Nhận diện và phân tích xung đột môi trường trên lưu vực sông Hiến tỉnh Cao Bằng

TÓM TẮT

Hiện nay ở Cao Bằng phát triển kinh tế đa phần đều dựa vào tài nguyên tự nhiên, trong đó có

nguồn nước lưu vực sông Hiến. Khi sử dụng tài nguyên để phát triển luôn xảy ra xung đột lợi ích

hoặc tranh chấp giữa các đối tượng sử dụng. Thông qua tiếp cận tổng thể và các phương pháp

nghiên cứu truyền thống trong ngành địa lý môi trường nhận dạng được các xung đột chính trong

sử dụng tài nguyên nước mặt lưu vực sông Hiến: giữa thuỷ điện và thuỷ lợi; tích nước hồ chứa và

khai thác khoáng sản; đắp đập ngăn sông và du lịch sinh thái; cấp nước và xả nước; thượng lưu và

hạ lưu.

Các mâu thuẫn này làm giảm hiệu quả khai thác, gây cạn kiệt tài nguyên và kìm hãm sự phát triển

kinh tế. Nguyên nhân và hệ quả đều bắt nguồn từ phân bố TNN không đều theo không gian và thời

gian, quy hoạch không đồng bộ, thiếu tính liên ngành trong quản lý. Để bảo vệ và phát triển bền

vững TNN trên lưu vực sông Hiến, bài báo đề xuất một số giải pháp đi từ cơ chế, chính sách đến

quy hoạch, nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý, khai thác tài nguyên.

pdf 8 trang yennguyen 5380
Bạn đang xem tài liệu "Nhận diện và phân tích xung đột môi trường trên lưu vực sông Hiến tỉnh Cao Bằng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận diện và phân tích xung đột môi trường trên lưu vực sông Hiến tỉnh Cao Bằng

