Nhu cầu nghệ thuật cải lương trong công chúng Nam Bộ

TÓM TẮT: Nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng Nam Bộ trên ba phương diện

của Cải lương: đờn ca tài tử, đờn ca Vọng cổ, sân khấu Cải lương, vẫn còn rất lớn, dù

không cao như những thời điểm trước. Nhìn từ thực tiễn hoạt động nghệ thuật của các đơn

vị và cá nhân trên khắp các địa phương Nam Bộ hiện nay, có thể đề xuất một số biện

pháp nhằm bảo tồn và phát huy nghệ thuật đờn ca Tài tử và sân khấu Cải lương ở Nam

Bộ, hy vọng sẽ đáp ứng được nhu cầu công chúng vẫn còn nhiều mến mộ với bộ môn

nghệ thuật này.

pdf 7 trang yennguyen 5400
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu nghệ thuật cải lương trong công chúng Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu nghệ thuật cải lương trong công chúng Nam Bộ

Nhu cầu nghệ thuật cải lương trong công chúng Nam Bộ
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Đặng Ngọc Lệ và tgk 
79 
NHU CẦU NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG 
TRONG CÔNG CHÚNG NAM BỘ 
THE DEMAND FOR THE REFORMED THEATRE IN THE PUBLIC OF THE SOUTH 
ĐẶNG NGỌC LỆ và HUỲNH CÔNG TÍN 
 PGS.TS. Trường Đại học Văn Lang, dongphuong_lhu@yahoo.com, Mã số: TCKH09-10-2018 
 TS. Trường Đại học Văn Lang, huynhcongtin@vanlanguni.edu.vn. 
TÓM TẮT: Nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng Nam Bộ trên ba phương diện 
của Cải lương: đờn ca tài tử, đờn ca Vọng cổ, sân khấu Cải lương, vẫn còn rất lớn, dù 
không cao như những thời điểm trước. Nhìn từ thực tiễn hoạt động nghệ thuật của các đơn 
vị và cá nhân trên khắp các địa phương Nam Bộ hiện nay, có thể đề xuất một số biện 
pháp nhằm bảo tồn và phát huy nghệ thuật đờn ca Tài tử và sân khấu Cải lương ở Nam 
Bộ, hy vọng sẽ đáp ứng được nhu cầu công chúng vẫn còn nhiều mến mộ với bộ môn 
nghệ thuật này. 
Từ khóa: đờn ca Tài tử, Vọng cổ, sân khấu Cải lương, Nam Bộ. 
ABSTRACTS: The demand to enjoy the reformed theatre of the public in the Southern on 
the aspects including: Southern amateur music and reformed theatre, still very popular, 
but not as high as the previous time. ooking at the practical art activities of ganizations 
and individuals throughout the South of Vietnam, it is possible to propose some measures 
to preserve and promote the art in the South to meet the public demand. 
Key words: Southern amateur music, reformed theatre, the South 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nghệ thuật Cải lương bao hàm các 
hoạt động: đờn ca Tài tử, đờn ca Vọng cổ 
và Sân khấu Cải lương (biểu diễn tuồng 
tích). Những hoạt động này tác động vào 
trong đời sống xã hội của mọi tầng lớp 
công chúng Nam Bộ, dù có đam mê hay 
không, cũng có nhu cầu và đôi lần thưởng 
thức. Có thể nói, ở thời điểm mà Cải lương 
đang thời hoàng kim, đứng trên mọi hoạt 
động nghệ thuật sân khấu khác ở miền 
Nam, trên cả Tân nhạc, hát Bội, Điện ảnh, 
Kịch trường, thì ở đâu, lúc nào cũng 
nghe Cải lương, ca Vọng cổ, đờn Tài tử,... 
Ngày nay, Cải lương tuy trên đà lao dốc; 
nhưng trong đời sống công chúng, nó vẫn 
là nhu cầu nghệ thuật không thể thiếu. 
