Nhà nước Hoa Anh trong lịch sử phong kiến

Tóm tắt: Sau đại nạn Vijaya, hai bộ phận lãnh thổ Aryaru (Phú Yên) và Kauthara (Khánh Hòa)

hợp thành thuộc quốc Hoa Anh. Lê Thánh Tông đã phong vương cho nguời đứng đầu nước Hoa

Anh là Bàn La Trà Duyệt. Sự phản kháng của Bàn La Trà Duyệt là nguyên nhân dẫn đến cuộc

chinh phạt lần hai của Lê Thánh Tông. Sau cuộc chinh phạt này, Lê Thánh Tông chính thức lấy Đá

Bia làm cột mốc lãnh thổ. Trai Á Ma Phất Am được chỉ định làm phiên vương của nước Hoa Anh

trên phần đất Kauthara còn lại; sau đó nhập vào Panduranga và lập nên nhà nước Hậu Champa.

pdf 7 trang yennguyen 2060
Bạn đang xem tài liệu "Nhà nước Hoa Anh trong lịch sử phong kiến", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhà nước Hoa Anh trong lịch sử phong kiến

Nhà nước Hoa Anh trong lịch sử phong kiến
 76 
Nhà nước Hoa Anh trong lịch sử phong kiến 
Nguyễn Văn Giác1 
1
 Trường Đại học Thủ Dầu Một. 
Email: vanjack.nguyen@gmail.com 
Nhận ngày 25 tháng 10 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 7 tháng 3 năm 2019. 
Tóm tắt: Sau đại nạn Vijaya, hai bộ phận lãnh thổ Aryaru (Phú Yên) và Kauthara (Khánh Hòa) 
hợp thành thuộc quốc Hoa Anh. Lê Thánh Tông đã phong vương cho nguời đứng đầu nước Hoa 
Anh là Bàn La Trà Duyệt. Sự phản kháng của Bàn La Trà Duyệt là nguyên nhân dẫn đến cuộc 
chinh phạt lần hai của Lê Thánh Tông. Sau cuộc chinh phạt này, Lê Thánh Tông chính thức lấy Đá 
Bia làm cột mốc lãnh thổ. Trai Á Ma Phất Am được chỉ định làm phiên vương của nước Hoa Anh 
trên phần đất Kauthara còn lại; sau đó nhập vào Panduranga và lập nên nhà nước Hậu Champa. 
Từ khóa: Bàn La Trà Duyệt, Lê Thánh Tông, Nhà nước Hoa Anh, Trai Á Ma Phất Am. 
Phân loại ngành: Sử học 
Abstract: After the Vijaya incident, the two territories of Aryaru (Phu Yen) and Kauthara (Khanh 
Hoa) were merged to form the Hoa Anh colony. The Vietnamese emperor Le Thanh Tong gave the 
title of Vương, which means the king of a colony (under another country, the head of which, in this 
case, Le Thanh Tong himself, would be called đế, or Emperor) to the head of Hoa Anh, who was P’au 
Lo T’ou Yue. The latter's rebellion was later the cause of the second conquest of Le Thanh Tong, after 
which the Vietnamese emperor officially chose Da Bia as the landmark of the national border. Trai A 
Ma Phat Am was nominated to be the vương of Hoa Anh in the remaining Kauthara territory. He then 
merged Kauthara into Panduranga and formed the Post-Champa state. 
Keywords: P’au Lo T’ou Yue, Le Thanh Tong, Hoa Anh State, Trai A Ma Phat Am. 
