cao nhất 98 97 98
Tuổi trung bình 
(năm)
66,78±15,16 68,29±12,78 67,57±13,97
Nhận xét: Tuổi trung bình của toàn mẫu là 67,57±13,97 năm. BN nằm trong độ tuổi từ 50-80 chiếm 
tổng số là 70,9%; tỷ lệ BN nữ (52,3%) cao hơn tỷ lệ BN nam (47,7%).
79 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 32
Bảng 3.2. Phân bố về tiền sử tăng huyết áp
Bệnh nhân Số lượng Tỷ lệ %
Có tiền sử THA 299 77,1
Không có tiền sử THA 78 20,1
Không rõ tiền sử THA 11 2,8
Tổng 388 100,0
Nhận xét: BN có tiền sử THA chiếm tỷ lệ cao nhất với 77,1%.
Bảng 3.3. Phân độ tăng huyết áp
Bệnh nhân Số lượng Tỷ lệ %
THA độ I 115 29,6
THA độ II 165 42,5
THA độ III 96 24,8
THA tâm thu đơn độc 12 3,1
Tổng 388 100,0
Nhận xét: BN thuộc nhóm THA độ II chiếm tỷ lệ cao nhất (42,5%) và thấp nhất là nhóm THA tâm 
thu đơn độc (3,1%).
Bảng 3.4. Tỷ lệ các yếu tố nguy cơ
STT Yếu tố nguy cơ Số BN Tỷ lệ %**
1 Hút thuốc lá 62 17,7
2 Béo phì 6 1,7
3 Đái tháo đường 129 36,8
4 Rối loạn lipid máu 224 63,8
5 Tuổi cao (nam>55; nữ>65 tuổi) 264 75,2
6 Tiền sử gia đình có người bị THA 7 2,0
** Tỷ lệ tính trên tổng số 351 BN có yếu tố nguy cơ (YTNC)
Nhận xét: Trong tổng số 388 BN trong mẫu nghiên cứu có 351 BN có YTNC kèm theo, 
chiếm tỷ lệ 90,5%. Tuổi cao và rối loạn lipid máu là hai YTNC phổ biến nhất lần lượt chiếm 
75,2% và 63,8%. 
Bảng 3.5. Tỷ lệ tổn thương cơ quan đích
Tổn thương cơ quan đích Số BN Tỷ lệ %**
Tim 112 28,9
Thận 137 35,3
Não 61 15,7
Mắt 5 1,3
** Tỷ lệ tính trên tổng số 388 BN nghiên cứu.
Nhận xét: Có 208 BN có tổn thương cơ quan đích (TTCQĐ) chiếm tỷ lệ khá cao với 53,6%.
80 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 32
3.2. Phân tích tình hình sử dụng thuốc
Bảng 3.6. Danh mục các nhóm thuốc hạ áp
Nhóm thuốc hạ áp Số BN Tỷ lệ %
Lợi tiểu
Furosemide
Spironolactone
Indapamide
254
71
67
116
65,5
18,3
17,3
29,9
Ức chế men chuyển
Imidapril
Perindopril
Enalapril
Lisinopril
Captopril
375
133
236
2
2
2
96,6
34,3
60,8
0,5
0,5
0,5
Ức chế thụ thể angiotensin
Losartan
Telmisartan
11
9
2
2,8
2,3
0,5
Chẹn β giao cảm
Bisoprolol
Metoprolol
69
67
2
17,8
17,3
0,5
Chẹn kênh calci
Amlodipine
Nifedipine
Nicardipine
277
221
24
32
71,4
57,0
6,2
8,2
Nhận xét: Có 5 nhóm thuốc hạ áp được sử dụng trong mẫu nghiên cứu trong đó nhóm ức chế men 
chuyển (ACEI) được sử dụng với tỷ lệ cao nhất là 96,6%. 
