Những con đường giao thương từ Cao Nguyên đến ven biển miền Trung trong lịch sử

TÓM TẮT:

Ít nhất có 2 luồng giao thương trong mối

quan hệ trao đổi giữa người miền núi tại chỗ

Tây Nguyên với cư dân vùng đồng bằng ven

biển miền Trung trong quá khứ. ðó là luồng

trao đổi đi xuống vùng người Chăm ở Phan Rí,

Phan Rang và luồng trao đổi khác đi xuống

vùng người Việt ở Khánh Hòa, Phú Yên.

ðể có thể thực hiện các giao dịch hàng hóa,

từ nơi xuất phát là vùng nội địa (hinterland) đến

khu vực ven biển miền Trung, ắt phải có những

con đường giao thương. Và thực tế, đã từng có

nhiều con đường giao thương Thượng - Chăm

trong quá khứ. ða phần chúng là đường mòn

do chính người tại chỗ tự tạo, có xuất phát từ vị

trí định cư của các ngôi làng ở Cao Nguyên

nhiều truyền thống trao đổi.

pdf 7 trang yennguyen 6600
Bạn đang xem tài liệu "Những con đường giao thương từ Cao Nguyên đến ven biển miền Trung trong lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những con đường giao thương từ Cao Nguyên đến ven biển miền Trung trong lịch sử