Subject classification: History 
1. Mở đầu 
Tên gọi Nhà nước Hoa Anh xuất hiện chỉ 
một lần trong bộ quốc sử triều Hậu Lê mà 
không kèm thêm một chỉ dẫn nào, các tài 
liệu về sau khi bàn định vấn đề này cũng 
không thống nhất với nhau. Quốc sử quán 
triều Nguyễn giữ nguyên đoạn trích về Hoa 
Anh trong chính sử triều Lê, kèm thêm lời 
chú: “Nước Hoa Anh dòng dõi về sau mòn 
Nguyễn Văn Giác 
77 
mỏi suy yếu, nay không thể khảo cứu được” 
[17]. Lê Thành Khôi cho rằng: “Champa từ 
nay thu hẹp vào các quận Kauthara và 
Panduranga...”. “Champa lấy lại được một 
phần trong số lãnh thổ này vào thế kỷ XVI 
nhờ các vụ lộn xộn đang xảy ra tại Đại 
Việt. Ranh giới sẽ được đẩy tới đèo Cù 
Mông. Năm 1611, Nguyễn Hoàng sẽ vượt 
biên giới này khi chiếm tỉnh Phú Yên” [4, 
tr.283]. Phần đất sau này được gọi là Phú 
Yên thì từ sau năm 1471 có thời điểm thuộc 
lãnh thổ Hoa Anh. 
Lương Ninh diễn giải: “Năm 1611, 
Nguyễn Hoàng sai Văn Phong làm tướng 
đem quân vào đánh lại, Chiêm Thành bị 
thua, vua là Po Nit (1603-1613) phải bỏ đất 
Hoa Anh rút quân về phía Nam Đèo Cả. 
Lần này họ Nguyễn lấy hẳn đất Hoa Anh, 
lập ra một phủ mới là phủ Phú Yên...” [6, 
tr.213]. Nguyễn Thị Hậu cho rằng: “ thời 
điểm này (1611) cũng được coi là thời điểm 
nước Hoa Anh chính thức chấm dứt sự tồn 
tại của nó trong khoảng 140 năm kể từ năm 
1471” [17]. Theo Tạ Chí Đại Trường: “Sử 
quan Nguyễn hẳn theo Phan Huy Chú, 
người cho Nam Bàn là vùng được coi là của 
Thủy Xá, Hỏa Xá tức vùng Bắc và Trung 
Tây Nguyên ngày nay, còn Hoa Anh thì 
không khảo cứu được. Tuy nhiên, có thể 
cho Hoa Anh là ở vùng Tây Nguyên vì hai 
chữ này có ý nghĩa những biểu trưng vẽ 
mình, cờ xí giáo mác. Chuyện Thủy Xá, 
Hỏa Xá là của thời chúa Nguyễn, người Lê 
Sơ không biết chuyện đó...” [19]. 
Các nhà Champa học (Danny Wong 
Tze-Ken, Po Dharma, P-B. Lafont), dù 
không bàn về Hoa Anh cùng Nam Bàn, 
song đều khẳng định từ sau năm 1471, 
vương quốc Champa của Bô Trì Trì bao 
gồm cả hai địa khu Panduranga và Kauthara 
[13], [15], [16]. P-B. Lafont cho rằng: “Một 
khi miền Bắc bị rơi vào tay của Đại Việt, 
vương quốc Champa vẫn còn tiếp tục hiện 
hữu nhưng bị thu hẹp lại ở miền Nam nằm 
trên lãnh thổ của tiểu vương quốc Kauthara 
và Panduranga, nơi mà người dân có bản 
chất rất là hiếu động, luôn luôn đòi tự trị và 
đôi lúc còn tìm cách tách rời ra khỏi liên 
bang Champa để tạo cho mình một quốc gia 
độc lập” [13, tr.184-185]. Lập luận này 
đồng nghĩa với sự nhìn nhận Hoa Anh và 
Nam Bàn án ngữ phần còn lại nằm giữa 
ranh giới phía nam Đại Việt tại Cù Mông 
và phía bắc Champa tại Đá Bia (núi Thạch 
Bi), trải rộng từ bờ biển đến tận thượng 
nguyên. 
Như vậy, lãnh thổ Champa của Bô Trì 
Trì được Đại Việt phong vương bao gồm 
Panduranga và Kauthara; tiểu quốc Hoa 
Anh tồn tại trong khoảng 1471-1611 tại 
vùng đất nằm giữa Cù Mông với Đại Lĩnh 
và Nam Bàn. Không có dẫn giải nào khác 
xung quanh vấn đề Hoa Anh (từ người 
đứng đầu đất nước được thụ phong đến các 
biến cố nội tình của vương quốc). Bài viết 
này góp phần tìm hiểu về lãnh thổ và người 
đứng đầu Nhà nước Hoa Anh trong lịch sử 
phong kiến. 