Bảng 3.7. Các liệu pháp điều trị
Liệu pháp điều trị
Khởi đầu Cuối
Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ %
Đơn trị liệu
Chẹn kênh calci 
Ức chế men chuyển 
Chẹn beta giao cảm 
Ức chế thụ thể của angiotensin
Thuốc lợi tiểu
137
63
52
12
3
7
35,3
16,2
13,4
3,1
0,8
1,8
148
71
58
9
4
6
38,1
18,3
15,0
2,3
1,0
1,5
Đa trị liệu
Phối hợp 2 nhóm thuốc
Chẹn kênh calci + lợi tiểu
Chẹn kênh calci + ức chế men chuyển
Ức chế men chuyển + lợi tiểu
Ức chế men chuyển + chẹn beta giao cảm
Ức chế thụ thể angiotensin + lợi tiểu 
Phối hợp 3 nhóm thuốc
Chẹn kênh calci + ức chế men chuyển + lợi tiểu
Chẹn kênh calci + ức chế men chuyển + chẹn beta giao cảm
Lợi tiểu + ức chế men chuyển + chẹn beta giao cảm
Phối hợp 4 nhóm thuốc
Chẹn kênh calci + ức chế men chuyển + chẹn beta giao cảm + 
lợi tiểu
251
221
39
103
71
2
6
28
17
7
4
2
2
64,7
57,0
10,1
26,6
18,3
0,5
1,5
7,2
4,4
1,8
1,0
0,5
0,5
240
202
26
41
124
4
7
35
15
13
7
3
3
61,9
52,1
6,7
10,6
32,0
1,0
1,8
9,0
3,9
3,3
1,8
0,8
0,8
Nhận xét: Tỷ lệ sử dụng phác đồ đa trị cao hơn tỷ lệ sử dụng phác đồ đơn trị trong cả liệu pháp khởi 
đầu (64,7%>35,3%) và liệu pháp cuối (61,9%>38,1%). 
81 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 32
Bảng 3.8. Các kiểu tương tác thuốc gặp phải
Tương tác thuốc Số BN Tỷ lệ %
Không 359 92,5
Có
Mức độ nặng 0 0,0
Mức độ trung bình
ACEI + Aspirin 21 5,4
ACEI + Digoxin 1 0,3
Mức độ nhẹ
Furosemide + Ciprofloxacin 2 0,5
Aspirin + Spironolactone 2 0,5
Furosemide + Aspirin 3 0,8
Nhận xét: Tỷ lệ BN gặp tương tác thuốc là 7,5%; trong đó tương tác giữa nhóm ức chế men chuyển 
và aspirin gặp nhiều nhất với tỷ lệ 5,4%. 
Bảng 3.9. Chỉ định sử dụng thuốc hợp lý trong mẫu nghiên cứu
Sử dụng thuốc Số BN Tỷ lệ %
Hợp lý 327 84,3
Chưa hợp lý 61 15,7
Tổng 388 100,0
p<0,05
Nhận xét: Có 327 BN được chỉ định hợp lý, chiếm tỷ lệ là 84,3%.
3.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc
Bảng 3.10. Đánh giá hiệu quả kiểm soát huyết áp
Huyết áp mục tiêu Số BN Tỷ lệ %
Đạt 261 67,3
Không đạt 127 32,7
Tổng 388 100,0
p<0,05
Nhận xét: Trước khi ra viện, tỷ lệ BN đạt được HAMT là 67,3%; cao hơn tỷ lệ BN không đạt được 
HAMT (32,7%).
Bảng 3.11. Phân bố bệnh nhân theo đánh giá tình trạng khi xuất viện
Mức độ đánh giá Số BN Tỷ lệ %
Tốt 317 81,7
Trung bình 63 16,2
Không tốt 8 2,1
Tổng 388 100,0
Nhận xét:Phần lớn BN có tình trạng khi xuất viện được đánh giá là tốt chiếm 81,7%.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân
- Về tuổi: Trong nghiên cứu, tuổi trung bình 
của toàn mẫu là 67,57±13,97 năm. BN nằm trong 
độ tuổi từ 50-80 chiếm tổng số là 70,9%. THA tập 
trung ở độ tuổi 50-80 có thể giải thích do sự lão 
hóa thường đi kèm với sự thay đổi cấu trúc, chức 
năng hệ tim mạch. Hệ thống ĐM lão hóa sẽ giảm 
khả năng trao đổi chất, giảm tính thấm đối với các 
chất có phân tử lượng lớn và dần dần sẽ trở thành 
tình trạng bệnh lý.