Những con đường giao thương từ Cao Nguyên đến ven biển miền Trung trong lịch sử
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X1-2015 
 Trang 33 
Những con ñường giao thương 
từ Cao Nguyên ñến ven biển miền Trung 
trong lịch sử 
• Nguyễn Thị Hòa 
Viện Khoa học Xã hội Vùng Tây Nguyên 
TÓM TẮT: 
Ít nhất có 2 luồng giao thương trong mối 
quan hệ trao ñổi giữa người miền núi tại chỗ 
Tây Nguyên với cư dân vùng ñồng bằng ven 
biển miền Trung trong quá khứ. ðó là luồng 
trao ñổi ñi xuống vùng người Chăm ở Phan Rí, 
Phan Rang và luồng trao ñổi khác ñi xuống 
vùng người Việt ở Khánh Hòa, Phú Yên. 
ðể có thể thực hiện các giao dịch hàng hóa, 
từ nơi xuất phát là vùng nội ñịa (hinterland) ñến 
khu vực ven biển miền Trung, ắt phải có những 
con ñường giao thương. Và thực tế, ñã từng có 
nhiều con ñường giao thương Thượng - Chăm 
trong quá khứ. ða phần chúng là ñường mòn 
do chính người tại chỗ tự tạo, có xuất phát từ vị 
trí ñịnh cư của các ngôi làng ở Cao Nguyên 
nhiều truyền thống trao ñổi. 
T khóa: con ñường giao thương, Cao Nguyên (Việt Nam), trao ñổi 
1. Mối quan hệ Thượng - Chăm và dấu vết 
những con ñường trong sử liệu 
Nghiên cứu mối quan hệ giao thương giữa cư 
dân Tây Nguyên và cận Tây Nguyên với người 
Chăm trong quá khứ, học giả người Pháp dựa vào 
tài liệu biên niên sử Trung Quốc viết về cống vật 
của người Chăm dành cho triều ñình Trung Hoa, 
giai ñoạn từ thế kỷ thứ III ñến thế kỷ thứ XI. Những 
cống vật này gồm rất nhiều voi, ngà voi, sừng tê 
giác, kỳ nam, hương liệu, gỗ quý, bình vàng và 
bạc1. Họ lý giải rằng:  dải ñất ven biển Trung 
Kỳ không thể ñáp ứng ñược một số lượng sản vật 
lớn như vậy; người Mọi phải là nguồn cung cấp 
1
 Theo Henri Maitre (1912), “Les Jungles Moi, Exploration et 
histoire des hinterlands moi du Cambodge, de la Cochinchine, 
de l’Annam et du Laos”. Paris. Émile Larose. Volume III, 
Résultats géographiques de la mission: géographie – 
ethnographie – historie. Bản dịch của Lưu ðình Tuân. 2008. 
Rừng người Thượng (vùng rừng núi cao nguyên miền Trung Việt 
Nam). Nxb. Tri thức. tr. 181. Trích từ Maspéro. 3/1910. Le 
royaumedu Champa trong T’oung Pao, các số tháng 7/1910, 
10/1910, 3/1911. 
phần lớn các sản vật ñó2 Và, như vậy ñã tồn tại 
các mối quan hệ giữa người Chàm với người Mọi, 
quan hệ chư hầu và tôn bá, quan hệ buôn bán, ñã 
cung cấp cho Champa phần lớn những mặt hàng 
quý kể trên dưới dạng cống vật hoặc trao ñổi3. Jean 
Boulbet nhắc ñến truyền thuyết kể về việc người 
Chăm ñòi cống lễ của người Mạ là gân nai, mu rùa, 
ngà voi, ñồ dệt. Và, bù lại người Mạ có thể ñi lại tự 
do sang nước Chămpa ñể buôn bán và, ñặc biệt, thu 
mua muối cần thiết4. Nhà thám hiểm Cristoforo 
Borri từ thế kỷ XVII ghi chép rằng: gỗ trầm rất quý 
ñược lấy từ trên núi của Kẻ mọi (chỉ người 
2
 Theo Henri Maitre (1912), sñd, Bản dịch của Lưu ðình Tuân 
(2008), tr. 181-182. 
3
 Theo Henri Maitre (1912), sñd, Bản dịch của Lưu ðình Tuân 
(2008), tr. 180-181. 
4
 Jean Boultbet (1967), Pays des Maa’ domaine des genies – 
Nggar Maa’, nggar yang. Essai d’ethno-histoire d’une 
population proto-Indochinoise du Viet Nam Central. Volume 
LXII. École Francaise d’extrême-orient. Paris. Bản dịch của ðỗ 
Văn Anh (1999) Xứ người Mạ lãnh thổ của thần linh, Nxb. ðồng 
Nai, tr.136-137. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X1-2015 