2. NỘI DUNG 
Nhu cầu nghệ thuật Cải lương trong 
công chúng Nam Bộ hãy còn rất lớn, thể 
hiện qua sự tác động ngôn từ có liên quan 
tới hoạt động Cải lương trong giao tiếp đời 
sống của họ và qua các hoạt động nghệ 
thuật, vừa mang tính chuyên nghiệp vừa 
mang tính quần chúng của tập thể, cá nhân 
liên quan tới nhạc Tài tử, Vọng cổ và 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018 
80 
những trích đoạn, tuồng hát của băng, đĩa 
Cải lương, thông qua đài, mạng, máy hát và 
nhạc cụ cá nhân. Bao lâu, môi trường này 
vẫn còn là mảnh đất tốt cho sự ươm mầm 
nhân tài, nuôi dưỡng thị hiếu công chúng; 
thì nghệ thuật Cải lương hy vọng vẫn còn 
chỗ đứng trong lòng công chúng Việt Nam, 
nhất là công chúng Nam Bộ. 
Khảo sát về danh tiếng của các nghệ sĩ 
một thời đã để lại dấu ấn lớn trong công 
chúng Nam Bộ, có thể nói hầu hết công 
chúng Nam Bộ ngày nay vẫn còn biết đến 
nữ hoàng sân khấu Thanh Nga, vua viết 
Vọng cổ Viễn Châu, vua ca Vọng cổ Út 
Trà Ôn, vua ca Vọng cổ hài Văn Hường, đệ 
nhất đào thương Út Bạch Lan, đệ nhất đại 
danh cầm Văn Vĩ, Cải lương chi bảo Hùng 
Cường - Bạch Tuyết và những soạn giả, 
thầy đờn, danh ca nổi tiếng như các soạn 
giả: “Hà Triều - Hoa Phượng, Loan Thảo, 
Yên Lang,; các thầy đờn: Út Trong, Văn 
Vĩ, Văn Giỏi (Ở Nam Bộ, những người 
khiếm thị làm nên danh phận được hầu hết 
công chúng biết đến, ngoài nhà thơ Nguyễn 
Đình Chiểu, thì hai danh cầm Văn Vĩ, Văn 
Giỏi đều không xa lạ với họ),; các nghệ 
sĩ: Hữu Phước, Thành Được, Minh Chí, 
Minh Cảnh, Minh Phụng, Minh Vương, 
Tấn Tài, Thanh Tòng, Thanh Sang, Diệp 
Lang, Thanh Tuấn,; Năm Phỉ, Phùng Há, 
Lệ Thủy, Mỹ Châu, Ngọc Giàu, Phượng 
Liên,” Tên tuổi của họ được biết đến có 
khi còn nhiều hơn tên tuổi các danh ca tân 
nhạc. Còn với thế hệ mới “đào kép”, những 
tên tuổi sau cũng không xa lạ với công 
chúng: “Vũ Linh, Kim Tử Long, Vũ 
Luân,; Ngọc Huyền, Tài Linh, Thoại 
Mỹ, Thanh Ngân, Quế Trân,” 
Trong giao tiếp sinh hoạt thường nhật, 
có những từ được người dân Nam Bộ sử 
dụng có nguồn gốc từ Cải lương. Chẳng 
hạn: (1) “Mày khỏi dạy khôn nó, chuyện đó 
nó rành sáu câu”. Ngữ “rành sáu câu” có 
nghĩa đen, là am hiểu tường tận sáu câu ca 
Vọng cổ từ bản đàn đến lời ca; còn nghĩa 
bóng, là “am hiểu từ a đến z, thấu hiểu mọi 
vấn đề, ngóc ngách sự việc, vụ việc”. (2) 
“Thôi, tao hiểu hết rồi, khỏi thanh minh - 
thanh nga gì hết!”. Ngữ “Thanh Minh - 
