Ngôn ngữ học Tri nhận: Từ lập trường chung đến một số luận thuyết cơ bản
Tóm tắt
Bài báo này giới thiệu Ngôn ngữ học Tri nhận từ hai phối cảnh khác nhau. Trước tiên, bài
báo xem xét lập trường chung và thảo luận những liên đới của nó đối với các chủ đề nghiên
cứu của Ngôn ngữ học Tri nhận. Sau đó, bài báo trình bày một số luận thuyết cơ bản được
các nhà Ngôn ngữ học Tri nhận chấp nhận như những giáo lý hoặc nguyên lý chỉ đường.
Bạn đang xem tài liệu "Ngôn ngữ học Tri nhận: Từ lập trường chung đến một số luận thuyết cơ bản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngôn ngữ học Tri nhận: Từ lập trường chung đến một số luận thuyết cơ bản
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 7, Số 4, 2017 419–437 419 NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN: TỪ LẬP TRƯỜNG CHUNG ĐẾN MỘT SỐ LUẬN THUYẾT CƠ BẢN Dương Hữu Biêna* aKhoa Ngữ văn và Văn hóa học, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam Lịch sử bài báo Nhận ngày 09 tháng 05 năm 2017 Chỉnh sửa ngày 29 tháng 09 năm 2017 | Chấp nhận đăng ngày 02 tháng 10 năm 2017 Tóm tắt Bài báo này giới thiệu Ngôn ngữ học Tri nhận từ hai phối cảnh khác nhau. Trước tiên, bài báo xem xét lập trường chung và thảo luận những liên đới của nó đối với các chủ đề nghiên cứu của Ngôn ngữ học Tri nhận. Sau đó, bài báo trình bày một số luận thuyết cơ bản được các nhà Ngôn ngữ học Tri nhận chấp nhận như những giáo lý hoặc nguyên lý chỉ đường. Từ khóa: Ẩn dụ; Duy lý luận; Dựa trên sử dụng; Kết cấu; Kinh nghiệm luận; Ngôn ngữ học Tri nhận. 1. DẪN NHẬP Trong văn liệu ngôn ngữ học hiện thời, thuật ngữ Ngôn ngữ học Tri nhận thường có hai cách hiểu: Cách hiểu rộng và cách hiểu hẹp. Theo cách hiểu rộng, bất cứ cách tiếp cận nào coi ngôn ngữ chủ yếu như một hiện tượng tinh thần, được định vị trong óc của những người nói nó, đều có thể được coi là Ngôn ngữ học Tri nhận. Với cách hiểu này, bất cứ nhà ngôn ngữ học nào nhấn mạnh các thuộc tính hình thức của ngôn ngữ, hoặc cách dùng của chúng trong các ngôn cảnh tương tác, và thừa nhận những thuộc tính này bắt nguồn một cách sau cùng từ cách hành xử của những người nói cá nhân. Cách hành xử này, đến lượt mình, là một chức năng của các quá trình tri nhận và những biểu hiện tinh thần của họ, đều được coi là những nhà ngôn ngữ học tri nhận. Theo cách hiểu hẹp, và cũng là cách hiểu của bài viết, thuật ngữ này tham chiếu đến một phong trào vốn có gốc gác ở bờ Tây nước Mỹ vào những thập niên cuối của thế *Tác giả liên hệ: Email: biendh@dlu.edu.vn 420 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] kỷ XX như là sự phản ứng lại một số xu hướng về lý thuyết đang thịnh hành vào thời đó, ấy là Ngữ pháp Sản sinh – Cải biến của Chomsky (2006)1(1). Một cột mốc quan trọng là năm 1987, năm xuất bản Women, Fire, and Dangerous Things của Lakoff và tập đầu công trình hai tập Foundations of Cognitive Gammar của Langacker. Một lượng học giả khác cũng tham gia vào phong trào mới này. Các tên tuổi chủ chốt là Fauconnier (1994) với việc khảo sát các quá trình “kết cấu nghĩa” bằng cách thức của các không gian tinh thần (Dương, 2016a), và sau đó là sự pha trộn ý niệm (Fauconnier & Turner, 2002); Fillmore (2006) với nghiên cứu về nghĩa học khung; Talmy (2000) với những nghiên cứu sâu về cấu trúc ý niệm và nghĩa học ý niệm (Dương, 2016b). Về mặt tổ chức, Ngôn ngữ học Tri nhận (Cognitive Linguistics - CL) có thể coi là được hình thành vào năm 1991, năm chứng kiến Hội nghị Quốc tế Ngôn ngữ học Tri nhận lần thứ nhất, được René Dirven tại Đại học Duisburg (Đức) đăng cai. Hội nghị này là cơ hội cho việc thành lập Hội Ngôn ngữ học Tri nhận Quốc tế (International Cognitive Linguistics Association), từ đó cứ hai năm gặp gỡ một lần liên tục đến tận ngày nay, và cũng là cơ hội cho sự ra đời tạp chí Ngôn ngữ học Tri nhận, cơ quan xuất bản chính trong địa hạt này, mà Langacker là Tổng