Trang 34 
Thượng)5. Và Etienne Aymonier thì cho biết việc 
buôn bán trầm hương giữa người Raglai với người 
Chăm vẫn còn diễn ra vào cuối thế kỷ XIX. Ông mô 
tả khá tỉ mỉ: Người Chăm ở thung lũng Phan Rang 
có một viên quan gọi là po-gahlao (người cai quản 
trầm) có nhiệm vụ tổ chức việc tìm kiến trầm trong 
mỗi mùa khô. Sau lễ cúng Po Glong Garai, Po 
Rome, Po Nagar, Po Klong Ka Shet và Po Glong 
Garai Bhok – «những người bảo hộ trầm», người 
Chăm xuất phát, ñi ñến các làng của người Orang-
Glai (Roglai), ở ñó các po va – người ñứng ñầu 
làng sẽ tập hợp các nhóm ñàn ông ñể hỗ trợ người 
Chăm trong việc tìm kiếm thứ gỗ quý này6. 
Học giả người Pháp không ñể lại nhiều tư liệu 
về những con ñường giao thương Thượng - Chăm. 
ða phần sử liệu ñề cập ñến các cuộc chiến tranh, sự 
chiếm ñóng, di dân của người Tây Nguyên xuống 
vùng biển hoặc của người Chăm lên Tây Nguyên7. 
Riêng Henri Maitre, ông có sự quan tâm về những 
con ñường người Chăm ñến thu phục Tây Nguyên. 
ðó là con ñường dọc theo thung lũng các dòng sông 
như sông Ba, sông Nang, sông Ayun, sông Krong 
Boung, Krong Bla. Maitre H., ñưa dẫn chứng về các 
phế tích Chăm hiện còn ở khu vực cận Tây Nguyên 
và Tây Nguyên nằm gần sông như Tháp Nhạn, 
Thành Hồ ở cận sông Ba; tháp Yang Mum, ñền 
ðrang Lai gần sông Ayun; tháp Yang Prong hay bệ 
ñá rasung batau ở lưu vực sông Srépok; phế tích 
5
 Theo Cristoforo Borri (1633), Cochinchina: Containing Many 
Admirable Rarities and Sigularities of That Countrey (London: 
Robert Ashley for Richard Clutterbuck,). Trích trong Gerald 
Cannon Hickey. 1982. Sons of the Mountains (Ethnohistory of 
the Vietnamese Central Highlands to 1954), Yale University 
Press, New Haven and London, p. 117. 
6
 Theo Etienne Aymonier (1891), Les Tchames et leurs religions. 
Revue d’Histoire des Religions XXVI, Paris, p.187-237, 261-
315, trích trong Gerald Cannon Hickey (1982) Sons of the 
Mountains (Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands to 
1954). Yale University Press, New Haven and London, p. 117. 
7
 Trong Etienne Aymonier (1891) Première étude sur les 
inscriptions tchames, Journal Asiatique XVII: 41- 44; Georges 
Maspéro. 1928. Le royaume de Champa, Paris and Brussels; G. 
Van Oest, pp. 219 – 241; E.M. Durand. 1905. Notes sur Les 
Chams. IV. Bal Canar. B.E. F.E.O., V. p. 385 ; Etienne 
Aymonier (1890), Légendes historiques des Cham, Excursions et 
Reconnaissances XIV – 32 , pp. 184-193, 152, 193-206. 
Keudeu, các di tích mộ Chàm ở Kon Tum tại lưu 
vực sông Sê San8. 
Có lẽ Maitre H., không sai với nhận ñịnh trên. 
Bởi, trong những phát hiện về một số di tích ñược 
xem là của người Chăm gần ñây, các nhà khảo cổ 
tại ñịa phương Phú Yên, vùng cận Tây Nguyên cho 
biết, các di tích này cũng nằm ở ven ñôi bờ sông 
Ba, mà tháp ðông Tác ñối ứng với tháp Nhạn nằm 
gần cửa biển ðà Diễn; tháp Núi Bà ñối ứng với 
Thành Hồ nằm ở hạ lưu và cùng lấy sông ðà Rằng 
làm trục ñối ứng. Và, họ cũng nhận ñịnh: ñiều ấy 
cho thấy sông ðà Rằng trong quá khứ người 
Chămpa rất coi trọng, ñây có thể là trục giao thông 
chính nối liền từ biển vào ñồng bằng, lên miền núi9. 
Cũng tại tỉnh Phú Yên, ở khu vực miền núi huyện 
ðồng Xuân, không phải là con sông Ba nổi tiếng, 
mà là ở vùng thung lũng của dòng sông Cái, những 