- Về giới: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ 
82 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 32
BN nữ (52,3%) cao hơn tỷ lệ BN nam (47,7%), 
kết quả này tương tự như nghiên cứu của Ngô Trí 
Diễm (nữ là 52,1%) và Nguyễn Văn Thọ (nữ là 
54,5%) [1], [3]. Tỷ lệ lớn BN nữ điều trị THA tại 
Khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Trường Đại học Y 
Dược Huế có thể liên quan tới phát hiện cho rằng 
phụ nữ dường như nhận biết, quan tâm và tuân thủ 
điều trị THA hơn nam giới.
- Tiền sử tăng huyết áp: Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, BN có tiền sử THA chiếm tỷ lệ 77,1%. 
BN có tiền sử THA chiếm tỷ lệ cao do đa phần BN 
điều trị nội trú tại Khoa Nội Tim mạch Bệnh viện 
Trường Đại học Y Dược Huế đã được phát hiện 
THA từ các bệnh viện tuyến dưới hoặc từ khám 
bệnh ngoại trú.
- Phân độ tăng huyết áp: BN thuộc nhóm 
THA độ II chiếm tỷ lệ cao nhất (42,5%) và thấp 
nhất là nhóm THA tâm thu đơn độc (3,1%). Kết 
quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn 
Trung Tường và cộng sự với tỷ lệ THA độ II cao 
nhất (42,61%) và tỷ lệ THA tâm thu đơn độc thấp 
nhất (4,77%) [5].
- Yếu tố nguy cơ: Trong tổng số 388 BN trong 
mẫu nghiên cứu có 351 BN có YTNC kèm theo, 
chiếm tỷ lệ 90,5%. 
Tuổi cao và rối loạn lipid máu là hai YTNC 
phổ biến nhất lần lượt chiếm 75,2% và 63,8%. 
Tuổi cao là YTNC phổ biến của THA do nó kèm 
theo sự lão hóa và suy giảm hoạt động của các 
cơ quan như tim, thận. Theo JNC VII, với những 
người trên 55 tuổi thì có 90% nguy cơ THA 
[10]. Rối loạn lipid máu có thể dẫn tới xơ vữa 
mạch máu não cũng như mạch máu của toàn bộ 
cơ thể, làm cho lòng mạch bị chít hẹp, cấu trúc 
thành mạch không ổn định dẫn đến dễ gây vỡ 
mạch máu khi có THA. Do đó việc điều trị rối 
loạn lipid máu là một việc rất quan trọng trong 
điều trị THA.
- Tổn thương cơ quan đích: Trong nghiên cứu 
có 208 BN có tổn thương cơ quan đích (TTCQĐ) 
chiếm tỷ lệ 53,6%; tỷ lệ BN có TTCQĐ khá cao 
có thể lý giải là do phần lớn BN trong mẫu nghiên 
cứu có phân độ THA là độ II (42,5%), độ III 
(24,8%) và BN có tiền sử THA chiếm tỷ lệ khá 
lớn (77,1%). TTCQĐ là hậu quả phổ biến của tình 
trạng THA theo thời gian.
4.2. Phân tích tình hình sử dụng thuốc
- Danh mục các nhóm thuốc: Có 5 nhóm 
thuốc hạ áp được sử dụng trong mẫu nghiên 
cứu. Tất cả các nhóm thuốc này đều nằm trong 
danh mục các thuốc hạ áp theo khuyến cáo điều 
trị THA của Hội Tim mạch học Việt Nam năm 
2008 cũng như các khuyến cáo của JNC VII và 
ESH/ESC 2007 [2], [7], [10].
Trong nghiên cứu, nhóm thuốc ức chế men 
chuyển (ACEI) được sử dụng với tỷ lệ cao nhất là 
96,6%. Lý do nhóm thuốc này được sử dụng với tỷ 
lệ cao nhất là do đặc điểm BN trong nhóm nghiên 
cứu có đến 77,6% nằm trong nhóm chỉ định bắt 
buộc như suy tim, bệnh thận, đái tháo đường, sau 
nhồi máu cơ tim. Theo nhiều thử nghiệm lâm sàng 
cũng như các khuyến cáo của JNC, WHO hay Hội 
Tim mạch học Việt Nam thì ức chế men chuyển sử 
dụng được trong tất cả các trường hợp có chỉ định 
bắt buộc [7], [10].