Thanh Nga” có nghĩa đen, chỉ một trong 
năm đoàn Cải lương danh tiếng một thời, 
được gọi bằng mỹ danh “ngũ đại ban sân 
khấu”, đó là đoàn Thanh Minh - Thanh 
Nga, đoàn do Bầu là nghệ sĩ Năm Nghĩa 
thành lập có tên Dạ Minh Châu, sau đổi 
thành Thanh Minh, đến khi nghệ sĩ Năm 
Nghĩa mất, nghệ sĩ Thanh Nga (16 tuổi) lần 
đầu tiên nhận giải thưởng cao quý “Thanh 
Tâm” (dành cho các nghệ sĩ sân khấu Cải 
lương), bà Bầu Thơ (vợ Năm Nghĩa, mẹ 
Thanh Nga) tiếp nối, mới đặt thêm tên con 
ghép vào tên đoàn; còn nghĩa bóng, là “giải 
thích, phân bua cho rõ đầu đuôi sự việc, vụ 
việc”. (3) Từ “cùi bắp” (lõi ngô) được dùng 
trong giao tiếp thường ngày của người Nam 
Bộ với nghĩa bóng mà ngày nay ai cũng 
hiểu là “kém, tệ, không ra gì”, được dùng 
trong các ngôn cảnh: “điện thoại cùi bắp, 
cái thằng cùi bắp, cái đồ cùi bắp,” và họ 
cũng hiểu rằng, từ này xuất phát từ ngữ 
cảnh đi xem hát Cải lương mua bắp (bắp 
nấu hoặc bắp nướng) ăn, còn “cùi bắp” thì 
biết làm gì; nên sẵn có thì dùng để ném 
những vai diễn phản diện (đóng hay, nhưng 
khán giả cảm thấy nhân vật đáng ghét); hay 
những vai diễn dở; tuy không chết ai, nhưng 
đó là một hình thức phản ứng bộc trực, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Đặng Ngọc Lệ và tgk 
81 
Công chúng bình dân Nam Bộ ít học, 
họ không nhớ lịch sử ngày còn học ở nhà 
trường, họ chỉ biết lịch sử Việt Nam, Trung 
Quốc, qua xem Cải lương tuồng Việt lẫn 
tuồng Tàu. Họ nói về các nhân vật lịch sử 
Việt Nam, như: Hai Bà Trưng qua tuồng 
“Tiếng trống Mê Linh”; Dương Vân Nga, 
Lê Hoàn qua tuồng “Thái hậu Dương Vân 
Nga”, đại thần Tô Hiến Thành công minh 
qua tuồng “Tô Hiến Thành xử án”, cái chết 
oan của danh thần Nguyễn Trãi và nội thần 
triều Lê ngày ấy, qua tuồng “Rạng ngọc 
Côn Sơn”, Lý Thường Kiệt phá Tống qua 
tuồng “Câu thơ yên ngựa”, thi sĩ nổi tiếng 
Hàn Mặc Tử qua tuồng “Hàn Mặc Tử”, 
Họ còn nói về các nhân vật lịch sử Trung 
Hoa, như: Tây Thi - Phạm Lãi qua tuồng 
“Tây Thi”, Ngu Cơ - Hạng Võ qua tuồng 
“Hạng Võ biệt Ngu Cơ”, Chiêu Quân qua 
bài Vọng cổ “Chiêu Quân cống Hồ”, Tô Vũ 
qua bài Vọng cổ “Tô Võ chăn dê”, hoặc cái 
chết của Đơn Hùng Tín qua bản Tài tử 
Xuân Tình: “Tống tửu Đơn Hùng Tín” và 
bài Vọng cổ: “Tần Quỳnh khóc bạn”, 
Hiện nay, phong trào đờn ca Tài tử tại 
các tỉnh phía Nam phát triển rất mạnh, có 
sự tham gia rất đông đảo các tầng lớp nhân 
dân. Theo kết quả kiểm kê của Viện Văn 
hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, năm 
2011, có hơn 29.000 người đang tham gia 
nghệ thuật đờn ca Tài tử ở 21 tỉnh, thành 
phố miền Nam Việt Nam [24]. Mặt khác, 
xem xét ở bình diện đơn vị hoạt động thì 
có thế nói, bình quân mỗi tỉnh, thành ở 
Nam Bộ có không dưới 100 “câu lạc bộ 
đờn ca Tài tử” (đơn vị), đơn cử theo thống 
kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 
các địa phương: năm 2010, tỉnh Kiên 
Giang có 157 đơn vị [27]; năm 2012, tỉnh 
Bến Tre có 230 đơn vị [19]; năm 2012 - 
2013, tỉnh Cà Mau có 638 (con số này 
theo cá nhân người viết, địa phương cần rà 
soát lại, nhưng số lượng đơn vị của tỉnh 
Cà Mau chắc chắn không dưới 100) [25]; 
năm 2013, tỉnh An Giang có 230 đơn vị 
[15]; năm 2013, tỉnh Tiền Giang có 121 
đơn vị [16]; năm 2013, Thành phố Hồ Chí 
Minh có 118 đơn vị [20]; năm 2014, tỉnh 
Tây Ninh có gần 100 đơn vị [21]; năm 
2016, tỉnh Bạc Liêu có 220 đơn vị [17]; 
năm 2017, thành phố Cần Thơ có 170 đơn 
vị [26]; năm 2017, tỉnh Bình Dương có 73 
đơn vị [18]; năm 2017, tỉnh Long An có 
220 đơn vị [23]; năm 2017, tỉnh Vĩnh 
Long có 134 đơn vị [28], năm 2017, tỉnh 
Trà Vinh có 95 đơn vị [22], 
Phân tích những con số thống kê, có 
thể kết luận hoạt động đờn ca Tài tử vẫn 
còn khả năng thu hút công chúng Nam Bộ 
rất lớn. Nó vẫn luôn là mảnh đất tốt để ươm 
mầm nghệ thuật cho hoạt động sân khấu 
Cải lương có thể trở lại thời huy hoàng của 
nó. Tuy nhiên, các con số thống kê này ý 
nghĩa tới đâu, tùy thuộc vào yêu cầu 
nghiêm khắc của tên gọi một câu lạc bộ 
đờn ca Tài tử; vì rằng, hiện nay nhiều câu 
lạc bộ đờn ca Tài tử thiếu đội ngũ nghệ sĩ 
đờn, tác giả sáng tác; mà lẽ ra, một câu lạc 
bộ mạnh cần có ít nhất 4 nghệ nhân đờn, 4 
nghệ nhân ca, 2 nghệ nhân biết sáng tác 
(thành viên sáng tác có thể là nghệ nhân 
đờn hoặc tài tử ca); đồng thời, trong yêu 
cầu đờn ca bài bản, phải chơi được cả 20 
bài bản Tổ (3 năm, 4 oán, 6 bắc, 7 hạ), 
Loại câu lạc bộ mạnh mới có thể đào tạo 
thành viên mới phát triển, mới là nhân tố 
tích cực thúc đẩy phong trào. Nhìn chung, 
nhu cầu đờn ca Tài tử còn rất lớn ở các địa 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018 
82 
phương Nam Bộ và nhu cầu thưởng thức 
của công chúng Nam Bộ, chắc chắn còn 
lớn hơn gấp nhiều lần, nếu có chương trình 
phổ biến kiến thức phổ thông, cơ bản về 
đờn ca Tài tử cho công chúng, thông qua 
hình thức báo, đài địa phương và hoạt động 
của các câu lạc bộ. 