nhà khảo cổ ñịa phương cũng ñã phát hiện nơi ñây 
một vài di tích khá ñộc ñáo ñược bước ñầu tạm xem 
là của người Chăm như khu di tích ñất nung xã 
Xuân Sơn Nam, dấu tích kiến trúc Chăm ở núi U 
Cây Da tại thôn Tân An10 
Về những con ñường theo núi, cũng chính 
Maitre H., cho biết một phát hiện mà ông cho là 
quan trọng nhất: con ñường người Chàm ñào men 
theo các sườn ñồi xuất phát từ Kon Tum và dẫn ñến 
Quảng Nam, với di tích còn nhận biết ñược của các 
ñiểm di dân của người Chàm từ Kon Tum di cư tới 
– vùng Kon Kebau và K. Setiu (vùng Sedang trong 
thung lũng D. Kam)11. 
2. Dấu vết những con ñường giao thương 
Không kể về các con ñường mang dấu ấn của 
người Chăm chạy lên Tây Nguyên sau những lần 
8
 Xem thêm Henri Maitre (1912), sñd, Bản dịch của Lưu ðình 
Tuân (2008), tr. 189-190. 
9
 Trích trong Bảo tàng tỉnh Phú Yên (2010), Lý lịch di tích tháp 
Chăm ðông tá,. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Phú Yên, tr.6. 
10
 Xem thêm Báo cáo sơ bộ kết quả khai quật khẩn cấp khu di 
tích ñất nung, xã Xuân Sơn Nam, huyện ðồng Xuân, tỉnh Phú 
Yên. Tài liệu do Phòng Quản lý di tích, Sở Văn hóa Thể thao và 
Du lịch tỉnh Phú Yên cung cấp. 
11
 Trích trong Henri Maitre (1912) sñd, Bản dịch của Lưu ðình 
Tuân (2008), tr. 190. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X1-2015 
 Trang 35 
thất trận, thực trạng quá khứ chỉ ra rằng, dù ít hay 
nhiều, tại vùng người tại chỗ Cao nguyên cũng từng 
hình thành những con ñường giao thương cần thiết, 
xuất phát từ nhu cầu trao ñổi của chính họ với 
người Chăm hay người Việt ở vùng ven biển miền 
Trung. 
Người thiểu số tại chỗ vùng ðông Nam Tây 
Nguyên và cận ðông Tây Nguyên từ lâu ñã có 
truyền thống trao ñổi. Trong thị tộc, việc ấy thường 
khởi ñầu bằng cách, người có vật trao ñổi phải ñi 
ñến từng nhà ñối tác, tìm hỏi ñể thực hiện mục ñích 
giao thương. Sau này nhu cầu phát triển, dẫn ñến 
việc các gia ñình, dòng họ và thị tộc cùng thỏa 
thuận ñể có những quy ước trao ñổi mang ý nghĩa 
tập thể. Tiến triển theo thời gian, nơi ñây phổ biến 
xảy ra hiện tượng: cư dân của một hoặc vài thị tộc12 
thường tổ chức ñem hàng hóa ñi trao ñổi với thị tộc 
khác. Và rồi phát triển hơn, với sự tổ chức của cư 
dân nhiều thị tộc láng giềng rủ nhau cùng ñi trao 
ñổi13 tại một vùng xa hơn có nhiều tiềm năng hàng 
hóa, ñáp ứng nhu cầu thiết yếu của họ. Nhu cầu trao 
ñổi hàng hóa càng thể hiện sự phát triển, khi có một 
số ñịa ñiểm chuyên trao ñổi dần hình thành các trạm 
mua bán, mà người thiểu số tại chỗ bước ñầu gọi là 
chợ – drạ. Song song với sự phát triển giao thương, 
trong vốn từ của người tại chỗ Cao Nguyên cũng 
dần hình thành các khái niệm tương ứng. ðể nói về 
hiện tượng trao ñổi, cư dân có khái niệm sơ lih, sơ 
12
 Người Chu ru thôn Próh Ngó, xã Próh, huyện ðơn Dương, 
tỉnh Lâm ðồng kể về những chuyến ñi trao ñổi của họ: cư dân 
thường ñi bộ mỗi gia ñình ñi hai vợ chồng, ñại gia ñình ñi các 
cặp vợ chồng. Thường thì người cha hoặc anh em trai cùng ñi. 
ða phần là thanh niên. Người mẹ già thường ở nhà ñể lo cho 
cháu Theo ông Ya Du Bơ Nhong, sinh năm 1949, trưởng ban 
công tác Mặt trận thôn Próh Ngó; bà Ma ðoan Bơnariya sinh 
năm 1957, nông dân, thôn Próh Ngó, xã Próh, huyện ðơn 
Dương, tỉnh Lâm ðồng. Người Chu ru. Phỏng vấn ngày 
13/6/2014. 
13