Sau ức chế men chuyển thì nhóm chẹn kênh 
calci và lợi tiểu cũng được sử dụng với tỷ lệ cao 
lần lượt là 71,4% và 65,5%. Theo nhiều hướng 
dẫn điều trị thì lợi tiểu và chẹn kênh calci là hai 
nhóm thuốc được sử dụng đầu tay trong điều trị 
THA do hiệu quả hạ áp cũng như khả năng phòng 
ngừa các biến cố tim mạch [9].
- Các liệu pháp điều trị: Tỷ lệ sử dụng phác 
đồ đa trị cao hơn tỷ lệ sử dụng phác đồ đơn trị 
trong cả liệu pháp khởi đầu (64,7%>35,3%) và 
liệu pháp cuối (61,9%>38,1%). Phác đồ đa trị 
được sử dụng nhiều do đặc điểm mẫu có số BN 
thuộc nhóm THA phân độ II, III chiếm tỷ lệ cao 
(67,3%). Đối với nhóm BN này để đạt được 
huyết áp mục tiêu (HAMT) cần phối hợp từ hai 
thuốc trở lên.
Trong phác đồ đơn trị, chẹn kênh calci và ức 
chế men chuyển là hai nhóm thuốc được dùng phổ 
biến nhất trong cả liệu pháp khởi đầu (16,2% và 
13,4%) và liệu pháp cuối (18,3% và 15,0%), điều 
này phù hợp với kết quả chung của toàn nghiên 
cứu. Tuy nhiên trong phác đồ đơn trị thì tỷ lệ BN 
sử dụng nhóm thuốc lợi tiểu thấp hơn nhiều so với 
nhóm chẹn kênh calci và ức chế men chuyển. Lý 
giải cho điều này là do phần lớn BN trong nhóm 
nghiên cứu thuộc phân độ THA độ II, III (67,3%) 
và việc sử dụng thuốc lợi tiểu với phác đồ đơn trị 
83 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 32
liệu thì chỉ giúp kiểm soát được HA ở một tỷ lệ 
nhỏ BN THA độ I.
Về việc phối hợp thuốc trong phác đồ đa trị, 
với 5 nhóm thuốc hạ áp sử dụng trong mẫu nghiên 
cứu thì có 5 kiểu phối hợp với phác đồ 2 thuốc, 3 
kiểu phối hợp với phác đồ 3 thuốc và 1 kiểu phối 
hợp với phác đồ 4 thuốc. Tỷ lệ BN sử dụng phác 
đồ phối hợp 2 thuốc cao nhất trong cả liệu pháp 
điều trị khởi đầu (57,0%) và liệu pháp điều trị cuối 
(52,1%). Trong các kiểu phối hợp thuốc, chiếm tỷ 
lệ cao nhất trong cả liệu pháp điều trị khởi đầu và 
cuối là kiểu phối hợp giữa chẹn kênh calci + lợi 
tiểu, chẹn kênh calci + ức chế men chuyển và ức 
chế men chuyển + lợi tiểu. Đây là các kiểu phối 
hợp được Hiệp hội Tăng huyết áp Anh khuyến cáo 
nên sử dụng đầu tay trong điều trị THA [9].
- Tương tác thuốc: Phần lớn BN trong nghiên 
cứu thuộc nhóm BN cao tuổi nên ngoài THA BN 
còn mắc nhiều bệnh khác. Phải phối hợp thêm 
nhiều thuốc khác trong quá trình điều trị THA 
nên việc xảy ra tương tác thuốc là không thể tránh 
khỏi. Trong mẫu nghiên cứu, tỷ lệ BN gặp tương 
tác thuốc là 7,5%. Tuy nhiên, trong các tương tác 
thuốc gặp phải không có tương tác nào ở mức độ 
nặng, tất cả thuộc nhóm tương tác ở mức độ trung 
bình và nhẹ, trong đó tương tác giữa nhóm ức chế 
men chuyển và aspirin gặp nhiều nhất với tỷ lệ 
5,4%. Đây là một tương tác ở mức độ trung bình 
và xảy ra khá nhanh, kết quả làm giảm tác dụng 
hạ áp của thuốc ức chế men chuyển. Tuy nhiên 
theo Stockley thì việc sử dụng ức chế men chuyển 
với aspirin liều thấp (<100 mg) trong nhiều thử 
nghiệm lâm sàng cho thấy mức độ tương tác tương 
đối thấp, không làm ảnh hưởng tới hiệu quả hạ áp 
của thuốc ức chế men chuyển, sự nhạy cảm của 
tương tác này cũng tùy thuộc vào đáp ứng lâm 
sàng của BN. Vì vậy phối hợp này vẫn có thể sử 
dụng nhưng cần theo dõi HA chặt chẽ [8].