2. Lãnh thổ của Nhà nước Hoa Anh 
Đại Việt và Champa đã bùng phát xung đột 
trong năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XV. 
Sau sự kiện quốc vương Maha Bàn La Trà 
Toàn thân hành đem hơn 10 vạn quân thủy 
bộ đánh úp Hóa Châu, hoàng đế Lê Thánh 
Tông lập tức thống lĩnh 26 vạn tinh binh 
dũng mãnh và nhằm thẳng hướng kinh 
thành Vijaya của đối phương tiến đánh. 
Quốc vương Champa cùng 50 thành viên 
hoàng gia bị bắt sống và bị áp giải về Đông 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
78 
Đô, còn phần đất đai vừa chiếm được thì 
lập thành đạo thừa tuyên Quảng Nam (đơn 
vị hành chính cấp đạo, xứ thừa tuyên thứ 13 
trên toàn lãnh thổ Đại Việt). Sau khi chiến 
thắng, Lê Thánh Tông đã định đoạt đế chế 
Champa, sử sách ghi chép như sau: “Sau 
khi Trà Toàn bị bắt, tướng của hắn là Bô 
Trì Trì chạy đến Phiên Lung, chiếm cứ đất 
ấy, xưng là chúa Chiêm Thành, Trì Trì lấy 
được 1 phần 5 đất của nước Chiêm, sai sứ 
sang xưng thần, nộp cống, được phong làm 
vương. Vua lại phong vương cho cả Hoa 
Anh và Nam Bàn gồm 3 nước để ràng 
buộc” [12, t.1, tr.450]. 
Phần đất đai do Bô Trì Trì chiếm giữ 
thuộc Panduranga, một trong những địa khu 
thời phục hưng Champa dưới triều đại Chế 
Bồng Nga (1360-1390), được viên tướng kế 
vị La Ngai (1390-1400) thừa hưởng (bao 
gồm: Indrapura, Amavarati, Vijaya, 
Kauthara, Panduranga, Aryaru2. Nhà Hồ 
(1400-1407) trong giai đoạn trị vì ngắn ngủi 
từng chiếm giữ Indrapura và Amavarati, 
nhưng sau đó dựa vào thế lực của Minh 
triều, Jaya Sinhavarman (1400-1441), 
người con kế vị La Ngai đã thu phục đem 
trả về cho vương quốc. 
Nam Bàn có địa giới nằm về phía Tây 
dãy Đại Lĩnh, bao gồm đất đai của hai tiểu 
quốc Thủy Xá và Hỏa Xá; trong khi đó Hoa 
Anh là phần đất đai còn lại dọc dài ở phía 
đông giáp biển. Cả hai thuộc quốc Hoa Anh 
và Nam Bàn trước đó đều nằm trong định 
chế Champa theo cơ cấu hợp bang. Rõ 
ràng, sự phân chia này nhằm khiến cho đối 
phương tự kiềm chế lẫn nhau theo thế chân 
vạc, mặt khác tạo thành một vùng đệm ngăn 
cách giữa Đại Việt với Champa từ miền 
thượng nguyên trải ra biển cả. 
Lãnh thổ của Hoa Anh quốc nằm khoảng 
giữa núi Cù Mông và sông Phan Rang. 