Nhận diện và phân tích xung đột môi trường trên lưu vực sông Hiến tỉnh Cao Bằng
ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 200(07): 149 - 155 
 Email: jst@tnu.edu.vn 149 
NHẬN DIỆN VÀ PHÂN TÍCH XUNG ĐỘT MÔI TRƯỜNG TRÊN LƯU VỰC 
SÔNG HIẾN TỈNH CAO BẰNG 
Nguyễn Thị Thúy Hằng*, Hà Thị Hiền 
Viện Vật lý – Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam 
TÓM TẮT 
Hiện nay ở Cao Bằng phát triển kinh tế đa phần đều dựa vào tài nguyên tự nhiên, trong đó có 
nguồn nước lưu vực sông Hiến. Khi sử dụng tài nguyên để phát triển luôn xảy ra xung đột lợi ích 
hoặc tranh chấp giữa các đối tượng sử dụng. Thông qua tiếp cận tổng thể và các phương pháp 
nghiên cứu truyền thống trong ngành địa lý môi trường nhận dạng được các xung đột chính trong 
sử dụng tài nguyên nước mặt lưu vực sông Hiến: giữa thuỷ điện và thuỷ lợi; tích nước hồ chứa và 
khai thác khoáng sản; đắp đập ngăn sông và du lịch sinh thái; cấp nước và xả nước; thượng lưu và 
hạ lưu... 
Các mâu thuẫn này làm giảm hiệu quả khai thác, gây cạn kiệt tài nguyên và kìm hãm sự phát triển 
kinh tế. Nguyên nhân và hệ quả đều bắt nguồn từ phân bố TNN không đều theo không gian và thời 
gian, quy hoạch không đồng bộ, thiếu tính liên ngành trong quản lý. Để bảo vệ và phát triển bền 
vững TNN trên lưu vực sông Hiến, bài báo đề xuất một số giải pháp đi từ cơ chế, chính sách đến 
quy hoạch, nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý, khai thác tài nguyên. 
Từ khóa: Tài nguyên nước, xung đột, thủy điện, thủy lợi, du lịch 
Ngày nhận bài: 12/4/2019;Ngày hoàn thiện: 26/4/2019;Ngày duyệt đăng: 07 /5/2019 
IDENTIFY AND ANALYZE ENVIRONMENTAL CONFLICT 
AT HIEN RIVER BASIN, CAO BANG PROVINCE 
Nguyen Thi Thuy Hang, Ha Thi Hien 
Institute of Physics - Vietnam Academy of Science and Technology 
ABSTRACT 
Nowadays economic development in Cao Bang mostly depend on local natural resources including 
water sources at Hien river basin. When using natural resources to develop there’s always conflict 
between users. By using a macro approach and traditional research methods in environmental 
geology to identify main conflicts in using Hien river basin water sources: between hydropower 
and irrigation, water storage and resources mining, building dams and ecotourism, water storage 
and water discharge, upstream and downstream... These conflicts reduce the efficiency in mining 
and cause resources depletion, effectively limit economic developments. The cause and effects all 
started from unevenly distribution of water by time and space, asynchronous planning and lack of 
communication, interdisciplinary in management. To protect and achieve sustainable development 
using water resources at Hien river basin, this article provide some solutions from policy to 
planning, management, raising the skill level of managers. 
Keyword: Water resources, conflict, hydropower, irrigation, ecotourism... 
Received: 12/4/2019; Revised: 26/4/2019;Approved: 07/5/2019 
* Corresponding author: Email: nguyenhang214@gmail.com 
Nguyễn Thị Thúy Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 149 - 155 
 Email: jst@tnu.edu.vn 150 
1. Mở đầu 
Cao Bằng có vị trí đặc biệt quan trọng về chính 
trị, KT-XH, an ninh – quốc phòng. Tuy nhiên 
hiện nay việc khai thác, sử dụng tài nguyên bất 
hợp lý không theo quy hoạch đã làm nảy sinh 
nhiều mâu thuẫn, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra 
xung đột giữa các nhóm lợi ích. 
Sông Hiến bắt nguồn từ vùng núi Khau Vài 
có độ cao 1.200 m, chảy theo hướng Đông 
Bắc – Tây Nam, và đổ vào bờ phải Sông 
Bằng tại thành phố Cao Bằng. Đoạn chảy qua 
tỉnh Cao Bằng có độ dốc lớn, uốn khúc, nhiều 
thác ghềnh, là yếu tố thuận lợi để xây dựng 
thủy điện, phát triển du lịch. 