biên tập đầu tiên. Từ đó, phong trào này dần dần thu hút nhiều người tham gia trên toàn thế giới, cùng với sự mở rộng phạm vi lý thuyết và tầm miêu tả của nó. Trong khi vào những năm đầu, các nhà CL có xu hướng nhấn mạnh thế đối lập luận chiến của mình về phân tích ngôn ngữ học với những cách tiếp cận phái Chomsky, thì những năm về sau đã chứng kiến một mức độ hội tụ nhất định, và thậm chí đối thoại, với các học giả đang làm việc trong các đường hướng khác, chẳng hạn như chức năng luận, ngôn ngữ học tâm lý, ngôn ngữ học lịch sử, nghiên cứu khối liệu, và sự thụ đắc ngôn ngữ (cả ngôn ngữ thứ nhất lẫn ngôn ngữ thứ hai). Hiện nay, CL coi nó như một xu hướng chủ đạo, và những quan tâm lẫn cương lĩnh nghiên cứu của nó được chia sẻ rộng rãi hơn với phạm vi rộng các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. Bài viết này trước hết suy xét lập trường triết học chung và một số liên đới của nó cho những chủ đề nghiên cứu CL. Sau đó giới thiệu một số luận thuyết cơ bản được các 1Do vậy, trong bài viết này, chúng tôi viết hoa chữ N (trong từ Ngôn) và chữ T (trong từ Tri) để chỉ Ngôn ngữ học Tri nhận theo cách hiểu hẹp này. Dương Hữu Biên 421 nhà CL chấp nhận như những giáo lý hoặc nguyên lý chỉ đường. 2. KINH NGHIỆM LUẬN - LẬP TRƯỜNG TRIẾT HỌC CHUNG CỦA CL Theo Evans và Green (2006), CL không phải là một lý thuyết về ngôn ngữ có tích hợp và thống nhất, mà đúng ra là tập hợp những cách tiếp cận có liên quan, với một lượng giả định chung và quan tâm nghiên cứu được chia sẻ. Nếu xét theo cội nguồn và quá trình phát triển, dễ thấy rằng xuyên suốt hầu như lịch sử buổi đầu của CL là phương diện luận chiến của nó, ở chỗ nó có chủ định xác định bản thân nó trong thế đối lập với các chủ đề, các giả định, và cương lĩnh nghiên cứu của những cách tiếp cận phái Chomsky. Tính luận chiến này có thể được nêu đặc điểm trên cơ sở lập trường kinh nghiệm luận (empiricist stance) của CL chống lại cách tiếp cận duy lý luận (rationalist approach) chiếm ưu thế vào thời ấy của Chomsky và trường phái của ông. Bằng việc kiên định lập trường kinh nghiệm luận, các nhà CL hoài nghi quan niệm cho rằng ngôn ngữ cấu thành một mô-đun tự trị trong não bộ, được gói gọn từ những năng lực tinh thần khác; Rằng sự thụ đắc diễn ra phù hợp với một thiết kế được thừa hưởng về mặt di truyền; Và rằng kiến trúc tổng thể của một ngôn ngữ do các thông số của Ngữ pháp Phổ quát2(2) quyết định. Đúng ra, sự nhấn mạnh phải là vào tính nghiệm thân của tri thức ngôn ngữ trong những năng lực tri nhận chung, vào vai trò của đầu vào, xã hội hóa, và các cơ chế học tập chung về sự thụ đắc, và vào cấu trúc ngôn ngữ như đang nổi lên từ cách dùng của nó trong các ngôn cảnh giao tiếp. Dưới đây chúng ta sẽ suy xét một số liên đới của lập trường kinh nghiệm luận, và ảnh hưởng của chúng đến nghiên cứu CL. 2 Trong ngôn ngữ học, Ngữ pháp Phổ quát (Universal Grammar) là lý thuyết về thành tố di truyền của năng lực ngôn ngữ, thường được cho là của Chomsky (2006). Định đề cơ bản của Ngữ pháp Phổ quát cho rằng ngôn ngữ được kiểm soát trong não bộ. Nó đôi khi được biết như là “ngữ pháp tinh thần”, và đứng vào thế đối lập với các “ngữ pháp” khác, như ngữ pháp tập quán, ngữ pháp miêu tả, ngữ pháp sư phạm,... Ngữ pháp Phổ quát đề xuất rằng năng lực ngôn ngữ trở nên hiển nhiên không cần được dạy, và rằng có những thuộc tính mà mọi ngôn ngữ tự nhiên của con người đều chia sẻ. Vấn đề là ở chỗ cần phải quan sát và thử nghiệm để quyết định chính xác những năng lực gì là bẩm sinh và những thuộc tính gì được mọi ngôn ngữ chia sẻ. Lý thuyết Ngữ pháp Phổ quát đề xuất rằng loài người được nuôi dưỡng dưới những điều kiện thông thường, sau đó họ sẽ luôn luôn phát triển ngôn ngữ với những thuộc tính nhất định. Lý thuyết này cũng đề xuất rằng có một năng lực ngôn ngữ được xác định về mặt di truyền, bẩm sinh biết các quy tắc ấy, làm nó dễ hơn và nhanh hơn cho trẻ con học ngôn ngữ. Năng lực này không biết từ vựng của ngôn ngữ cụ thể bất kỳ (do vậy các từ và nghĩa của chúng cần phải được học), và vẫn có vài thông số có thể thay đổi tự do giữa các ngôn ngữ (chẳng hạn như tính từ đi trước hoặc sau danh từ), chúng cũng cần phải được học. Như Chomsky (2006) từng diễn đạt: “Một cách hiển nhiên, sự phát triển của ngôn ngữ ở cá nhân cần phải bao gồm ba nhân tố: (1) Thiên tư di truyền, nó thiết lập các giới hạn về những ngôn ngữ có thể đạt tới được, bằng cách ấy làm cho việc thụ đắc ngôn ngữ là khả hữu; (2) Các dữ liệu bên ngoài, được biến đổi thành kinh nghiệm chọn lựa ngôn ngữ này hay ngôn ngữ khác trong phạm vi một tầm hẹp; (3) Những nguyên lý không chỉ định rõ năng lực ngôn ngữ.” 422 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 2.1. Lập trường kinh nghiệm luận thừa nhận có sự tri nhận nền nằm đằng sau các biểu thức ngôn ngữ Như trên đã nói, các nhà CL hoài nghi quan niệm cho rằng ngôn ngữ cấu thành một mô-đun tự trị trong trí óc, được gói gọn từ những năng lực tinh thần khác. Do vậy, họ cũng hoài nghi các cấu trúc sâu và hệ thống các phép cải biến dùng biến đổi những biểu hiện cú pháp sâu thành các dạng thức bề mặt. Càng ngày, các nhà CL càng nhận thức rõ rằng cấu trúc nghĩa lại phức tạp hơn nhiều so với cấu trúc được biểu trưng bằng các yếu tố của cấu trúc bề mặt. Theo các nhà CL, sở dĩ như vậy là vì có một lượng lớn sự tri nhận nền (background cognition) đang diễn ra trong việc hiểu các biểu thức ngôn ngữ bề mặt, kể cả những phát ngôn đơn giản nhất. Những nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ sự tri nhận nền này từng tạo ra một số phát triển gây tranh luận sôi nổi và hứng thú trong CL ở giai đoạn đầu. Có thể dẫn ra đây ba nghiên cứu điển hình như những minh họa: Đó là việc vận dụng và mở rộng các khái niệm điểm quy chiếu (reference point) và chủ quan hóa (subjectification) của Langacker (1991). Khái niệm điểm quy chiếu của Langacker (1991) ban đầu được áp dụng với các biểu thức sở hữu, nơi kẻ sở hữu được coi như một điểm quy chiếu cho việc cung cấp truy cập tinh thần đến cái được sở hữu, nhưng về sau được mở rộng sang nhiều khu vực khác nhau, như hoán dụ, các mô hình bổ ngữ, đề hóa, và các kết cấu “chủ ngữ kép” của tiếng Nhật và tiếng Hàn. Chủ quan hóa của Langacker (1991, 2008) đề cập đến quan hệ giữa kẻ ý niệm và cái được ý niệm, tức giữa người nói và những chu cảnh của người nói và nội dung công khai của một biểu thức, nó cũng được vận dụng để nghiên cứu thì và tình thái, lập trường tri thức luận, và là một nhân tố quan trọng về sự biến đổi ngữ nghĩa-từ vựng; Đó là nghiên cứu của Talmy (2000) về động lực học (force dynamics). Động lực học của Talmy (2000) phát triển trực giác cho rằng những tương tác có thể được xem xét trên cơ sở sức mạnh tương đối và động lực cố hữu của các thực thể đang tương tác (Dương, 2016b). Nó từng được vận dụng dày đặc để nghiên cứu sự gây khiến, sự cản trở, sự ngăn chặn, và những biểu thức tình thái; Dương Hữu Biên 423 Những nghiên cứu về pha trộn ý niệm (conceptual blending) của Fauconnier và Turner (2002). Pha trộn ý niệm là quá trình nhờ đó các yếu tố của hai hoặc nhiều cấu trúc ý niệm được kết hợp một cách sáng tạo thành một cấu trúc nổi bật mới. Sự pha trộn từng được áp dụng với những nghiên cứu về ẩn dụ và về truyện kể, và với nhiều phương diện của tri nhận phi ngôn ngữ. 2.2. Lập trường kinh nghiệm luận coi cơ sở nghĩa ý niệm là động cơ thúc đẩy nghiên cứu CL Trong quan niệm của CL, tổ chức cú pháp có thể được “biểu lộ” một cách đầy đủ từ những biểu hiện nghĩa (semantic representations). Quan niệm này có thể biện hộ được nếu dựa vào tính đa dạng khổng lồ về tổ chức cú pháp trong các ngôn ngữ của thế giới, thậm chí sự biến dạng giữa các phương ngữ của cùng ngôn ngữ, và sự thiếu vắng những phương tiện độc lập cho việc xác lập