Đường biên giới phía bắc của Hoa Anh 
được xác định tại Cù Mông. Năm 1446, Lê 
Nhân Tông đem hơn 60 vạn quân đánh lấy 
Vijaya, bắt quốc vương Maha Vijaya về 
Đông Đô; đồng thời cũng trao trả quyền cai 
trị toàn bộ vương quốc lại cho người cháu 
là Maha Quý Lai. Sau chiến thắng này, Lê 
Thánh Tông đã ra lệnh niêm phong tất cả 
kho tàng, của cải trong thành, không được 
đốt cháy. Nhằm ngăn ngừa tình trạng cướp 
bóc lộn xộn của binh lính, Lê Thánh Tông 
đã bố trí một bộ phận lớn quân lính lưu lại 
để làm nhiệm vụ trấn giữ và thiết lập hệ 
thống dinh điền [12, t.2, tr.449]. Lê Thánh 
Tông không có ý định tấn phong một hậu 
duệ nào để duy trì triều đình Champa trên 
đất Vijaya. Còn đường ranh giới phía Nam 
của lãnh thổ Hoa Anh là sông Phan Rang 
(chủ ý của Lê Thánh Tông càng đẩy xa 
vùng đệm bao nhiêu càng an toàn cho bờ 
cõi Đại Việt vừa được xác lập bấy nhiêu). 
3. Người đứng đầu Nhà nước Hoa Anh 
trong lịch sử 
Người được hoàng đế Lê Thánh Tông 
phong vương đầu tiên của vương quốc Hoa 
Anh vào mùa xuân năm 1471 là Bàn La Trà 
Duyệt, anh của Bàn La Trà Toàn. Bàn La 
Trà Duyệt nguyên là một vị đại quan trong 
triều đình Maha Vijaya (1441-1446), nắm 
giữ những chức vụ quan trọng dưới các 
triều Maha Quý Lai (1446-1449), Maha 
Quý Do (1449-1458). Bàn La Trà Duyệt 
quê ở Cri Vini (Thi Nại), lấy cùng lúc con 
gái và cháu gái của quốc vương Maha 
Vijaya làm vợ. Năm 1458, Bàn La Trà 
Duyệt tổ chức cuộc ám sát Maha Quý Do, 
đoạt ngôi, cầu phong hoàng đế nhà Minh và 
được công nhận. Nhờ sự che chở của nhà 
Nguyễn Văn Giác 
79 
Minh (Bàn La Trà Duyệt cống nạp hậu hĩnh 
cho nhà Minh), Bàn La Trà Duyệt công 
khai chống lại Đại Việt và tái thực hiện 
đường lối tự chủ thời trị vì của quốc vương 
Maha Vijaya (bố vợ của Bàn La Trà Duyệt) 
[1, tr.420]. Bàn La Trà Duyệt cũng có cái 
tên Trung Hoa là P’an Loyue, cái tên này 
được nhà Minh ghi nhận vào năm Thiên 
Thuận thứ 2 (1458) [14, tr.234]. Năm 1460, 
Bàn La Trà Duyệt thoái vị, nhường ngôi 
cho em. Tuy nhiên, theo tài liệu từ thời thì 
ông bị ép buộc chứ không phải tự nguyện 
rời bỏ ngôi vị mà bản thân phải tốn nhiều 
công sức và thời gian mới giành được. Theo 
tài liệu từ thời nhà Minh: “Quốc vương 
Maha Bàn La Trà Duyệt mới đây được 
phong tước vương, nối nghiệp quản lý việc 
nước, chưa được 4 năm đã vội mất, cái lý 
kế thừa không thể thiếu. Người em là Bàn 
La Trà Toàn, tính tình đôn hậu, biết giữ lễ 
khiêm cung (...) phong chức quốc vương 
Chiêm Thành” [11, tr.69] (Bàn La Trà Toàn 
đã tung tin Bàn La Trà Duyệt chết do đi sứ 
sang Trung Hoa (mục đích là để hợp thức 
hóa sự tiếm quyền của mình). Thực tế, vị 
quốc vương (con rể của Maha Vijaya) vẫn 
còn sống và đang bị người em trai giam 
lỏng ở một nơi bí mật nào đó tại kinh thành, 
ròng rã 11 năm trong niên đại chấp chính 
của Bàn La Trà Toàn (1460-1471). Bàn La 
Trà Duyệt được hoàng đế Lê Thánh Tông 
giải thoát và phục hồi ngôi vị. 
Tinh thần phản kháng của Bàn La Trà 
Duyệt lại trỗi dậy dù nhận được sự khoan 
dung của hoàng đế Lê Thánh Tông. Bàn La 
Trà Duyệt ngấm ngầm vận động các thế lực 
quý tộc địa phương để xây dựng lực lượng. 