- Chỉ định sử dụng thuốc: Kết quả nghiên cứu 
cho thấy, có 327 BN được chỉ định hợp lý, chiếm 
tỷ lệ là 84,3%. So với kết quả nghiên cứu của Ngô 
Trí Diễm (50,8%) thì tỷ lệ BN được chỉ định sử 
dụng thuốc hợp lý trong nghiên cứu của chúng tôi 
cao hơn, có thể giải thích do trong nghiên cứu của 
chúng tôi có tỷ lệ phối hợp thuốc đúng khuyến cáo 
cao hơn, tỷ lệ dùng thuốc theo chỉ định bắt buộc 
cao hơn và tỷ lệ gặp tương tác thuốc thấp hơn [1].
4.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc
- Hiệu quả kiểm soát huyết áp: Trước khi ra viện, 
tỷ lệ BN đạt được HAMT là 67,3%; tỷ lệ BN không 
đạt được HAMT là 32,7%. Trong một số nghiên 
cứu tương tự, số BN đạt HAMT cũng chiếm tỷ lệ 
khá cao, kết quả của Ngô Trí Diễm là 63,8%; kết 
quả của Đặng Thị Thu Trang và cộng sự là 78,5% 
[1], [4]. Tỷ lệ BN đạt được HAMT trong nghiên 
cứu của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của 
Đặng Thị Thu Trang và cộng sự có thể giải thích 
do đặc điểm mẫu nghiên cứu của chúng tôi có tỷ 
lệ BN THA độ II, III cao hơn (67,3%>59,2%), khi 
HA nhập viện cao thì khả năng đạt HAMT sau khi 
điều trị cũng sẽ giảm đi nhiều.
- Tình trạng bệnh nhân khi xuất viện: Phần lớn 
BN có tình trạng khi xuất viện được đánh giá là tốt 
chiếm 81,7%; 16,2% được đánh giá là trung bình, chỉ 
có 2,1% được đánh giá là không tốt. Tỷ lệ BN được 
đánh giá có tình trạng tốt trước khi xuất viện trong 
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu 
của Nguyễn Văn Thọ (66,2%) [3]. Nguyên nhân là 
do trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Thọ, có nhiều 
trường hợp BN xin ra viện sớm khi mới hết triệu 
chứng nhưng chỉ số HA chưa ổn định, còn trong 
nghiên cứu của chúng tôi, đa số BN đều tuân thủ và 
chỉ ra viện khi có y lệnh của bác sĩ.
5. KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu tình hình sử dụng 
thuốc điều trị tăng huyết áp trên 388 bệnh nhân, 
tất cả các thuốc hạ áp gặp trong mẫu nghiên cứu 
đều nằm trong danh mục thuốc hạ áp theo khuyến 
cáo của Hội Tim mạch học Việt Nam. Trong đó ức 
chế men chuyển và chẹn kênh calci là hai nhóm 
thuốc được dùng phổ biến nhất (96,6% và 71,4%), 
phù hợp với đặc điểm lâm sàng nhóm nghiên cứu.
Về các liệu pháp điều trị, tỷ lệ sử dụng phác 
đồ đa trị cao hơn tỷ lệ sử dụng phác đồ đơn trị 
trong cả liệu pháp khởi đầu (64,7%>35,3%) và 
liệu pháp cuối (61,9%>38,1%). Chẹn kênh calci 
và ức chế men chuyển là hai nhóm thuốc được 
dùng phổ biến nhất trong cả liệu pháp khởi đầu 
đơn trị (16,2% và 13,4%) và liệu pháp cuối đơn trị 
(18,3% và 15,0%). Chẹn kênh calci + ức chế men 
chuyển và ức chế men chuyển + lợi tiểu là những 
84 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 32
liệu pháp khởi đầu đa trị phổ biến nhất, với tỷ lệ 
lần lượt là 26,6% và 18,3%. Ức chế men chuyển + 
lợi tiểu và chẹn kênh calci + ức chế men chuyển là 
những liệu pháp cuối đa trị phổ biến nhất, với tỷ lệ 
lần lượt là 32,0% và 10,6%.