Hiện nay, hoạt động giao lưu/liên hoan 
đờn ca Tài tử có thể nói là mang tính 
chuyên nghiệp được mở rộng trong phạm 
vi vùng, miền không chỉ dừng lại trong nội 
bộ tỉnh, huyện; lại được tổ chức thường 
xuyên giữa các địa phương đăng cai, như ở 
Long An, hằng năm, tỉnh đều tổ chức liên 
hoan đờn ca Tài tử để kỷ niệm ngày giỗ 
nhạc sư Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi) vào 
dịp rằm tháng Giêng, thường là tại Cần 
Đước, quê hương ông Ba Đợi. Các cuộc 
liên hoan đến nay đã tổ chức được 23 lần, 
nên được biết đến trong công chúng và 
được thông tin kịp thời giữa các địa 
phương. Hoạt động này vừa là nhu cầu của 
nghệ nhân, nghệ sĩ và công chúng vừa là 
dịp để học hỏi, rèn luyện thêm tay nghề, bổ 
sung những nhân tố mới cho sân khấu Cải 
lương. Ngoài ra, còn có những địa phương 
như Bạc Liêu, Bình Dương, Sóc Trăng, 
tổ chức hình thức quy mô hơn với tên gọi 
Festival đờn ca Tài tử, trong đó có cả hội 
thi, hội thảo và biểu diễn. Nhu cầu này, nếu 
được mở rộng và thường xuyên hơn, kết 
hợp với chủ trương một hành lang “thông 
thoáng hơn” về nội dung tác phẩm, hình 
thức biểu diễn thì chắc chắn sẽ lôi cuốn 
đông đảo công chúng đến với nghệ thuật 
đờn ca Tài tử. 
Hoạt động đờn ca Tài tử ở địa phương 
không chỉ dừng lại ở yêu cầu chơi giao lưu. 
Nếu địa phương tổ chức tốt hơn, có thể xây 
dựng mô hình biểu diễn phục vụ du lịch 
sông nước, nhà hàng, tụ điểm, Lại còn 
đáp ứng cho yêu cầu lễ hội, đám tiệc, đám 
tang, vì hiện nay nhu cầu tân nhạc “xập 
xình” trong dân còn có, thì nhạc Tài tử 
(nhạc bài bản) sao lại không có đất diễn?! 
Hoạt động đờn ca Vọng cổ vừa là hoạt 
động gắn với sân khấu Cải lương, vừa là 
hoạt động âm nhạc độc lập. Có thể nói như 
thế là vì, trong một tuồng diễn Cải lương, 
một loại hình tổng hợp có cả kịch và ca. Ca 
đây là ca Tài tử và ca Vọng cổ để thay cho 
đối thoại theo cách nói của kịch. Trong ca 
Cải lương, bản Vọng cổ được xem là bản 
nhạc vua, thường một tuồng soạn giả có thể 
cơ cấu khoảng 15 đến 20 câu Vọng cổ, 
được chia đều cho các vai diễn, ưu tiên cho 
các vai chính, nên các đào kép chính bắt 
buộc phải ca Vọng cổ hay mới chiếm được 
cảm tình công chúng; còn các vai diễn khác 
nếu không muốn bị ném “cùi bắp”, thì ít ra 
cũng phải ca Vọng cổ nghe cho được. Đó là 
yêu cầu nghiêm ngặt có tính chuyên nghiệp 
cho các nghệ sĩ bước lên sàn diễn. Tuy 
nhiên, trong đời thường, ca Vọng cổ như 
một nhu cầu phổ thông, như ca một bản tân 
nhạc, không cần cả đờn; cũng có thể ca 
“nghêu ngao” phục vụ đám, tiệc, giải trí 
giúp vui, nhất là bằng Vọng cổ hài, Nhu 
cầu ca và nghe Vọng cổ, bao gồm cả Tân 
cổ giao duyên, hiện trong công chúng Nam 
Bộ rất lớn; tỷ lệ có thể là 6/10 người ở địa 
phương đã có cả hai nhu cầu này. Có thể 
học ca vài bài bản tửu để có mà “giao lưu” 
chỉ trong vài ngày, qua các băng đĩa ca 
nhạc của các nghệ sĩ trứ danh phổ biến trên 
mạng, trong các chương trình đài phát 
thanh, truyền hình hoặc qua bạn bè. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Đặng Ngọc Lệ và tgk 
83 
Hiện nay, tuy chưa làm khảo sát 
thống kê, nhưng tại các buổi tiệc ở các 
tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, hầu hết 
đều có nhu cầu ca Vọng cổ, thậm chí 
trong Karaoke vẫn có yêu cầu ca Vọng 
cổ, tuy ít hơn yêu cầu ca Tân nhạc. 