Bàn La Trà Duyệt dốc toàn lực mở cuộc tấn 
công bất ngờ ra phủ lỵ Hoài Nhân, nhằm 
chiếm lại đất bản bộ Vijaya. Nhà nước Hoa 
Anh nhận được sự trợ giúp nhất định từ các 
vua xứ Nam Bàn (Thủy Xá, Hỏa Xá). Bàn 
La Trà Duyệt không nhận được sự trợ giúp 
của Bô Trì Trì (viên tướng này chiếm lĩnh 
miền Phiên Lung và sai sứ sang xưng thần, 
nộp cống để Đại Việt thụ phong). Bô Trì 
Trì (trước kia phò tá cho Bàn La Trà Toàn 
chống lại Bàn La Trà Duyệt) đang tranh 
chấp sự kế thừa vương quyền Champa 
chính thống với Bàn La Trà Duyệt. Bô Trì 
Trì muốn làm “ngư ông đắc lợi” trong cuộc 
giao tranh này, nên không động binh. 
Bàn La Trà Duyệt sai sứ đoàn sang nhà 
Minh thỉnh cầu sắc phong và xin sự trợ 
giúp. Sự kiện này được ghi chép như sau: 
“Vào tháng 2 năm Thành Hóa thứ 7, quan 
An Nam đến đánh phá kinh thành, bắt quốc 
vương Bàn La Trà Toàn cùng gia thuộc hơn 
50 người, tịch thu ấn quí, phá hủy nhà cửa, 
cướp giết quân dân nam nữ nhiều không kể 
xiết. Nay em của vương là Bàn La Trà 
Duyệt tạm thời coi việc nước, cúi xin được 
phân xử” [11, tr.86]. “ phong cho Bàn La 
Trà Duyệt, em cố quốc vương Bàn La Trà 
Toàn, kế tập chức quốc vương Chiêm 
Thành” [11, tr.87]. Như vậy, Vijaya (bố vợ 
của Bàn La Trà Duyệt) và Bàn La Trà 
Duyệt đều được các hoàng đế Minh triều 
chính thức thừa nhận quyền vương ngay tại 
xứ sở trị vì. Đây là vinh quang trong triều 
đại thứ XIII và thứ XIV trong lịch sử đế chế 
Champa3. 
Biến cố đã xảy ra trước khi Bàn La Trà 
Duyệt thụ hưởng ân huệ sắc phong từ thiên 
sứ Minh triều. Hoàng đế Lê Thánh Tông 
nổi cơn thịnh nộ trước sự bất phục của kẻ 
phiên thần do chính mình dựng lên, ngày 8 
tháng 11 năm Tân Mão (1471) đích thân 
nhà vua nam chinh lần thứ hai [12, t.2, 
tr.458]. Lê Thánh Tông cử Chinh lỗ tướng 
quân Lê Niệm dẫn cầm quân đi tiên phong 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
80 
(Lê Niệm là tướng tiên phong trong cuộc 
chinh phạt Vijaya một năm về trước) [8, 
tr.1120] cùng đại binh cứu viện từ Đông Đô 
phối hợp nghênh chiến. Đội quân của Lê 
Thánh Tông đã đập tan cuộc tấn công của 
Hoa Anh tại miền biên thùy Cù Mông và 
tiếp tục truy kích đối phương đến thành Hồ. 
Bàn La Trà Duyệt buộc phải lùi vào dãy 
Đại Lĩnh hiểm trở ở phía nam. Diễn biến 
cuộc nổi dậy này được ghi chép như sau: 
“ khi hàng hải đến cảng Tân Châu, 
Chiêm Thành, quân phòng thủ từ chối 
không cho vào, người thông dịch cho biết 
đất này đã bị An Nam chiếm, còn quốc 
vương Chiêm Thành tỵ nạn tại Linh Sơn. 
Khi đến Linh Sơn thì được biết cả nhà Bàn 
La Trà Duyệt bị An Nam bắt và đất Chiêm 
Thành bị đổi tên thành châu Giao Nam. 