 Người Mạ bon Gùng Gràng Gia, xã ðinh Trang Thượng, 
huyện Di Linh, tỉnh Lâm ðồng cho biết, thời Pháp thuộc, dân 
buôn thường ñi ñổi muối ở vùng ven biển miền Trung với các 
làng người Srê như bon Bờ Trộ, bon Bros ðơr, bon ðạ Glê, bon 
Bì Su Lạch, bon Bì Sum La, bon Niơng, bon N’hiêng, bon Su 
ðờn, bon Kon Tẻh, bon Bờ ðợ. Theo ông K’Tòi, sinh năm 1943 
và ông K’ðoan, sinh năm 1946, bon Gùng Gràng Gia, nay ở bon 
Gùng Hàng ðờn, thôn 4, xã ðinh Trang Thượng, huyện Di Linh, 
tỉnh Lâm ðồng. Phỏng vấn ngày 13/11/2013. 
doa và gọi người ñi trao ñổi là mnuih sơ doa sơ lih. 
Khi việc trao ñổi trở nên thuần thục, mối quan hệ 
giao thương phát triển hơn, họ bắt ñầu biết ñến 
ñộng thái mua = bơ lơi và bán = pơ bơ lơi. Trong xã 
hội xuất hiện tầng lớp người biết buôn bán, biết ñi 
buôn, mà họ gọi là lao káh = ñi buôn. Những người 
này ña phần xuất thân từ người trước ñây rất thuần 
thục việc trao ñổi hàng hóa. Như vậy, từ sơ lih, sơ 
doa – trao ñổi, cư dân của các xã hội thị tộc láng 
giềng này ñã biết ñến lao káh = ñi buôn. Và, từ 
những người ñi trao ñổi - mnuih sơ doa sơ lih, anh 
ta ñã dần trở thành người ñi buôn bán – mnuih lao 
káh. 
Bàn thảo với người tại chỗ Cao Nguyên về 
những khái niệm này, chúng tôi ñồng tình với họ ñể 
nhận ñịnh rằng, khái niệm chợ = drạ14 của người 
Mạ, ñi chợ = nao dơrah15 của người Raglai, lot 
drà16 của người Kơ Ho là có sau khái niệm mang 
ý nghĩa buôn bán như nao káh17 = ñi mua bán của 
người Raglai; lao káh18 = ñi buôn và pơ bơ lơi = 
bán hay bơ lơi = mua của người Chu ru. Những 
khái niệm này có thể xuất hiện cùng ñồng thời với 
khái niệm mnuih lao káh19, mnuih nao káh20 = 
14
 Theo ông K’ Tỏi, 70 tuổi, người Mạ, bon Hăng Ka ðạ, thôn 8, 
xã Mỹ ðức, huyện ðạ Tẻ, tinh Lâm ðồng. Phỏng vấn ngày 
31/10/2013. 
15
 Theo ông Mang Ngọc Văn, Ya Byăng Sapuh, sinh năm 1959, 
người Raglai. Tổ tự quản số 2, thôn Takaya, số nhà 41, xã Phan 
Lâm, huyện bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Phỏng vấn ngày 
28/9/2014. 
16 Theo Chu Thái Sơn. 1993. Những tàn tích văn hóa Chăm trên 
ñất Tây Nguyên. Tạp chí Nghiên cứu ðông Nam Á, số 2 (11), 
Viện nghiên cứu ðông Nam Á. Số chuyên ñề Chăm, tr.75 
17
 Theo ông Mang Ngọc Văn, Ya Byăng Sapuh, sinh năm 1959, 
người Raglai. Tổ tự quản số 2, thôn Takaya, số nhà 41, xã Phan 
Lâm, huyện bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Phỏng vấn ngày 
28/9/2014. 
18
 Theo bà Touneh Hàn Nai Phon, sinh năm 1948; Touneh Hàn 
Nai Thuận, sinh năm 1960; Touneh Hàn Nai Tâm, sinh năm 
1971; người Chu Ru, thôn Proh Trong (trước ñây là thôn Proh 
Chăm Neng, xã Pró, huyện ðơn Dương, tỉnh Lâm ðồng. Phỏng 
vấn ngày 13/6/2014. 
19
 Theo bà Touneh Hàn Nai Phon, sinh năm 1948; Touneh Hàn 
Nai Thuận, sinh năm 1960; Touneh Hàn Nai Tâm, sinh năm 
1971; người Chu Ru. Thôn Proh Trong (trước ñây là thôn Proh 
Chăm Neng, xã Pró, huyện ðơn Dương, tỉnh Lâm ðồng. Phỏng 
vấn ngày 13/6/2014. 
20
 Theo ông Mang Ngọc Văn, Ya Byăng Sapuh, sinh năm 1959, 
người Raglai. Tổ tự quản số 2, thôn Takaya, số nhà 41, xã Phan 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X1-2015 
Trang 36 
người ñi buôn của người Chu ru, Raglai. Và, chúng 
lại có sau khái niệm sơ lih, sơ doa21 = trao ñổi hay 
mnuih sơ doa sơ lih22 = người trao ñổi (mnuih = 
người) của cư dân các tộc người trên. 