Nhưng đó, không phải là do người nghe 
không thích, mà phần lớn là do không 
biết ca Vọng cổ. Vì vậy, nếu có chương 
trình dạy ca Vọng cổ trên đài, hoặc ở các 
câu lạc bộ địa phương, thì chắc số người 
ca Vọng cổ sẽ tăng lên và những người có 
giọng ca tốt có thể kiếm thêm thu nhập 
bằng những hoạt động không chuyên, như 
ca cho các nhà hàng, tụ điểm, đám tiệc, 
Học ca Vọng cổ dễ hơn rất nhiều so 
với việc học ca Tài tử; vả lại, biết ca Vọng 
cổ sớm kiếm được tiền hơn, nên chắc chắn 
có nhiều người muốn học ca Vọng cổ hơn. 
Phát biểu về ca Tài tử, Vọng cổ, hai nghệ sĩ 
chuyên ca Tài tử Trường Út (Tài tử ca, Câu 
lạc bộ Đờn ca Tài tử Tây Đô, thành phố 
Cần Thơ) và Võ Thị Kim Xuyến (Tài tử ca, 
Chủ nhiệm Câu lạc bộ Đờn ca tài tử Tri âm, 
thành phố Cần Thơ), cùng cho biết: “Người 
học ca những bài bản Tài tử, đòi h i phải 
b nhiều công sức hơn học ca Vọng cổ mà 
cũng không dễ có đất diễn. Bởi đó, có 
người chỉ học ca được vài câu ca Vọng cổ, 
có thể đi ca cho các quán ca Vọng cổ và 
kiếm tiền được”. Những trường hợp có 
ngoại hình, chất giọng tốt thì giúp họ có 
thêm “nghề phụ” là ca hát nhạc cổ, Tài tử. 
Như vậy, ở các địa phương Nam Bộ, thiết 
nghĩ nên mở lớp ngoại khóa trong các 
trường phổ thông, nhằm giúp học sinh đam 
mê ca hát sớm có điều kiện tiếp nhận và ca 
được Vọng cổ, nhạc Tài tử. Đoàn Thanh 
niên ở các trường đại học, cao đẳng phía 
Nam nên tranh thủ vận động sự hỗ trợ để 
mở các lớp dạy ca Tài tử, Vọng cổ cho học 
sinh, sinh viên ham thích, thay vì chỉ chú 
trọng mở những lớp khiêu vũ, ca tân nhạc. 
Nhà trường trung học, đại học hai cấp ở 
miền Tây, nếu được nên dành ít quỹ phúc 
lợi chi phí cho hoạt động này để bồi dưỡng 
thầy dạy mà không thu học phí học sinh, 
sinh viên. 
Trong tương lai, nếu hoạt động nghệ 
thuật này có kế hoạch tổ chức, quảng bá, 
giảng dạy rộng rãi tại các cơ sở địa phương, 
thì số lượng người tham gia hoạt động đờn 
ca Tài tử, đờn ca Vọng cổ chắc chắn sẽ 
được nhân lên. Từ đó, địa phương mới 
mong có nhiều thí sinh tham gia tranh tài, 
đáp ứng những chương trình truyền hình 
chuyên nghiệp mang tính chất quốc gia, 
như: “Chuông Vàng Vọng cổ”, “Đường 
đến danh ca Vọng cổ”. Khi nguồn tài năng 
nhân sự được tuyển chọn từ các chương 
trình này phong phú, có chất lượng, thì mới 
hy vọng hoạt động nghệ thuật Cải lương có 
được điều kiện cần để phục hồi. 