Năm 2012 UBND tỉnh Cao Bằng đã ban hành 
Quyết định số 2011/QĐ-UBND ngày 
19/12/2012 về việc phê duyệt Quy hoạch khai 
thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước 
(TNN) đến 2020, định hướng đến 2030. 
Trong đó, sông Hiến có chức năng: cấp nước 
sinh hoạt, tưới và tiêu thoát nước, nuôi trồng 
thủy sản, phát triển công nghiệp trong đó có 
thủy điện. Tính đến hết tháng 12/2018 lưu vực 
sông Hiến có 3 thủy điện đã và đang được triển 
khai, nhiều Dự án công nghiệp lấy nước và xả 
nước ra lưu vực sông Hiến, song song là các 
chương trình phát triển các vùng nhiên liệu 
phục vụ chế biến nông lâm sản công nghệ cao 
đều tiêu dùng một lượng nước lớn. 
Sự phát triển của ngành nào ít nhiều đều ảnh 
hưởng đến sự tồn tại của các ngành khác gây 
ra tranh chấp về TNN. Xây dựng thủy điện 
với hoạt động ngăn sông đắp đập làm thiếu 
nước cấp cho các cánh đồng và dân cư vùng 
hạ lưu, làm mất cơ hội khai thác khoáng sản 
lòng sông, ảnh hưởng đến phát triển du lịch 
sinh thái; khai thác và chế biến khoáng sản làm 
ô nhiễm môi trường nước, giảm năng suất nuôi 
trồng và đánh bắt thủy sản, giảm chất lượng 
nước tưới, tăng nguy cơ xói lở đường bờ, mất 
cơ hội du lịch... đã và đang là những xung đột 
tồn tại trên lưu vực sông Hiến. 
Xung đột hay tranh chấp về TNN đã được 
quan tâm nhiều ở một số lưu vực sông lớn, là 
đối tượng sử dụng nước của nhiều quốc gia. 
Điển hình đối với khu vực phải kể đến sông 
Mê Công, theo UB sông Mê Công Việt Nam 
đã được thành lập năm 2010, có chức năng là 
phối hợp với UB của Quốc gia khác để điều 
tiết và phân bố hợp lý TNN. Sau khi được 
thành lập, nhiều nghiên cứu, đề xuất của UB 
để hạn chế xung đột lợi ích đã được xây dựng 
và bước đầu có hiệu quả nhất định. Đáng chú 
ý là những báo cáo mang tính chiến lược về 
phát triển thủy điện và quản lý tổng hợp TNN 
cho lưu vực sông Mê Kông [1, 2, 3]. Các tài 
liệu đều nêu bật lên mối quan hệ tương hỗ, 
thậm chí rủi ro và tranh chấp khi các ngành, 
các nước đều phát triển các ngành kinh tế gắn 
với việc sử dụng TNN từ sông Mê Công. Một 
vài các nghiên cứu liên quan khác có đề cập 
đến xung đột môi trường trên các lưu vực 
sông khác như sông Srepok, Nhuệ - Đáy... [4, 
5]; Các nghiên cứu trên đều đề cập đến TNN 
nhưng ở từng lĩnh vực khác nhau hoặc đi sâu 
đánh giá tiềm năng khai thác, hoặc quy hoạch 
và đề xuất các giải pháp sử dụng bền vững 
nước mặt; các nghiên cứu về nhận diện và 
phân tích xung đột chi tiết đến từng đối tượng 
sử dụng, từng đơn vị không gian lãnh thổ hầu 
ít được đề cập. Đặc biệt đối với các lưu vực 
sông thuộc phụ lưu, chi lưu hay sông nhánh 
hầu hết chưa có nghiên cứu về xung đột TNN. 
Vì vậy mục tiêu của bài viết là nhận diện và 
phân tích về xung đột TNN trên lưu vực sông 
Hiến (nhánh cấp I của sông Bằng Giang), Cao 
Bằng, Từ đó kiến nghị những định hướng giải 
quyết nhằm hạn chế tranh chấp phục vụ phát 
triển KT-XH bền vững. 
2. Tiếp cận vấn đề và phương pháp 
nghiên cứu 
Để giải quyết được mục tiêu đề ra, bài viết sử 
dụng cách tiếp cận tổng thể để xem xét nhu 
cầu sử dụng nước, vai trò của các ngành 
nhóm ngành trong hệ thống kinh tế tỉnh Cao 
Bằng. Quá trình xem xét, phân tích gắn với 
quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ 
môi trường, điều kiện TN – KT – XH và các 
quy hoạch ngành trên phạm vi lãnh thổ là lưu 
vực sông Hiến, tỉnh Cao Bằng. 
Nguyễn Thị Thúy Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 149 - 155 
 Email: jst@tnu.edu.vn 151 
Hệ thống tài liệu sử dụng chủ yếu là các số 
liệu thống kê từ Niên giám thống kê của tỉnh 
trong những năm gần đây; các quy hoạch phát 
triển KT - XH, TNN, khai thác khoáng sản và 
17 tình huống xung đột trong cơ sở dữ liệu 
của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc 