tính đa dạng tương ứng trong các biểu hiện nghĩa. Vì vậy, các nhà CL luôn nhấn mạnh động cơ thúc đẩy ngữ nghĩa, ngữ dụng, diễn ngôn, của cấu trúc ngôn ngữ. Mặt khác, việc viện đến động cơ thúc đẩy này dùng để giảm bớt tính tùy tiện của những thực tế ngôn ngữ được lĩnh hội, nhờ đó nâng cao tính có thể học được của chúng và tính lâu bền của chúng trong một ngôn ngữ. Quan sát, như một dẫn chứng, cương vị của các danh từ tiếng Anh như là đơn vị hoặc khối, và, trong trường hợp khối, luôn luôn là số ít hoặc luôn luôn là số nhiều. Như đã đề cập, các nhà CL có thể ưa nhấn mạnh cơ sở nghĩa ý niệm (semantic-conceptual basis) đối với các phạm trù này. Đồng thời, chúng ta từng đối mặt với tính đa dạng xuyên ngôn ngữ liên quan đến cương vị của các danh từ theo các thông số này, do vậy làm cho có vẻ không hợp lý khả năng của một ánh xạ trực tiếp từ nghĩa đến hình thức. Ví dụ, tại sao information là một danh từ khối số ít trong tiếng Anh, trong khi tương ứng dịch của nó trong nhiều ngôn ngữ châu Âu khác là một danh từ đơn vị? Hoặc tại sao shorts (một món y phục) là danh từ khối số nhiều? Tuy nhiên, theo Taylor (2002), trong phạm vi một ngôn ngữ cho sẵn, một logic nhất định có thể nhận thấy được, làm cho tình huống xa với sự võ đoán. Vả lại, cương vị của một danh từ cho sẵn được cố định là rất hiếm; Trong các ngôn cảnh thích hợp, nó có thể gánh vác những cương vị khác nhau phù hợp với logic được khai thác trong phạm vi ngôn ngữ đang bàn. 424 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 2.3. Lập trường kinh nghiệm luận chú trọng các hiện tượng bề mặt để rút ra những khái quát hóa Với Langacker (1987), các đối tượng duy nhất của nghiên cứu ngôn ngữ học là những phát ngôn bị ràng buộc ngữ cảnh đang xuất hiện về mặt thực tại và những khái quát hóa qua các phát ngôn ấy. Do vậy, cái được gọi là “đòi hỏi nội dung” (content requirement) của Langacker (1987) bị loại trừ về nguyên tắc. Mặt khác, với tư cách là các yếu tố của miêu tả ngôn ngữ học, các đối tượng là “vô hình” (và không thể nghe thấy được) chẳng hạn như PRO, các dấu vết, và các khoảng trống; Ý tưởng về các cấu trúc “sâu” có thể “được cải biến”, hoặc các thành tố của chúng có thể bị “chuyển vị” hoặc “bị xóa” - vốn là những yếu tố của miêu tả ngôn ngữ học điển hình trong Ngữ pháp Sản sinh- Cải biến - cũng bị loại bỏ. Tuy nhiên, nét đặc thù của CL đối với định hướng bề mặt là ở chỗ nó không phủ nhận rằng những người nói tạo ra các khái quát hóa qua những phát ngôn được bắt gặp. Chính theo những khái quát hóa này (tức các lược đồ theo hệ thuật ngữ của Langacker (1987)) mà những người nói có thể mở rộng thêm sự tái sinh của những biểu thức vừa mới được bắt gặp. Vấn đề cốt yếu là nội dung của những khái quát hóa này, nhất là mức độ trừu tượng hóa của chúng đối diện với những trường hợp cụ thể của chúng. Trên đại thể, các nhà ngôn ngữ học có xu hướng theo đuổi những khái quát hóa cấp cao - cái cao hơn và tốt hơn - trong khi bao phủ, nếu không phải cho một ngôn ngữ, thì ít ra là một phạm vi rộng các hiện tượng như có thể. Với nhiều người, “làm ngôn ngữ học”, một cách chính xác, cốt ở sự truy tìm những khái quát hóa như thế. Trái lại, một đặc trưng đáng chú ý của CL là sự nhận thức rõ rằng sự thành thạo về một ngôn ngữ bao gồm, không phải ở sự hiểu biết một lượng nhỏ những khái quát hóa rất rộng, mà ở sự hiểu biết một loạt các sự kiện riêng lẻ, kể cả những ký ức của các phát ngôn riêng bên cạnh những khái quát hóa cấp tương đối thấp, không quá xa với những hiện tượng bề mặt. Một phương diện khác liên quan đến quan hệ giữa những khái quát hóa, dù mức độ trừu tượng hóa của chúng thế nào, và những dữ liệu mà chúng được hỗ trợ để đạt được. Cách tiếp cận tiêu chuẩn này theo đuổi sự tiết kiệm tối đa của kho lưu trữ tinh thần. Do vậy, hiểu biết một quy tắc xóa bỏ nhu cầu lưu trữ các ví dụ về những vận dụng của quy tắc