Hoạt động sân khấu Cải lương là một 
hoạt động chuyên nghiệp bậc cao, thậm chí 
cao hơn nhiều hoạt động nghệ thuật khác, 
như: diễn kịch, đêm nhạc, tấu hài, Một 
đêm diễn Cải lương, đòi hỏi hoạt động của 
đoàn hát phải “tích hợp” các hoạt động nói 
trên. Đó là nói trên sự so sánh đơn thuần, 
còn để thành công một đêm diễn Cải lương, 
ngoài yếu tố khán giả quyết định doanh thu, 
thì ở một đoàn hát có 2 nhân tố quan trọng 
cần được đầu tư kỹ lưỡng, cẩn thận; mà 2 
nhân tố này, xét ra lại tương tác với doanh 
thu, tức lượng người có nhu cầu xem diễn, 
bởi họ đi xem nghệ thuật là “xem những cái 
mình cần”, chớ “không xem những cái ta 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 09, Tháng 5 - 2018 
84 
định” cho họ. Bởi đó, ngoài việc đáp ứng 
nhân tố khách quan là khán giả, hai nhân tố 
chủ quan quyết định cho một đêm diễn của 
đoàn hát thành công là: tuồng tích kịch bản 
và đội ngũ đào kép. 
Hiện nay trên sân khấu Cải lương, cả 2 
vấn đề này đang gặp khó khăn. 
Về tuồng tích, hiện không có nhiều 
soạn giả giỏi để viết được tuồng tích hay 
vừa đáp ứng được thị hiếu công chúng, vừa 
tổng hợp được giá trị “nói - ca - diễn”, mà 
“ca” là sự phối hợp hài hòa giữa Vọng cổ 
và các bài bản Tổ - bài bản Tài tử. Thiết 
nghĩ, cái khó này hiện nay thường là đơn vị 
nhà nước chi trả tiền bản quyền quá thấp, 
khác với ngày trước là công chúng mua vé 
chi trả tiền bản quyền rất cao; nên suy nghĩ 
của giới soạn giả hiện nay không mặn mà 
cho việc đầu tư viết tuồng, vì tiền thù lao 
không xứng với công lao động của họ; bởi 
viết một tuồng Cải lương khó hơn rất 
nhiều, so với viết một tác phẩm truyện 
ngắn, một vở kịch. 
Về diễn viên, ngày xưa các đào kép hát 
thường xuyên, thậm chí là “chạy sô” cũng 
không hết yêu cầu của sân khấu; do họ hát 
liên tục nên chuyên môn nghề mỗi ngày 
được nâng cao, còn bây giờ cả tháng không 
diễn, lâu lâu chỉ diễn trích đoạn, ít có khả 
năng hát nổi cả một tuồng; lại khi diễn thì 
chỉ diễn trong những dịp lễ, gắn với sự kiện 
chính trị, mà diễn tuồng trong những dịp 
này thì chủ đề bị giới hạn, lại không phù 
hợp tâm lý thưởng thức số đông. Có thể 
thấy, hiện tượng Boléro hiện nay “sống lại” 
trong công chúng Nam Bộ, vì nó đáp ứng 
được “tâm lý này”. Như vậy, Cải lương 
cũng có thể “phục hồi”, nếu đáp ứng được 
“tâm lý ấy”. 