(UNDP) tại Việt Nam, nhằm xác định các loại 
xung đột trên lưu vực nghiên cứu [6,7]. Nhận 
dạng xung đột dựa theo Environmental 
Conflict Resolution (WRDC, 1992) [8]. Đầu 
tiên, qua các phương tiện thông tin đại chúng, 
các báo cáo môi trường và tình hình thực tế 
tại địa phương, một loạt các tranh chấp sẽ 
được xác định [9]. Sau đó, lựa chọn những 
mâu thuẫn nổi bật, đại diện để phân tích. 
Thông qua bước này xung đột vòng cung giữa 
các yếu tố liên quan đến sinh hoạt của con 
người và các ngành kinh tế được nhận diện. 
Việc phân tích các tranh chấp dựa theo 
Chandrasekharan D, 1996 [10]. Các xung đột 
được phân tích theo các hướng là bản chất, 
các nhóm liên quan và đối tượng chịu ảnh 
hưởng. Tích hợp các yếu tố xung đột để có 
cái nhìn tổng thể bằng phương pháp ma trận 
đơn giản. Giải quyết xung đột được tham 
khảo từ 02 đề tài cấp Bộ đã được áp dụng trên 
cả nước [5]. 
3. Vấn đề khai thác sử dụng tài nguyên 
nước trên lưu vực sông hiến 
3.1 Sơ bộ về sông Hiến: là nhánh sông cấp I 
phía phải của sông Bằng Giang có hướng 
chảy chếch từ Tây Nam sang Đông Bắc, nhập 
lưu vào sông Bằng Giang ở trung tâm thành 
phố Cao Bằng. Sông Hiến có độ dốc dọc lòng 
sông trung bình, nguồn nước dồi dào và trữ 
lượng thủy năng phong phú, bắt nguồn từ dãy 
núi Ngân Sơn, thuộc Đông Bắc, độ dốc trung 
bình 26,8%, mật độ sông suối 0,98 km/km². 
3.2 Hiện trạng khai thác, sử dụng nước lưu 
vực sông Hiến 
- Cấp nước sinh hoạt: Sông Hiến (cùng với 
sông Bằng Giang) là một trong 2 nguồn nước 
mặt chủ yếu được Công ty TNHH một thành 
viên cấp nước Cao Bằng sử dụng để sản xuất 
nước phục vụ nhu cầu cho sản xuất và sinh 
hoạt của người dân Thị xã Cao Bằng và một 
số xã ven sông với công suất khai thác 
khoảng 500.000m3 nước sạch/tháng. Tuy 
nhiên năng lực cấp nước hiện nay mới đáp 
ứng được khoảng 65% nhu cầu, chủ yếu tập 
trung tại các trung tâm huyện, thị, cư dân 
vùng sâu vùng xa vẫn sử dụng nước ngầm là 
chủ yếu. 
Bảng 1. Hình thái lưu vực và một số đặc trưng thủy văn chủ yếu của sông Hiến 
Đặc trưng thủy văn Ký hiệu Đơn vị đo Giá trị 
 1. Tên sông 
 2. Khu vực khí hậu 
 3. Thuộc hệ thống sông 
 4. Phụ lưu cấp 
 5. Phía nhập lưu 
 6. Chiều dài sông 
 7. Diện tích lưu vực 
 8. Chiều rộng TB lưu vực 
 9. Cao độ lớn nhất lưu vực 
10. Cao độ lớn nhất đáy sông 
11. Cao độ đáy sông tại cửa ra 
12. Độ dốc lưu vực 
13. Độ dốc đáy sông 
14. Mưa TB nhiều năm 
15. Mô đun dòng chảy năm 
16. Mô đun dòng chảy lũ 
- 
- 
- 
- 
 - 
Ls 
Flv 
Blv 
Zlv max 
ZS max 
ZCS 
ilv 
is 
X0 
M0 
ML 
- 
- 
- 
- 
- 
km 
km2 
km 
m 
m 
m 
%0 
%0 
mm/năm 
l/s/km2 
m3/s/km2 
Sông Hiến 
Đông Bắc Bộ 
S. Bằng Giang 
I 
Phải 
62 
934 
15,06 
650,0 
400,0 
181,5 
7,56 
3,52 
1630 
27,0 
3,0÷5,0 
- Cấp nước cho sản xuất công nghiệp: Theo quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ TNN tỉnh 
Cao Bằng đến năm 2020, sông Hiến có chức năng cung cấp nước cho công nghiệp khai khoáng, 
Nguyễn Thị Thúy Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 149 - 155 
 Email: jst@tnu.edu.vn 152 
chế biến nông lâm sản và các ngành công 
nghiệp khác trên địa bàn, với năng lực cấp từ 
600.000 -700.000 m
3
/tháng. Các KCN và 
doanh nghiệp tiêu dùng nước lớn phải kể đến: 
KCN Đề Thám, CCN Chu Trình, CCN Bạch 
Đằng....với các ngành nghề là cơ khí, hàng 
tiêu dùng, khai thác chế biến khoáng sản, lâm 
sản, thực phẩm. Cấp nước cho sản xuất nông 
nghiệp: đảm bảo chức năng tưới cho khoảng 
10.200ha, chủ yếu là cánh đồng của huyện 
Hòa An, huyện Nguyên Bình và một phần 
nhỏ thuộc thành phố Cao Bằng. Khoảng 160 
diện tích đất trồng màu, cây công nghiệp, đất 
hoang, đất trồng tạp... chưa có điều kiện cung 
cấp nước, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên 
- Cấp nước cho thủy điện: thủy điện là một 