Ít nhất có 2 luồng giao thương trong mối quan 
hệ trao ñổi giữa người miền núi tại chỗ Tây Nguyên 
với cư dân vùng ñồng bằng ven biển miền Trung 
trong quá khứ. ðó là luồng trao ñổi ñi xuống vùng 
người Chăm ở Phan Rí, Phan Rang và luồng trao 
ñổi khác ñi xuống vùng người Việt ở Khánh Hòa, 
Phú Yên. 
Người Mạ trong trao ñổi với vùng Chăm ở Phan 
Rí xưa kia, họ gọi khu vực này là Chạs Skan Rơ nai 
(?)23. Người Chu Ru gọi Phan Rí là plei P’rí24 hoặc 
Parí25 và Phan Rang là plei P’rang26. Việc ñi xuống 
trao ñổi ñược người Raglai gọi là Tơ trốt27= ñi 
xuống; người Chu ru gọi là T’rôl28 = xuống; T’rôl 
P’rang = xuống Phan Rang hoặc T’rôl P’rí = xuống 
Lâm, huyện bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Phỏng vấn ngày 
28/9/2014. 
21
 Theo bà Touneh Hàn Nai Phon, sinh năm 1948; Touneh Hàn 
Nai Thuận, sinh năm 1960; Touneh Hàn Nai Tâm, sinh năm 
1971; người Chu Ru. Thôn Proh Trong (trước ñây là thôn Proh 
Chăm Neng, xã Pró, huyện ðơn Dương, tỉnh Lâm ðồng. Phỏng 
vấn ngày 13/6/2014. 
22
 Theo bà Touneh Hàn Nai Phon, sinh năm 1948; Touneh Hàn 
Nai Thuận, sinh năm 1960; Touneh Hàn Nai Tâm, sinh năm 
1971; người Chu Ru. Thôn Proh Trong (trước ñây là thôn Proh 
Chăm Neng, xã Pró, huyện ðơn Dương, tỉnh Lâm ðồng. Phỏng 
vấn ngày 13/6/2014. 
23
 Theo ông K’Nho, sinh năm 1950, bon Bờ Yi Rùng, thôn 5, xã 
ðinh Trang Thượng, huyện Di Linh, tỉnh Lâm ðồng. Người Mạ. 
Phỏng vấn ngày 14/11/2013. 
24
 Theo ông Ya Du Bơ Nhong, sinh năm 1949, trưởng ban công 
tác Mặt trận thôn Próh Ngó; bà Ma ðoan Bơnariya sinh năm 
1957, nông dân, thôn Próh Ngó, xã Próh, huyện ðơn Dương, 
tỉnh Lâm ðồng. Người Chu ru. Phỏng vấn ngày 13/6/2014. 
25
 Theo ông Ma Sú Dơrơlâng Sapuh, sinh năm 1952, người già; 
Dơrơlâng Tài, sinh năm 1965, trưởng thôn palei Makir, xã ðạ 
Quyn, huyện, ðức Trọng, tỉnh Lâm ðồng. Phỏng vấn ngày 
5/10/2014. 
26
 Theo ông Ya Du Bơ Nhong, sinh năm 1949, trưởng ban công 
tác Mặt trận thôn Próh Ngó; bà Ma ðoan Bơnariya sinh năm 
1957, nông dân, thôn Próh Ngó, xã Próh, huyện ðơn Dương, 
tỉnh Lâm ðồng. Người Chu ru. Phỏng vấn ngày 13/6/2014. 
27
 Theo ông Katơr Ya Lê, sinh năm 1959, thôn trưởng, người 
Raglai, thôn Gòn 1, xã Lâm Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh 
Thuận. Phỏng vấn ngày 28/9/2014. 
28
 Theo ông Ya Du Bơ Nhong, sinh năm 1949, trưởng ban công 
tác Mặt trận thôn Próh Ngó; bà Ma ðoan Bơnariya sinh năm 
1957, nông dân, thôn Próh Ngó, xã Próh, huyện ðơn Dương, 
tỉnh Lâm ðồng. Người Chu ru. Phỏng vấn ngày 13/6/2014. 
Phan Rí; có nơi gọi là truôl Paríh29 = xuống Phan 
Rí. Riêng với vùng người Chăm Hroi, M’dhur, Êñê, 
Gia rai thì có những chuyến truôl Doan = ñi 
xuống vùng người Việt30 cùng những truyền thuyết, 
huyền thoại liên quan. Người Chăm Hroi ở thôn Gia 
Trụ, xã Phước Tân, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên 
và một số làng Chăm Hroi31 khác cho biết: “Xưa, 
người Chăm Hroi chỉ có truôl Doan = ñi xuống 
vùng người Việt (Doan = người Việt), mà không có 
truôl Chăm = ñi xuống vùng người Chăm (Cham = 
người Chăm)”32. 
Người Mạ vùng ðạ Tẻ33, ðạ Hoai34, Di Linh35 
và người Chu ru, Raglai ở ðức Trọng36 xác nhận, 
trong quá khứ cư dân các thị tộc ở vùng họ từng 
xuống trao ñổi, mua bán ở khu vực Phan Rí. Trong 
29
 Theo ông Ma Sú Dơrơlâng Sapuh, sinh năm 1952, người già; 