đó (và trên cơ sở của nó, về mặt tiền ước, quy tắc được trừu xuất trước tiên). Nếu anh biết làm thế nào để thành lập một cú bị động, hoặc một ngữ đoạn giới từ, thì anh không Dương Hữu Biên 425 cần lưu trữ những trường hợp cụ thể của các cú bị động hay các ngữ đoạ ... ính và cách nhìn của những nhà Ngôn ngữ học Tri nhận.” Mặt khác, Giáo sư Nguyễn Lai cũng cho rằng “nghiệm thân ở đây là vấn đề vừa giác quan vừa trí tuệ của con nguời. Nói cách khác, đó là CON NGUỜI vừa sinh vật vừa xã hội đuợc hình thành và phát triển qua tương tác xã hội, ngày càng có khả năng tác động tích cực trở lại tương tác xã hội một cách có ý thức. Chỉ với “cảm hứng về hiện tuợng nghiệm thân” theo tinh thần trên, ta mới tránh được xu thế sinh vật hóa con nguời xã hội trong cách vận dụng cơ chế nghiệm thân. Và chỉ có được cảm hứng về nghiệm thân theo cách ấy, cuối cùng ta mới có điều kiện CHỦ ÐỘNG CƠ CHẾ HÓA ÐỘNG LỰC XÃ HỘI VÀO SỨC MẠNH TRÍ TUỆ CỦA CHÍNH CON NGUỜI để từ cách nhìn này, tu duy con nguời cần phải ảnh huởng sâu đến trải nghiệm đuợc nghiệm thân.” Chúng tôi hoàn toàn chia sẻ với Giáo sư Nguyễn Lai về những nhận định và đánh giá này. Nhân đây, xin cảm ơn về các trao đổi của Giáo sư. 432 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 3.2. Luận thuyết nghĩa học bách khoa Luận thuyết này là cách tiếp cận chung đến nghĩa học được chấp nhận trong Nghĩa học Tri nhận. Có năm thừa nhận then chốt làm nên luận thuyết này. Thứ nhất, không có sự khu biệt mang tính nguyên tắc giữa ngữ nghĩa và ngữ dụng, tức không có khu biệt giữa một mặt nghĩa “cốt lõi”, và mặt khác nghĩa ngữ dụng, hoặc nghĩa xã hội hay văn hóa. Thứ hai, tri thức bách khoa có cấu trúc: Các cấu trúc tri thức mà các từ cung cấp truy cập nhằm biểu hiện một danh mục tri thức có tổ chức. Thứ ba, nghĩa bách khoa nảy sinh trong (các)ngôn cảnh sử dụng, do vậy mà “sự tuyển lựa” nghĩa bách khoa được các nhân tố ngôn cảnh cung cấp. Ví dụ, từ safe có thể có các nghĩa khác nhau phụ thuộc vào ngôn cảnh sử dụng cụ thể. Safe có thể có nghĩa là “không chắc làm phương hại” khi được dùng trong ngôn cảnh một đứa trẻ chơi với một cái xẻng. Safe có thể có nghĩa “không chắc xảy ra phương hại” khi được dùng trong ngôn cảnh của một bãi biển có an ninh như một khu nghỉ dưỡng du lịch. Thứ tư, cách tiếp cận bách khoa coi các yếu tố từ vựng như là những điểm truy cập đến tri thức bách khoa. Vì vậy, các từ cung cấp về mặt lựa chọn truy cập các phần cụ thể về tiềm năng nghĩa rộng lớn của tri thức bách khoa. Thứ năm, trong khi nghĩa trung tâm được liên hội với một từ là tương đối ổn định, thì tri thức bách khoa mà mỗi từ cung cấp truy cập là năng động. Chẳng hạn, tri thức mà ý niệm từ vựng [car] cung cấp truy cập tiếp tục được bổ sung như một kết quả của sự tương tác đang trong diễn trình của chúng ta với xe cộ và sự thụ đắc tri thức của chúng ta về xe cộ nói chung. 3.3. Luận thuyết cấu trúc nghĩa là cấu trúc ý niệm Luận thuyết này xác nhận rằng ngôn ngữ tham chiếu đến các ý niệm trong tư duy của người nói một cách trực tiếp hơn là đến các thực thể được chỉ định trong một thế giới hiện thực khách quan ngoại tại. Nói cách khác, cấu trúc nghĩa (các nghĩa được liên hội về mặt ước định với các từ và các đơn vị ngôn ngữ khác) có thể được làm ngang bằng với cấu trúc ý niệm (tức các khái niệm). Cách nhìn này mâu thuẫn trực tiếp với phối cảnh “sở thị” của một số cách tiếp cận hình thức đến nghĩa, mà các nhà Ngữ nghĩa học Tri nhận đôi khi tham chiếu như là nghĩa học khách quan luận (objectivist semantics). Tuy nhiên, sự thừa nhận rằng cấu trúc ngữ nghĩa có thể được làm ngang bằng với cấu trúc niệm không có nghĩa rằng hai cái này là đồng nhất. Thay vào đó, các nhà Ngữ Dương Hữu Biên 433 nghĩa học Tri nhận thừa nhận rằng các nghĩa được liên hội với các đơn vị ngôn ngữ, chẳng hạn như các từ, cấu thành duy nhất một tập hợp các khái niệm khả hữu. Sau