ngành công nghiệp đặc thù, do quá trình sử 
dụng nước không tiêu hao, nước sau khi được 
dẫn qua tuabin sẽ được hoàn trả lại dòng chảy 
tự nhiên. Theo quy hoạch thuỷ điện nhỏ tỉnh 
Cao Bằng trên sông Hiến đoạn qua địa bàn 
tỉnh Cao Bằng đã được quy hoạch 03 thủy 
điện (bảng 2) với tổng công suất 17,3MW. 
Hình 1. Sơ đồ bậc thang thủy điện trên dòng 
chính sông Hiến, tỉnh Cao Bằng 
Trong 03 thủy điện nêu trên, 2 thủy điện là Hòa 
Thám và Bạch Đằng đang triển khai xây dựng 
dự kiến 2020 sẽ hòa lưới điện quốc gia, Pắc 
Khuổi đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. 
4. XĐMT trong sử dụng tnn mặt lưu vực 
sông Chảy 
4.1 Những XĐMT chủ yếu 
Áp lực phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng về 
dân số, đô thị hóa, nông thôn mới... cũng 
chính là áp lực làm phát sinh các mâu thuẫn 
trong sử dụng và bảo vệ TNN, đe dọa đến cán 
cân phát triển bền vững vùng và khu vực . 
Mâu thuẫn xảy ra khi phát triển ngành này mà 
không chú trọng đến ngành khác hoặc cán cân 
phát triển không đồng đều. 
- Xung đột do sử dụng nước giữa ngành công 
nghiệp và các ngành còn lại: 
Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, 
chế biến nông lâm sản đều tiêu dùng một 
lượng nước lớn, song song là hoạt động xả 
thải vào sông Hiến. Nếu như trong chế biến 
khoáng sản hàm lượng các chất ô nhiễm khi 
thải ra sông Hiến chủ yếu là độ đục và kim 
loại nặng thì trong công nghiệp chế biến nông 
lâm sản là độ mầu, mùi, COD, BOD và các 
hợp chất hữu cơ khác. Tổng lượng nước thải 
sông Hiến phải tiếp nhận hàng năm khoảng 3 
triệu m3 [7]. Khi nước sông bị ô nhiễm, lưu 
lượng bị sụt giảm sẽ: thiếu và giảm chất 
lượng nước tưới ảnh hưởng đến năng suất cây 
trồng, chết hoa màu- cây lương thực... ; giảm 
năng lực cấp nước sinh hoạt về cả chất và 
lượng ảnh hưởng bất lợi đến đời sống của cư 
dân. Cán cân xung đột lúc này xảy ra chủ yếu 
giữa 3 ngành công nghiệp, sinh hoạt và nông 
nghiệp. Đối với ngành thủy điện chỉ xảy ra 
tranh chấp về lưu lượng và chịu sự chi phối 
không lớn của chất lượng nước. Khi không 
tính thủy điện vào nhóm ngành này thì theo 
phương pháp ma trận kết quả thể hiện tại bảng 
2 tổng điểm xung đột đối với loại hình này là 
6x, mức xung đột được đánh giá là mạnh. 
- Xung đột do sử dụng nước giữa ngành nông 
nghiệp và các ngành còn lại: 
Để tăng năng suất và sản lượng lương thực, 
người dân trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói 
chung và lưu vực sông Hiến nói riêng đã áp 
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản 
xuất nông nghiệp như: sử dụng thuốc bảo vệ 
thực vật, phân bón... Việc sử dụng các hợp 
chất này không tuân thủ đúng theo quy định 
đã và đang làm tồn dư một lượng hóa chất 
trong nước mặt. Đồng thời hoạt động chăn 
nuôi và nuôi trồng thủy sản xung quanh lưu 
vực sông Hiến hầu hết đều tồn tại ở quy mô 
nhỏ lẻ và phân tán, nên khó quản lý và xử lý 
Nguyễn Thị Thúy Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 149 - 155 
 Email: jst@tnu.edu.vn 153 
nguồn thải. Do địa hình đồi núi, nên các chất 
thải này theo địa hình dốc đã bổ sung một 
lượng chất hữu cơ khá lớn cho hệ thống nước 
mặt khu vực. 
Khi lấy nghành nông nghiệp làm trọng tâm để 
phân tích thì xung đột xảy ra liên quan nhiều 
đến chất lượng hơn là lưu lượng. Chất lượng 
nước suy giảm do dư lượng thuốc bảo vệ thực 
vật và xả thải phế thải chăn nuôi dẫn đến chi 
phí cho xử lý nước cấp cho sinh hoạt, công 
nghiệp tăng, lúc này mâu thuẫn sẽ xảy ra. Tuy 
nhiên mâu thuẫn xảy ra đối với loại hình này 
được đánh giá ở mức trung bình, do yêu cầu 
cấp nước không lớn cũng như việc quản lý và 
xử lý đơn giản hơn trong công nghiệp. 
- Xung đột liên quan đến quá trình sinh hoạt 
của cư dân thuộc lưu vực sông Hiến: 
Như đã nêu tại mục 3.2 sông Hiến có chức 