Dơrơlâng Tài, sinh năm 1965, trưởng thôn palei Makir, xã ðạ 
Quyn, huyện, ðức Trọng, tỉnh Lâm ðồng. Phỏng vấn ngày 
5/10/2014. 
30
 Nhiều truyền thuyết, huyền thoại và câu chuyện thực tế kể về 
chuyến ñi trao ñổi ở vùng cư dân các tộc người này xuống vùng 
người Việt. Những ghi chép trong lịch sử triều Nguyễn cho biết 
thời ấy có thương lái Lê văn Quyền ở khu vực Củng Sơn thường 
xuyên lên xuống vùng người thiểu số ở Phú Yên ñể mua bán. 
Sau này, Lê Văn Quyền là người ñại diện cho triều ñình Huế làm 
sứ giả lên trao ñổi cống vật với Thủy xá, Hỏa xá 
31
 Theo ông Mang Huệ (La O Huệ, Oi Hiểm, Ma M’ðình), sinh 
năm 1931, Sor Minh Thứ, Oi Nguyệt, Ma Cú, sinh năm 1927; 
Hrlan Nựu, Mang nựu, Oi Kin, Ma Hồ, sinh năm 1956, người 
Chăm Hroi. Thôn Hà rài, xã Xuân Lãnh, huyện ðồng Xuân, tỉnh 
Phú Yên. Phỏng vấn ngày 25/10/2014. 
32
 Theo ông Oi Nghiệm (Lơmo Rớt) người già, sinh năm 1944, Oi 
Hội (Lơ mo Sĩ), sinh năm 1960; Oi Hương (Lơ mo Rễ), sinh năm 
1950, người Chăm Hroi. Thôn Gia Trụ, xã Phước Tân, huyện 
Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Phỏng vấn ngày 22/10/2014. 
33
 Theo ông K’ Tỏi, 70 tuổi, người Mạ, bon Hăng Ka ðạ, thôn 8, 
xã Mỹ ðức, huyện ðạ Tẻ, tinh Lâm ðồng. Phỏng vấn ngày 
31/10/2013. 
34
 Theo ông Hàng Tu Ràng, sinh năm 1943, người già, bon 
Kanur, thôn 2, xã ðạ Hoai, huyện ðạ Hoai, tỉnh Lâm ðồng. 
Phỏng vấn ngày 5/11/2013. 
35
 Theo ông K’Nho, sinh năm 1950, bon Bờ Yi Rùng, thôn 5, xã 
ðinh Trang Thượng, huyện Di Linh, tỉnh Lâm ðồng. Người Mạ. 
Phỏng vấn ngày 14/11/2013. 
36
 Theo ông Ma Sú Dơrơlâng Sapuh, sinh năm 1952, người già; 
Dơrơlâng Tài, sinh năm 1965, trưởng thôn palei Makir, xã ðạ 
Quyn, huyện, ðức Trọng, tỉnh Lâm ðồng. Phỏng vấn ngày 
5/10/2014. Và, ông Mang Ngọc Văn, Ya Byăng Sapuh, sinh năm 
1959, người Raglai. Tổ tự quản số 2, thôn Takaya, số nhà 41, xã 
Phan Lâm, huyện bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Phỏng vấn ngày 
28/9/2014. Trước ñây, ông Mang Ngọc Văn ở thôn Omgil, thuộc 
ðạ Quyn, ðức Trọng, Lâm ðồng. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X1-2015 
 Trang 37 
khi ñó người Chu ru ðơn Dương37 thì mua bán với 
vùng người Chăm Phan Rang. ðối chiếu khu vực, 
chúng tôi nhận thấy các vị trí có dấu hiệu trao ñổi là 
vùng có ñịa hình liên hoàn nhau. Khu vực cư dân 
Mạ, Chu ru, Raglai ở ðạ Tẻ, ðạ Hoai, Di Linh, ðức 
Trọng có ranh giới gắn liền với Bình Thuận. Trong 
khi ñó vùng người Chu ru ðơn Dương lại có ranh 
giới chung với Ninh Thuận. 
ðể có thể thực hiện các giao dịch hàng hóa, từ 
nơi xuất phát là vùng nội ñịa (hinterland) ñến khu 
vực ven biển miền Trung, ắt phải có những con 
ñường giao thương. Và, thực tế ñã từng có nhiều 
con ñường giao thương Thượng - Chăm trong quá 
khứ. ða phần chúng là ñường mòn do chính người 
tại chổ tự tạo, có xuất phát từ vị trí ñịnh cư của các 
ngôi làng ở Cao Nguyên nhiều truyền thống trao 
ñổi. 
Người Mạ bon Hăng Ka ðạ38 tại ðạ Tẻ xưa kia 
tổ chức các ñoàn người ñi chợ (drà, lọt drà prơ dây) 
ở Phan Thiết theo ñường Di Linh xuống Phan Rí. 
Người Chu ru thôn Próh Ngõ 39 ở ðơn Dương còn 
nhớ rõ những con ñường t’rôl P’rang hoặc t’rôl 
P’rí mà họ từng ñi qua. ðó là ñường ñi P’rang vượt 
qua các ngọn núi như: chữ ðằm Hới, chữ Pơtao Bui 
(ñá heo), chữ Pơtao Klang (ñá diều hâu), chữ Hngo 