Bọn Tuấn không dám ghé vào, nhưng 
thuyền chở hàng hóa tư, cùng nhiều thương 
nhân, nên lấy cớ bị gió bão rồi đi tiếp đến 
Mãn Lạt Gia” [11, tr.92-93]. Địa danh Linh 
Sơn được định vị trên bản đồ nằm hơi xa về 
phía nam thành Vijaya [11, tr.95] là núi 
Thạch Bi. Tại đây, Lê Thánh Tông đã cho 
quân vây bắt vị phiên vương Hoa Anh nổi 
loạn cùng vợ con và tướng sĩ sống sót, dẫn 
giải về giam giữ tại Đông Đô. Lúc này, lãnh 
thổ của Hoa Anh đã bị thu hẹp, chỉ còn lại 
mỗi địa vực Kauthara. Thời gian này, biên 
giới của Đại Việt được cắm mốc bởi ngọn 
núi có bia đá nhiên tạo với tục danh Đá Bia 
mà về sau có tên chữ Thạch Bi sơn. Trên đồ 
bản toàn quốc xác định vào tháng 4 năm 
Canh Tuất (1490), ranh giới tận cùng phía 
nam được chính thức ghi nhận là dãy núi 
Thạch Bi [3]. 
Vị phiên vương được chỉ định thay thế là 
một người cháu của Bàn La Trà Toàn. Theo 
sử sách: “Sau khi lấy Chiêm Thành, người 
An Nam cho lính đi bắt P’au Lo T’ou Yue 
(tên gọi khác của Bàn La Trà Duyệt) và đưa 
một người cháu gọi vua cũ là Trai Á Ma 
Phất Am bằng chú (bác) lên làm vua, trên 
khoảng đất ở phía nam biên thùy” [14, 
tr.239]. Với sự tấn phong này, Trai Á Ma 
Phất Am trở thành người kế vị chính thống 
không chỉ đối với Kauthara, mà còn cả 
miền Panduranga của Bô Trì Trì. Sau đó, 
Trai Á Ma Phất Am đã hủy bỏ định chế 
phiên thần Hoa Anh, thống nhất hai địa khu 
Kauthara và Panduranga thành nhà nước 
Hậu Champa. Lê Thánh Tông nhận thấy 
thời điểm này chưa đủ nguồn lực nên cũng 
tạm gác lại những vấn đề của nhà nước Hậu 
Champa. 
Năm 1478, Trai Á Ma Phất Am sai sứ 
thần sang Trung Hoa dâng biểu xin sắc 
phong nhằm tạo hậu thuẫn cho mục tiêu 
phục hưng vương quốc. Lời thỉnh cầu này 
được nhà Minh triều chấp thuận. Sứ đoàn 
mang chiếu chỉ phong vương cho Champa 
lần này không vướng phải một trở ngại nào. 
Đây cũng là lần cuối cùng nhà Minh cử sứ 
đoàn vượt biển đến Champa trực tiếp tấn 
phong. Ba năm sau, người em tên là Cổ Lai 
sát hại Trai Á Ma Phất Am, giành ngôi [8, 
tr.613]. Cổ Lai tiếp tục sai sứ thần thỉnh 
phong và đề đạt nguyện vọng nhờ cái uy 
của thiên triều mà lệnh cho Đại Việt trả lại 
đất đai. Thỉnh cầu này của Cổ Lai không 
được toại nguyện, dù nhà Minh có viết thư 
hăm dọa nhà Lê4. 
Cột mốc chính thức thời kì này vẫn là 
núi Thạch Bi, giới hạn cương vực Champa 
trong 5 bộ phận đất đai thuộc 2 địa khu 
Kauthara và Panduranga, trong đó địa khu 
Kauthara gồm hai xứ Ia Ru và Ia Trang 
(Ninh Hòa và Nha Trang ngày nay); địa 
khu Panduranga gồm 3 xứ (Phan Rang, 
Phan Rí và Phan Thiết ngày nay). 