Về việc dùng thuốc, tỷ lệ bệnh nhân gặp tương 
tác giữa thuốc hạ áp với các thuốc khác trong phác 
đồ là 7,5%. Trong đó kiểu tương tác gặp với tỷ lệ 
cao nhất là tương tác giữa ức chế men chuyển + 
aspirin chiếm tỷ lệ 5,4% (trong số 7,5% bệnh nhân 
có tương tác). Tỷ lệ bệnh nhân được chỉ định sử 
dụng thuốc hợp lý là 84,3%.
Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc trong điều 
trị cho thấy tỷ lệ bệnh nhân đạt huyết áp mục tiêu 
trước khi ra viện là 67,3%. Phần lớn bệnh nhân 
được đánh giá là có tình trạng tốt khi ra viện, 
chiếm 81,7%; 16,2% được đánh giá là trung bình, 
chỉ có 2,1% được đánh giá là không tốt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Trí Diễm (2006), Phân tích thực trạng sử 
dụng thuốc trong điều trị tăng huyết áp tại Bệnh 
viện Hữu Nghị đa khoa Nghệ An, Luận văn thạc 
sĩ dược học, Trường Đại học Dược Hà Nội, Hà 
Nội, tr.77-78.
2. Hội Tim mạch học Việt Nam (2008), “Khuyến 
cáo 2008 của Hội Tim mạch học Việt Nam: Chẩn 
đoán, điều trị THA ở người lớn”, Khuyến cáo 
2008 về các bệnh lý tim mạch và chuyển hóa, Ban 
biên soạn Chuyên đề Tim Mạch Học, Hà Nội, 
tr.235-293.
3. Nguyễn Văn Thọ (2012), Khảo sát tình hình sử 
dụng thuốc trong điều trị tăng huyết áp tại bệnh 
viện đa khoa huyện Lương Tài - Bắc Ninh, luận văn 
dược sỹ chuyên khoa I, Trường Đại học Dược Hà 
Nội, Hà Nội, tr.60-61.
4. Đặng Thị Thu Trang và cộng sự (2013), “Khảo sát 
tình hình sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp tại 
phòng khám tư vấn, kiểm soát THA và bệnh lý tim 
mạch do THA – Bệnh viện đa khoa Đức Giang”, 
Tạp chí Y học thực hành (873), tr.146-148.
5. Nguyễn Trung Tường và cộng sự (2014), “Khảo sát 
thực trạng sử dụng thuốc điều trị bệnh tăng huyết 
áp tại Khoa Tim mạch, Bệnh viện 19-8”, Tạp chí 
Y - Dược học quân sự (5-2014), tr.83-88.
6. Nguyễn Lân Việt (2007), Áp dụng một số giải pháp 
can thiệp thích hợp để phòng, chữa bệnh tăng huyết 
áp tại cộng đồng, Đề tài NCKH cấp Bộ, Viện Tim 
mạch Việt Nam, Hà Nội, tr.1-31.
7. European Society of Hypertension and European 
Society of Cardiology (2007), “2007 Guidelines for 
the management of arterial hypertension”, Journal 
of Hypertension (25), pp.1105-1160.
8. Karen B. (2008), “ACE inhibitors and Angiotensin II 
receptor antagonists”, Stockley’s Drug Interactions 
8th Ed, pp.14-16.
9. National Institute for Health and Clinical Excellence 
(2011), Hypertension: The Clinical Management of 
Primary Hypertension in Adults, National Clinical 
Guideline Centre, United Kingdom, pp.65-71.
10. The National High Blood Pressure Education 
Program (2003), The seventh report of the joint 
national committee on prevention, detection, 
evaluation, and treatment of high blood pressure, 
NIH Publication, The United States of America, 
pp.8-64.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tinh_hinh_su_dung_thuoc_trong_dieu_tri_tang_huyet.pdf