3. KẾT LUẬN 
Trách công chúng Nam Bộ ngày nay 
quay lưng với Cải lương, có lẽ cũng nên 
trách người làm Cải lương không đáp ứng 
được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của 
họ. Nếu có biện pháp nâng cao trình độ 
hiểu biết công chúng về bộ môn nghệ thuật 
Cải lương; đồng thời nâng cao chất lượng 
nghệ nhân đờn ca, biểu diễn ở các đơn vị 
địa phương; lại có một quy định chủ đề nội 
dung đủ rộng cho soạn giả chọn lựa sáng 
tác, sao cho thích hợp công chúng, thì việc 
đoàn hát sống nhờ công chúng (bởi công 
chúng cần, thì công chúng trả tiền) và khả 
năng sân khấu “sáng đèn” thường xuyên 
hằng đêm, chắc không là mơ ước viển vông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Hoàng Chương (Chủ biên, 2013), 00 n m nghệ thuật Cải lương miền Nam, Nxb Văn 
hóa - Thông tin. 
[2] Đỗ Dũng (2000), Nhạc Tài tử Nam Bộ, Hội Văn học Nghệ thuật Tiền Giang. 
[3] Đỗ Dũng (2000), Hai mươi bản Tổ nhạc Tài tử Nam Bộ, Nxb Hội Văn hóa Nghệ thuật, 
Tiền Giang. 
[4] Đỗ Dũng (2003), Sân khấu Cải lương Nam Bộ, Nxb Trẻ. 
[5] Trần Văn Khê (2000), Âm nhạc Dân tộc, Nxb Trẻ. 
[6] Sơn Nam (1974), Cá tính của miền Nam, Đông Phố xuất bản, Sài Gòn. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Đặng Ngọc Lệ và tgk 
85 
[7] Sơn Nam (1994), Cuộc đời sự nghiệp của nghệ nhân Nguyễn Quang Đại, Kỷ yếu hội 
thảo Đức nghệ nhân nhạc Lễ - nhạc Tài tử Nam Bộ, Sở Văn hóa - Thông tin Long An. 
[8] Lê Ái Siêm (2014), Tiền Giang và nghệ thuật sân khấu Cải lương, Sở Thông tin - 
Truyền thông. 
[9] Huỳnh Công Tín, Nhạc sư Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi) trong sự hình thành và phát 
triển sân khấu Cải lương Nam Bộ, Tạp chí Xưa và Nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam 
số 452 (8-2015). 
[10] Huỳnh Công Tín (2015), 00 bài vọng cổ đặc sắc của soạn giả Viễn Châu, Nxb Chính 
trị Quốc gia. 
[11] Huỳnh Công Tín (Chủ biên, 2016), V n hóa Cải lương Nam Bộ, Từ đờn ca Tài tử đến 
sân khấu Cải lương từ lý luận đến thực tiễn, Nxb Văn hóa - Văn nghệ. 
[12] Huỳnh Công Tín (Chủ biên) (2018), Diễn trình đờn ca Tài tử - sân khấu Cải lương 
Long An, Nxb Văn hóa - Văn nghệ. 
[13] Hội khoa học Lịch sử Việt Nam (2014), ược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb 
Chính trị Quốc gia. 
[14] Hội Văn học - Nghệ thuật Bình Dương (2004), Tổng tập sân khấu Bình Dương. 
[15] Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, Báo cáo kế hoạch số 571/ KH-UBND tỉnh An Giang 
ngày 04/12/2015. 
[16]  
[17]  
[18]  
[19]  
[20] https://baomoi.com. 
[21]  
[22]  
[23]  
[24]  
[25] https://thuvienphapluat.vn. 
[26]  
[27] https://www.vhttdlkv3.gov.vn. 
[28] https://www.vinhlong.gov.vn. 
Ngày nhận bài: 05-2-2018. Ngày biên tập xong: 27-3-2018. Duyệt đăng: 19-5-2018. 

File đính kèm:

  • pdfnhu_cau_nghe_thuat_cai_luong_trong_cong_chung_nam_bo.pdf