Nguyễn Văn Giác 
81 
Với phần lãnh thổ vừa mới xác lập dọc 
dài nằm giữa dãy Trường Sơn và biển 
Champa, nhà nước Đại Việt chưa thể đồng 
loạt khai thác do thiếu nguồn nhân lực, nhất 
là vùng thung lũng trắc trở từ Cù Mông đến 
Thạch Bi (lãnh thổ Hoa Anh quốc trước 
đây). Cổ Lai, lợi dụng khó khăn này của 
Đại Việt để chiếm lại bộ phận đất đai cũ 
phía bắc. Cổ Lai tập trung binh lực khôi 
phục thành Hồ, lấy đây làm căn cứ trung 
tâm. Thành Hồ đã được tu sửa, gia cố một 
cách vững chắc hơn ở niên đại cuối thế kỷ 
XV đầu XVI. Theo Lương Ninh: “Từ sau 
năm 1471, việc xây dựng đền tháp hầu như 
bị ngừng hẳn để dồn sức cho việc xây dựng 
một thành lũy chưa từng có. Thành này... 
nằm trên bờ Bắc sông Đà Rằng” [6, tr.211]. 
Nhà nước Đại Việt từ sau thời trị vì của 
hoàng đế Lê Thánh Tông đã lâm vào tình 
trạng khủng hoảng kéo dài (do hàng ngũ kế 
vị bất tài và tiếp đó là nội chiến triền miên), 
nên tạm gác lại những xung đột với vùng 
đất mới mở gần biên thùy. Một thế kỷ sau, 
dưới sức ép của quyền lực chính trị khu vực 
kiến lập trong điều kiện mới, thành Hồ lần 
nữa bị san bằng và vương quốc Champa 
buộc phải lùi về đường biên cũ tại núi 
Thạch Bi5. 
4. Kết luận 
Lịch sử Hoa Anh quốc giống dấu gạch nối 
trong tiến trình phân tách và tái hợp của thể 
chế Champa. Không có mốc niên đại cuối 
đích xác cho Hoa Anh quốc vì còn nhiều 
tranh luận, song thời gian trị vì của những 
người đứng đầu Nhà nước Hoa Anh đã cho 
thấy khoảng trống nhất định của lịch sử. 
Những thành tựu thời Hậu Champa về sau 
được kết tinh từ tinh thần tự tôn cùng 
lòng nhiệt huyết phục hưng của dân tộc 
Champa trong bước chuyển mình nửa cuối 
thế kỷ XV. 
Chú thích 
2 Theo ý kiến nhà Dân tộc học Nguyễn Văn Huy, 
ngoài 5 địa khu thường được nhắc đến trong thiết 
chế hợp bang của vương quốc Champa, còn có thêm 
địa khu thứ sáu Aryaru (Phú Yên ngày nay) nằm 
giữa Vijaya và Kauthara (Bình Định và Khánh Hòa 
ngày nay) [18]. 
3 Nagara Campa là tên gọi của vương quốc Champa, 
chỉ liên minh bao gồm người Chàm và người cao 
nguyên. Bên cạnh đó, trên các bia ký và tài liệu lịch 
sử còn có thuật ngữ Urang Campa (thuật ngữ này chỉ 
tất cả người dân Nagara Campa, không có sự phân 
biệt giữa người đồng bằng với người miền núi) [5, 
tr.23]. 