năng cấp nước sinh hoạt cho thành phố Cao 
Bằng và một số huyện lân cận. Với đặc điểm 
tốc độ đô thị hóa nhanh và sự tập trung tại 
một số vị trí vùng ven sông một phần làm gia 
tăng nhu cầu nước phục vụ ăn uống sinh hoạt, 
sản xuất; đồng thời cũng làm gia tăng áp lực 
xử lý và tiếp nhận nước thải của dòng sông. 
Song song với đó là việc xả rác thải sinh hoạt 
bừa bãi cũng làm chất lượng nước sông Hiến 
bị giảm mạnh ảnh hưởng đến việc tiêu dùng 
của các ngành khác. Nếu ô nhiễm xảy ra thì 
đây là loại hình ô nhiễm hữu cơ, quá trình xử 
lý không quá phức tạp, các nguồn thải mang 
tính chất nhỏ lẻ quy mô phát tán không lớn, 
nhưng khó quản lý, xung đột có xảy ra nhưng 
ở mức thấp. 
- Xung đột trong phát triển thủy điện với các 
ngành kinh tế khác: 
Bản chất của thủy điện là một ngành công 
nghiệp năng lượng, tuy nhiên do tính đặc thù 
của ngành này là sử dụng nước không tiêu 
hao nên trong phạm vi nghiên cứu này, nhóm 
tác giả có xếp ngành này đứng độc lập. Mâu 
thuẫn xảy ra khi có hoạt động tích nước phát 
điện tại hồ chứa, làm hạ thấp mực nước, gây 
khó khăn cho hoạt động của các công trình 
thủy lợi lân cận. Đặc biệt tích nước vào mùa 
khô sẽ gây hạ thấp mực nước, dẫn đến các 
công trình như cống, trạm bơm không hoạt 
động được, đồng nghĩa với việc thiếu nước 
tưới, gây chết hoa màu- cây lương thực... 
vùng hạ du đặc biệt vào mùa khô. 
Trong quá trình xây dựng hồ chứa thủy điện, 
hoạt động tích nước lòng hồ làm mất đi cơ hội 
khai thác khoáng sản. Nếu không kịp khai 
thác hoặc tận thu trước khi xây dựng các nhà 
máy thủy điện, toàn bộ vật liệu này sẽ bị nhận 
chìm. Một số mỏ khoáng sản được cấp phép 
nhưng chưa hết thời hạn khai thác phải tạm 
dừng để phục vụ phát triển thủy điện đã gây 
ra tranh chấp, không đồng thuận trong quá 
trình bồi thường giải phóng mặt bằng. Tổn thất 
về kinh tế xảy ra đối với tất cả các bên. Xung 
đột ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các nhóm 
cộng đồng dân cư, gây căng thẳng và làm xấu 
đi mối quan hệ giữa các doanh nghiệp. 
- Xung đột xảy ra ngay trong nội hàm các ngành: 
Nếu như các loại hình xung đột trên xảy ra 
trên quy mô của quy hoạch TNN, thì nội hàm 
các ngành lại xảy ra tranh chấp ở quy mô nhỏ, 
chủ yếu giữa các doanh nghiệp hoặc các KCN 
có nhu cầu sử dụng nước lớn. Các doanh 
nghiệp, KCN lấy nước ở thượng nguồn sẽ có 
nhiều thuận lợi do chất lượng nước đầu nguồn 
tốt, lưu lượng dồi dào. Nhưng khi khi thác và 
tận dụng triệt để sẽ dẫn đến sự thiếu nước và 
gia tăng chi phí xử lý cho các doanh nghiệp ở 
hạ du. 
Ngoài các xung đột chính nêu ở trên một số 
các mâu thuẫn khác cũng tồn tại trong quá 
trình sử dụng TNN lưu vực sông Hiến, tuy 
nhiên ở mức độ không lớn, ví dụ như: giữa 
thủy điện và giao thông thủy, quá trình đắp 
đập tạo những hàng rào ngăn không cho 
thuyền bè qua lại; giữa lâm nghiệp và các 
ngành khác, khi mất diện tích rừng dẫn đến 
xòi mòn rửa trôi, gia tăng độ đục, sạt lở bờ 
sông gây nguy cơ đối với các khu đô thị và 
nhà máy ven sông...; giữa công nghiệp và du 
lịch khi cảnh quan tự nhiên bị thay thế bằng 
các nhà máy, công xưởng... 
Tích hợp các xung đột TNN trên lưu vực sông 
Hiến được thể hiện tại bảng 2. 
Nguyễn Thị Thúy Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 149 - 155 
 Email: jst@tnu.edu.vn 154 
Bảng 2. Ma trận thể hiện xung đột TNN trên lưu vực sông Hiến, Cao Bằng 
 Công nghiệp Nông nghiệp Sinh hoạt Thủy điện Tổng 
Công nghiệp x xx xxx 6x 
Nông nghiệp xx x xx 5x 
Sinh hoạt x x x 3x 
Thủy điện xxx xx x xx 8x 
Ghi chú: xxx là cấp độ mạnh; xx: Trung bình; x; Yếu 
Nhìn vào Bảng 2 có thể thấy mối quan hệ 
trong các xung đột được phân tích. Mức độ và 
nguy cơ xảy ra tranh chấp tồn tại lớn nhất ở 
công nghiệp bao gồm cả thủy điện. Khi tách 