cùng, chúng ta có nhiều tư tưởng, ý niệm và cảm nhận hơn chúng ta có thể mã hóa về mặt ước định bằng ngôn ngữ. Chẳng hạn, như Langacker (1987) quan sát, chúng ta có một ý niệm cho vị trí trên khuôn mặt chúng ta nằm dưới mũi và trên miệng nơi ria mép mọc ra. Chúng ta cần phải có một khái niệm cho phần khuôn mặt này để hiểu rằng lông mọc ra ở đó được gọi là ria. Theo đó, tập hợp các khái niệm từ vựng, các đơn vị nghĩa được liên hội về mặt ước định với các đơn vị ngôn ngữ - chẳng hạn như các từ - chỉ là một tiểu tập hợp của tập hợp đầy đủ các khái niệm trong tư duy của người nói, người nghe (Evans & Green, 2006). Mặt khác, sự kết cấu nghĩa là ý niệm hóa. Bản thân ngôn ngữ không mã hóa nghĩa. Thay vào đó, như chúng ta từng thấy, các từ (và các đơn vị ngôn ngữ khác) chỉ là “những nhắc nhở” cho sự kết cấu nghĩa. Theo đó, nghĩa được kết cấu tại cấp độ ý niệm. Tóm lại, sự kết cấu nghĩa được làm ngang bằng với ý niệm hóa, quá trình nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ dùng như những nhắc nhở cho sự sắp xếp các thao tác ý niệm và sự tuyển dụng tri thức nền. Nghĩa là một quá trình hơn là một “thứ” rời rạc có thể “được đóng gói” bằng ngôn ngữ. 3.4. Luận thuyết tín hiệu Luận thuyết này cho rằng đơn vị cơ sở của ngữ pháp là một sự cặp đôi hình thức - nghĩa, hoặc đơn vị tín hiệu. Đơn vị tín hiệu này được gọi là “sự lắp ráp tín hiệu” (symbolic assembly) trong Ngữ pháp Tri nhận8(8) của Langacker (1987), hoặc “kết cấu” (construction) trong những cách tiếp cận ngữ pháp kết cấu (Ví dụ: Ngữ pháp kết cấu tri nhận của Goldberg (1995)). Nói một cách hình ảnh, các đơn vị tín hiệu này chạy gam từ các khuôn hình cú pháp khung, chẳng hạn như các kết cấu song bổ ngữ (hoặc bổ ngữ kép) (được diễn đạt bằng John baked Mary a cake) đến các thành ngữ (kiểu như kick the bucket), đến các hình vị ràng buộc kiểu như hậu tố -er, đến các từ. Một cách chính xác hơn, luận thuyết tín hiệu cho rằng ngữ pháp tinh thần gồm một hình thức, một đơn vị 8Theo Evans và Green (2006), CL gồm hai bộ phận: Ngữ nghĩa học Tri nhận và Ngữ pháp Tri nhận. Đến lượt mình, Ngữ pháp Tri nhận gồm hai xu hướng chính: (i) Mô hình Ngữ pháp Tri Nhận theo cách lập thức riêng của Langacker, và (ii) Những cách tiếp cận tri nhận đến ngữ pháp. 434 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] nghĩa, và sự tương ứng tín hiệu nêu quan hệ cả hai. Cấu trúc quan hệ cấu thành, và do vậy bản chất kết hợp của ngôn ngữ, là một chức năng của các đơn vị tín hiệu được tích hợp hoặc được hòa đúc để tạo ra các đơn vi ngữ pháp lớn hơn. Điều này cũng dẫn ý rằng cách tiếp cận mô-đun đến ngôn ngữ và tư duy không thể được ủng hộ về mặt nghĩa trong phạm vi CL, nơi ranh giới giữa Nghĩa học Tri nhận và những cách tiếp cận tri nhận đến ngữ pháp ít được định nghĩa một cách rõ ràng. Thay vào đó, nghĩa và ngữ pháp được xem là phụ thuộc qua lại lẫn nhau và bổ sung nhau. Cùng với luận thuyết dựa trên sử dụng, luận thuyết tín hiệu được coi là một trong hai nguyên lý dẫn đường của những cách tiếp cận đến ngữ pháp. Bằng việc chấp nhận luận thuyết tín hiệu, các cách tiếp cận tri nhận đến ngữ pháp không bị hạn định với việc nghiên cứu các phương diện của cấu trúc ngữ pháp một cách độc lập với nghĩa, như thường vốn thấy trong ngôn ngữ học hình thức. Thay vào đó, các cách tiếp cận tri nhận đến ngữ pháp bao gồm danh mục đầy đủ các đơn vị ngôn ngữ được định nghĩa như là những sự cặp đôi hình thức-nghĩa. 