4 Trong văn kiện ngoại giao, Lê Thánh Tông tỏ thái 
độ mềm mỏng trước triều đình nhà Minh về vấn đề 
đất đai của Champa như sau: “Phàm đất đai mà 
Chiêm Thành được phong rất cằn cỗi, nhà thì nghèo 
nàn, vườn không có tơ dâu, núi không có của báu, 
biển thiếu lợi về cá muối; chỉ có ngà voi, sừng tê 
giác, tô mộc, trầm hương mà thôi; mà nước thần sản 
xuất những thứ đó nhiều, nên không cho là quý. Lấy 
được đất đó không thể ở được, lấy được dân đó 
không thể dùng được, được sản phẩm đó không đủ 
để giàu, được cái thế đó cũng không trở nên mạnh 
được. Giữ gìn đất đó rất khó, mà lợi thì ít đó là lý 
do tại sao thần không chiếm đoạt đất đai Chiêm 
Thành để biến thành châu quận Vậy xin đặc sai sứ 
giả thiên triều đích thân đến xem đất đai, và phục 
hưng dòng bị tuyệt, khiến cho nước Chiêm Thành 
trên dưới được an tập; nơi biên thùy của thần cũng 
được yên ổn...” [14, tr.104-105]. Biết trước sự tra 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 
82 
xét hết sức mù mờ về các khu vực đất đai Champa 
của các sứ thần nhà Minh, hoàng đế Lê Thánh Tông 
không chịu nhượng bộ, sau khi đã giao trả một phần 
lãnh thổ Hoa Anh quốc là xứ Kauthara cho vua kế vị 
Trai Á Ma Phất Am. 
5 Năm 1578, Tổng trấn Nguyễn Hoàng sai Lương 
Văn Chánh tấn công thành Hồ, san bằng hệ thống cứ 
điểm quân sự kiên cố, đồng thời là nơi thương mại 
sầm uất thuộc địa phận bắc Champa, sau đó lui binh 
về án ngữ ở ranh giới cũ Cù Mông [17, tr.89]. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Chhabra, B. Ch (1935), Sự bành trướng của 
văn hóa Ấn - Arian trong thời đại Pallava, qua 
chứng cứ bia ký, Báo cáo, A.S.B. T.I. (Bia Chợ 
Dinh). 
[2] Coedès, George (2008), Cổ sử các quốc gia Ấn 
Độ hóa ở Viễn Đông, Nxb Thế giới, Hà Nội. 
[3] Nguyễn Đình Đầu (1996), “Phải chăng bản đồ 
Alexandre de Rhodes 1650 vẽ theo bản đồ 
Hồng Đức 1490?”, Tạp chí Xưa và Nay, số 33. 
[4] Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam từ 
nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Nxb Thế giới, 
Hà Nội. 
[5] Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong: lịch sử kinh 
tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb Trẻ, 
Tp. Hồ Chí Minh. 
[6] Lương Ninh (2006), Vương quốc Champa, 
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
[7] Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam 
liệt truyện, Nxb Thuận Hóa, Huế, t.1. 
[8] Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định 
Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, 
Hà Nội, t.1. 
[9] Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam 
nhất thống chí, Nxb Khoa học xã hội, Hà 
Nội, t.3. 
[10] Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1960), Lĩnh Nam chích 
quái, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 
[11] Hồ Bạch Thảo (2010), Minh thực lục: quan hệ 
Trung Quốc - Việt Nam thế kỷ XIV – XVII, Nxb 
Hà Nội, Hà Nội, t.3. 
[12] Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại 
Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà 
Nội, t.2, t.3. 
[13] Lafont, Pierre-Bernard (2011), Vương quốc 
Champa: Địa dư, Dân cư và Lịch sử, 
International Office of Campa. 
[14] Maspéro, George (1928), Vương quốc Chàm, 
Nxb Van Oest, Paris & Bruxelles. 
[15] Po Dharma (1997), “Survol de l’histoire du 
Campâ”, in Le Musée de Sculpture Cam de Da 
Nang, AFAO-EFEO, Paris. 
[16] Tze-Ken, Danny Wong (1997), “Relations 
between the Nguyen Lords of Southern Vietnam 
and the Champa Kingdom: A Preliminary 
Study”, Sejarah, Journal of the Department of 
History University of Malaya. No.5. 
[17] https://www.vanchuongviet.org/index.php? 
comp=tacpham&action=detail&id=8901, truy 
cập ngày 31/3/2018. 
[18] https://nghiencuulichsu.com/2016/08/31/tim-
hieu-cong-dong-nguoi-cham-tai-viet-nam, truy 
cập ngày 21/4/2014. 
[19]  
su-cham-trong-toan-thu, truy cập ngày 31/3/2018. 

File đính kèm:

  • pdfnha_nuoc_hoa_anh_trong_lich_su_phong_kien.pdf