riêng thủy điện đứng độc lập thì xung đột 
diễn ra với tất cả các ngành và đều ở mức độ 
lớn đến trung bình. Vì vậy trong quá trình quy 
hoạch TNN cần thiết phải chú trọng vào 
nhóm ngành này để tiến tới giảm thiểu và loại 
trừ các mâu thuẫn trong phát triển KTXH và 
bảo vệ TNN. 
4.2 Các đề xuất để giảm thiểu và hạn chế 
tranh chấp TNN 
- Thực thi và điều chỉnh quy hoạch: Năm 
2012 UBND tỉnh Cao Bằng đã công bố Quy 
hoạch khai thác và bảo vệ TNN đến năm 
2020 trong đó đã có sự phân chia sử dụng tài 
nguyên theo từng nhóm ngành. Tuy nhiên có 
thể thấy sự ưu tiên phát triển công nghiệp 
khai thác và chế biến khoáng sản, đồng thời 
tập trung quy hoạch theo địa giới hành chính 
và không quản lý theo lưu vực sông. Vì vậy 
kiến nghị thực hiện chương trình kiểm kê đánh 
giá thực trạng TTN lưu vực sông Hiến trên cơ 
sở đó thực hiện quy hoạch chi tiết về khai thác, 
sử dụng và bảo vệ TNN ở từng nhóm ngành; 
đồng thời rà soát, điều chỉnh bổ sung quy 
hoạch cho phù hợp với thực tế hiện nay. 
- Xây dựng ủy ban quản lý lưu vực một số 
sông chính trên địa bàn tỉnh Cao Bằng: trong 
đó có sông Hiến: Hiện nay ở Cao Bằng, quản 
lý TNN tập trung theo đơn vị hành chính, 
chồng chéo, thiếu đơn vị chuyên trách, ví dụ 
như Sở NN & PTNT chuyên về thủy lợi; Sở 
Công thương về quy hoạch khai thác khoáng 
sản, thủy điện; Sở TN & MT cấp phép các 
công trình xả nước thải, khai thác nước mặt... 
chưa tính đến các chương trình lớn thuộc 
thẩm quyền các Bộ. Do sự phân tách nhỏ lẻ 
giữa các cơ quan chức năng dẫn đến nhiều 
dự án không gắn với quy hoạch chung về 
TNN kéo theo nhiều công trình cấp nước bị 
hủy bỏ do thiếu nước hoặc ngập nước hồ 
chứa, các vùng nguyên liệu nông lâm sản 
không phát triển do chất lượng nước tưới 
không đạt yêu cầu... 
Vì vậy khi thành lập ủy ban quản lý lưu vực 
sông Hiến sẽ là cơ quan đầu mối chịu trách 
nhiệm xây dựng và giám sát quá trình thực 
hiện quy hoạch đảm bảo phân bổ đồng đều, 
hài hòa TNN giữa các ngành kinh tế. 
- Xây dựng các thể chế bền vững đối với các 
hoạt động xả thải vào nguồn nước và bảo vệ 
TNN: Một trong những nguyên nhân làm suy 
giảm chất lượng nước sông Hiến là hoạt động 
xả thải từ các ngành, vì vậy cần tăng cường 
và kiểm soát chặt chẽ việc thu phí nước thải, 
ví dụ như: Tăng phí bảo vệ môi trường đối 
với nước thải sinh hoạt để đáp ứng đủ chi phí 
xử lý nước thải; quy định các mức phí thải 
khác nhau cho các khu vực thành thị và nông 
thôn, giữa các hộ gia đình và cơ sở kinh 
doanh; áp dụng chế độ thu phí xả thải lũy tiến 
như đã có trong thu phí điện, nước... 
- Giám sát chặt chẽ việc xử lý vi phạm: Hiện 
nay theo Nghị định 33/2017/NĐ-CP mức phạt 
cao nhất là 1 tỷ đồng cho các hành vi gây 
nhiễm môi trường nước nghiêm trọng. Tuy 
nhiên số lượng các doanh nghiệp bị xử phạt 
thấp không tương quan với thực tế, đặc biệt 
đối với các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất 
nhỏ lẻ hầu như không bị thanh tra và xử phạt. 
Vì vậy cần tăng cường kiểm soát đối với các 
doanh nghiệp nhỏ kết hợp với các biện pháp 
cứng rắn khác để buộc các cơ sở sản xuất phải 
xử lý hậu quả ô nhiễm. 
Nguyễn Thị Thúy Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 149 - 155 
 Email: jst@tnu.edu.vn 155 
- Đầu tư nguồn nhân lực: Cao Bằng là một 
tỉnh miền núi, điều kiện kinh tế - xã hội, dân 
tộc học, nhận thức còn nhiều khó khăn. Năng 
lực của đội ngũ những người làm quy hoạch, 
vận hành khai thác thủy lợi, thủy điện thấp, 
không được đào tạo bài bản hay cập nhật kiến 
thức chuyên ngành đặc biệt là các kiến thức 
về quản lý tổng hợp TNN và bảo vệ môi 
trường nước theo lưu vực sông. Đây là những 
cản trở trong giảm thiểu các xung đột. Tăng 
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, 