3.5. Luận thuyết dựa trên sử dụng Luận thuyết này cho rằng ngữ pháp tinh thần của người dùng ngôn ngữ được thành lập bằng sự trừu xuất các đơn vị tín hiệu khỏi những trường hợp cụ thể của sử dụng ngôn ngữ có tình huống: Các phát ngôn, những sự kiện sử dụng riêng liên quan đến những đơn vị tín hiệu vì những mục đích của việc báo hiệu những chủ định giao tiếp cục bộ và quan yếu về mặt ngôn cảnh. Một hệ quả quan trọng của việc chấp nhận luận thuyết này là ở chỗ không có sự khu biệt có tính nguyên lý giữa tri thức ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ (thẩm năng và dụng ngôn, theo các thuật ngữ Ngữ pháp Tạo sinh), vì tri thức nổi lên từ sử dụng. Từ phối cảnh này, tri thức ngôn ngữ là tri thức về ngôn ngữ được sử dụng như thế nào. Cùng với luận thuyết tín hiệu, luận thuyết dựa trên sử dụng được coi là một trong hai nguyên lý dẫn đường của những cách tiếp cận tri nhận đến ngữ pháp. Ngoài ra, luận thuyết dựa trên sử dụng cũng còn là trung tâm cả với những cách tiếp cận đến biến đổi ngôn ngữ và thụ đắc ngôn ngữ đòi hỏi một phối cảnh tri nhận, như từng được phát triển trong Tomasello (2003) và Croft (2001). Dương Hữu Biên 435 4. KẾT LUẬN Bài viết này đã suy xét lập trường triết học chung và một số liên đới của nó đối với những chủ đề nghiên cứu CL, và cũng đã giới thiệu một số luận thuyết cơ bản được các nhà CL chấp nhận như những giáo lý hoặc nguyên lý chỉ đường. Với lập trường chung và các luận thuyết cơ bản như đã trình bày, CL, tuy là một đường hướng non trẻ, nhưng như đã nói, hiện nay được coi như một xu hướng chủ đạo, và những quan tâm lẫn cương lĩnh nghiên cứu của nó được chia sẻ rộng rãi với phạm vi rộng các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học vì nó có những lợi thế quan trọng. Có thể kể ra đây bốn lợi thế nổi bật nhất, ấy là: (i) CL cho thấy một cách nhìn tích hợp về ngôn ngữ và tư duy. Bởi, về bản chất, CL là cách tiếp cận có tích hợp đến cách tổ chức ngôn ngữ và tri nhận. Điều này đặc biệt rõ ràng trong Ngữ nghĩa học Tri nhận và những cách tiếp cận tri nhận đến ngữ pháp; (ii) CL kiểm tra lại luận điểm kinh nghiệm luận. Như chúng ta đã thấy, quan điểm duy lý luận củng cố những cách tiếp cận sản sinh đến ngôn ngữ từng chiếm ưu thế trong địa hạt ngôn ngữ học suốt hơn nửa thế kỷ qua. Tuy nhiên, với sự ra đời của CL, mối quan tâm đến phối cảnh kinh nghiệm luận được tái chú trọng và nhấn mạnh, và do vậy mở lại các kênh nghiên cứu về ngôn ngữ và tư duy lấy tính toán nghiệm thân, kinh nghiệm và sự sử dụng tiếp tục cam kết mạnh mẽ với sự nghiên cứu về các cấu trúc và các quá trình tri nhận; (iii) CL nêu bật những hiện tượng ý niệm. Cụ thể, CL đã góp phần mở rộng phạm vi các hiện tượng ý niệm được các nhà khoa học nhận thức nghiên cứu. Ví dụ, ý tưởng về sự phóng chiếu ý niệm hoặc “các ánh xạ” từng được các khuôn khổ Lý thuyết ẩn dụ ý niệm, Lý thuyết không gian tinh thần và Lý thuyết Pha trộn Ý niệm nhấn mạnh, bên cạnh những nỗ lực nhằm mô hình sự phong phú và tính phức tạp về trí tưởng tượng con người. Trước đây, từng được giả định rằng trí tưởng tượng con người là ngoại vi đối với sự tri nhận hoặc nó không thể được nghiên cứu một cách hệ thống. Tuy nhiên, CL đã cung cấp một cách tiếp cận cho việc nghiên cứu trí tưởng tượng, và đã cho thấy rằng ngôn ngữ biểu lộ các quá trình hệ thống đang bàn trong trí tưởng tượng con người mà các nhà CL từng lập luận là trung tâm với cách thức chúng ta suy nghĩ; (iv) CL còn là sự tích hợp của những quan tâm hình thức luận và chức năng luận. Trong khi các nhà hình thức luận quan tâm đặc biệt đến việc phát triển những tính toán đầy đủ về phương diện miêu tả các hiện tượng ngôn ngữ và đến việc mô hình sự biểu hiện của tri thức về ngôn ngữ trong tư duy, còn 436 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] các nhà chức năng luận quan tâm chủ yếu đến việc khảo sát các chức năng xã hội và giao tiếp của cách dùng ngôn ngữ có tình huống, thì các nhà CL, trong khi là những nhà chức năng luận về tinh thần, quan tâm đến việc đạt được miêu tả đầy đủ và đến việc mô hình ngôn ngữ như một hiện tượng tri nhận (Evans & Green, 2006). Với những lợi thế ấy, CL cho thấy bản thân nó là một đường hướng nghiên cứu ngôn ngữ học đầy sức mạnh và hứa hẹn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Chomsky, N. (2006). Language and mind. Cambridge, England: Cambridge University Press. Croft, W. (2001). Radical construction grammar: Syntactic theory in typological perspective. Oxford, England: Oxford University Press. Dương, H. B. (2016a). Vài ghi nhận về phân tích diễn ngôn qua một số đường hướng nghiên cứu. Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (10), 53-70. Dương, H. B. (2016b). Mô hình hệ thống ý niệm trong hệ hình Ngôn ngữ học Tri nhận. Trong: Dương, H. B. (Chủ biên), Ngữ văn và Văn hóa học: Một chặng đường (tr. 466-493). TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam: NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Evans, V. & Green, M. (2006). Cognitive Linguistics: An introduction. Edinburgh, England: Edinburgh University Press. Fauconnier, G. (1994). Mental spaces. Aspects of meaning construction in natural languages. Cambridge, England: Cambridge University Press. Fauconnier, G., & Turner, M. (2002). The way we think: Conceptual blending and the mind’s hidden complexities. New York, USA: Basic Books Press. Fillmore, C. (2006). Frame semantics. In: Geeraerts, D. (Ed.), Cognitive linguistics: Basic readings (pp. 373-400). Berlin, Germany: Mouton de Gruyter. Fodor, J. (1983). The modularity of mind: An essay on faculty psychology. Massachusetts, USA: MIT Press. Geeraerts, D. (2006). Cognitive linguistics: Basic readings. Berlin, Germany: Mouton de Gruyter. Geeraerts, D., & Hubert, C. (2007). The Oxford handbook of Cognitive Linguistics. Oxford, England: Oxford University Press. Goldberg, A. (1995). Constructions: A construction - grammar approach to argument structure. Chicago, USA: Chicago University Press. Jackendoff, R. (2010). Meaning and the lexicon: The parallel architecture 1975-2010. Oxford, England: Oxford University Press. Dương Hữu Biên 437 Lakoff, G. (1987). Women, fire, and dangerous things: What categories reveal about the mind. Chicago, USA: Chicago University Press. Lakoff, G., & Johnson, M. (1980). Metaphors we live by. Chicago, USA: Chicago University Press. Langacker, R. W. (1982). Space grammar, analyzability and the English passive. Language Journal, 58(1), 22-80. Langacker, R. W. (1987). Foundations of Cognitive grammar (1st ed.). California, USA: Stanford University Press. Langacker, R. W. (1991). Foundations of Cognitive grammar (2nd ed.). California, USA: Stanford University Press. Langacker, R. W. (2008). Cognitive grammar: A basic introduction. Oxford, England: Oxford University Press. Littlemore, J., & Taylor, J. R. (2014). The Bloomsbury companion to Cognitive Linguistics. London, England: Bloomsbury Press. Talmy, L. (2000). Toward a cognitive semantics. Massachusetts, USA: MIT Press. Taylor, J. R. (2002). Cognitive grammar. Oxford, England: Oxford University Press. Taylor, J. R. (2012). The mental corpus. Oxford, England: Oxford University Press. Tomasello, M. (2003). Constructing a language: A usage-based theory of language acquisition. Massachusetts, USA: Harvard University Press. COGNITIVE LINGUISTICS: FROM GENERAL PERSPECTIVES TO SOME MAJOR TENETS Duong Huu Biena* aThe Faculty of Literature and Cultural Studies, Dalat University, Lamdong, Vietnam *Corresponding author: biendh@dlu.edu.vn Article history Received: May 09th, 2017 Received in revised form: September 29th, 2017 | Accepted: October 02nd, 2017 Abstract This article introduces Cognitive Linguistics from two different perspectives. First, the article reviews general philosophical perspectives and discusses its implications for the research themes of Cognitive Linguistics. Then the article expresses some main tenets which are adopted by cognitive linguists as guiding principles. Keywords: Cognitive grammar; Constructions; Empiricism; Metaphor; Rationalism; Usage- based.
File đính kèm:
- ngon_ngu_hoc_tri_nhan_tu_lap_truong_chung_den_mot_so_luan_th.pdf