đặc biệt là cán bộ vận hành, quản lý thủy 
điện, thủy lợi, các cán bộ quản lý từ cấp trung 
ương đến địa phương để đảm đương tốt 
nhiệm vụ được giao. 
- Xây dựng và sớm ban hành quy trình tích 
nước và xả lũ các hồ chứa trên lưu vực sông 
Hiến, hài hòa các lợi ích sử dụng nước, vừa 
tận dụng nguồn thủy năng vừa giảm nhẹ lũ và 
hạn hán ở hạ du. 
5. Kết luận và kiến nghị 
Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía Bắc có 
điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho phát triển 
thủy điện, công nghiệp khai khoáng, chế biến 
nông lâm sản tạo tiền đề thúc đẩy phát triển 
KTXH. Đây cũng là nguyên nhân gây nên các 
tranh chấp, xung đột trong sử dụng TNN trên 
lưu vực sông Hiến. 
Các xung đột trong khai thác, sử dụng và 
quản lý TNN được phân tích dựa trên 3 ngành 
kinh tế chính phụ thuộc nguồn nước mặt sông 
Hiến. Xung đột không chỉ xảy ra giữa ngành 
này với ngành khác mà là xung đột kép, 
tương tác giữa các ngành kinh tế với nhau. 
Trong các đề xuất giảm thiểu xung đột TNN 
cần ưu tiên thực hiện quy hoạch TNN theo 
lưu vực sông; rà soát, điều chỉnh bổ sung quy 
hoạch cho phù hợp với thực tế hiện nay. Kiến 
nghị xây dựng ủy ban quản lý lưu vực sông 
để tránh hiện tượng chồng chéo giữa các Sở 
ban ngành, ủy ban là cơ quan đầu mối chịu 
trách nhiệm xây dựng và giám sát quá trình 
thực hiện quy hoạch đảm bảo phân bổ đồng 
đều, hài hòa TNN giữa các ngành kinh tế. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam, Báo cáo 
Đánh giá Môi trường Chiến lược về Thủy điện 
trên Dòng chính sông Mê-Công, Hà Nội, 2010. 
[2]. Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam, Chiến lược 
phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài 
nguyên nước cho hạ lưu vực sông Mê Kông, Hà 
Nội, 2011. 
[3]. Đào Trọng Tứ và Nhóm công tác Mê Công, 
Phát triển thủy điện lưu vực sông góc Mê Công 
góc nhìn địa chính trị, GreenID, Hà Nội, 2014. 
[4]. Ngô Thùy Dương, Lê Đình Thành, Phan Văn 
Yên, “Xung đột môi trường trong sử dụng tài nguyên 
nước mặt lưu vực sông Srepok”, Tạp chí Khoa học 
Kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường, số 41, 2013. 
[5]. Bộ Khoa học và Công nghệ, Nghiên cứu biến 
động môi trường do thực hiện quy hoạch phát triển 
KT - XH và khai thác sử dụng hợp lý TNTN giai 
đoạn 1996-2010, đề tài KHCN mã số 07.05, 2012. 
[6]. UBND tỉnh Cao Bằng, Quyết định phê duyệt 
và Thuyết minh Đồ án Quy hoạch tổng thể phát 
triển kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng đến năm 2020, 
định hướng đến năm 2025, Cao Bằng, 2014. 
[7]. UBND tỉnh Cao Bằng, Quyết định phê duyệt 
và Thuyết minh Đồ án Quy hoạch khai thác sử 
dụng và bảo vệ tài nguyên nước tỉnh Cao Bằng 
đến năm 2020, Cao Bằng, 2012. 
[8]. WRDC (Western Rural Development Centre), 
Environmental Conflict Resolution: A resource 
notebook, Compilation for Regional training 
workshop, Washington State University, 1992. 
[9]. UBND tỉnh Cao Bằng, Báo cáo hiện trạng 
môi trường tỉnh Cao Bằng, giai đoạn 2011-2015, 
Cao Bằng, 2016. 
[10]. Chandrasekharan D., “Addressing Natural 
Resource Conflicts through Community Forestry: 
The Asian Perspective. Paper prepared for Session 
3: 'Asia and Latin America', of the e-conference 
on Addressing Natural Resource Conflicts through 
Community Forestry”, Proceedings of electronic 
conference on Addressing Natural Resource 
Conflict Through Community Forestry, Food and 
Agricultural Organization of the United Nations, 
Rome 1996. 
[11]. Trần Anh Tuấn, Đề tài cấp Bộ: Các giải 
pháp giải quyết mâu thuẫn trong khai thác, sử 
dụng nước ở vùng Tây Nguyên, Viện Chiến lược 
phát triển- Bộ Kế hoạch đầu tư, 2017. 
  Email: jst@tnu.edu.vn 156 

File đính kèm:

  • pdfnhan_dien_va_phan_tich_xung_dot_moi_truong_tren_luu_vuc_song.pdf