(thông) ðiêng (nến, ñèn cầy), chữ Tsâu (vú) D’ra 
(con?), rồi ñi qua các ngôi làng plei Ia Bở (người 
Raglai), ñến plei Ma Nới (người Raglai) Trong 
khi ñó, người Chu ru palei Makir40 ở huyện ðức 
37
 Theo ông Ya Du Bơ Nhong, sinh năm 1949, trưởng ban công 
tác Mặt trận thôn Próh Ngó; bà Ma ðoan Bơnariya sinh năm 
1957, nông dân, thôn Próh Ngó, xã Próh, huyện ðơn Dương, 
tỉnh Lâm ðồng. Người Chu ru. Phỏng vấn ngày 13/6/2014. Và 
ông Ya Du Bơnariya, 63 tuổi, người Chu ru, thôn Pro Ngó, xã 
Próh, huyện ðơn Dương, tỉnh Lâm ðồng. Phỏng vấn ngày 
12/6/2014. 
38
 Theo ông K’ Tỏi,70 tuổi, người Mạ, bon Hăng Ka ðạ, thôn 8, 
xã Mỹ ðức, huyện ðạ Tẻ, tinh Lâm ðồng. Phỏng vấn ngày 
31/10/2013. 
39
 Theo ông Ya Du Bơ Nhong, sinh năm 1949, trưởng ban công 
tác Mặt trận thôn Próh Ngó; bà Ma ðoan Bơnariya sinh năm 
1957, nông dân, thôn Próh Ngó, xã Próh, huyện ðơn Dương, 
tỉnh Lâm ðồng. 
40
 Theo ông Ma Sú Dơrơlâng Sapuh, sinh năm 1952, người già; 
Dơrơlâng Tài, sinh năm 1965, trưởng thôn palei Makir, xã ðạ 
Trọng lại truôl Paríh theo một con ñường khác: sau 
khi xuất phát, ñoàn người ñến dừng ở Tâng Gar, tại 
núi chữ But (núi trọc) Dơ Nâng Bear và cầu cúng 
ñể xin cho chuyến ñi ñược thuận lợi. Họ nghĩ ñêm 
tại ñây, sáng hôm sau tiếp tục ñi hai ngày thì ñến ea 
Chá (khu vực nước nhỉ). Khu vực này vẫn thuộc 
Lâm ðồng, là ranh giới giữa Bình Thuận và Lâm 
ðồng; rồi ñến ruộng hma M’hoa sau ñó mới ñến 
ñược Paríh. Người Raglai ở khu vực Lâm ðồng 
cũng xác nhận có nhiều con ñường ñi Phan Rang và 
Phan Rí từ những ngôi làng của họ. Cư dân palei 
Omgil41, tại ðức Trọng, Lâm ðồng thường ñi trao 
ñổi theo con ñường: từ Omgil ñến núi chớ Năh 
Hơna, sau ñó ñến núi chớ Sui và vượt qua suối ea 
Tak Amanah42 có vũng nước Amanah. Vũng nước 
này ở gần ñám ruộng Hma M’hoa. Vượt qua ñám 
ruộng, ñoàn người ñi ñến chớ Năh Hơra (thuộc xã 
Phan Lâm hiện nay), còn gọi là Pô Ka La. Từ Pô 
Ka La ñoàn người tiếp tục ñi ñến một khu vực gọi 
là Pô Panh Tri và ñến suối ea Tak Éh, rồi ñến ruộng 
hma Chan Kham (khu vực này thuộc xã Bình An). 
ðoàn người trao ñổi ñi ñến chroh Katâo Meo43 thì 
dừng lại nghĩ trưa. Sau khoảng một giờ họ ñến palei 
Ana Ka dau. Làng này ở ven thị trấn Sông Mao - 
Kalon. ðến ñây, ñoàn dừng lại, rồi bắt ñầu tách ra, 
người nào cần trao ñổi vật gì thì ñi ñến vùng Chăm 
mua vật ñó 
Những con ñường giao thương xuyên qua các 
ñịa hình rừng, núi, sông, suối ña dạng và phong 
phú với vô số các câu chuyện kể thú vị. Người miền 
núi ñể có ñược các món hàng mà họ rất cần như vải, 
cá khô, mắm và ñặc biệt là muối; ñã thu gom những 
sản vật của rừng như gạc nai, ngà voi, mây, trầm 
Quyn, huyện, ðức Trọng, tỉnh Lâm ðồng. Phỏng vấn ngày 
5/10/2014. 
41
 Theo ông Mang Ngọc Văn, Ya Byăng Sapuh, sinh năm 1959, 
người Raglai. Tổ tự quản số 2, thôn Takaya, số nhà 41, xã Phan 
Lâm, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Phỏng vấn ngày 
27/9/2014 
42
 Nơi này gọi là vũng nước con công; Amanah = con công, là 
nơi chim công hay ñến uống nước. 
43
 Là một khe nước, chroh = khe; katâo = phóng; meo = mèo; 
thực ra là cọp, nhưng vì kiêng kỵ nên nói cọp thành mèo; khe 
cọp phóng; khe này nay thuộc xã Hải Ninh. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X1-2015 
Trang 38 
hương, nghệ rừng, trầu, cau, ngựa, heo, gà ñể 
ñem xuống trao ñổi với người miền biển. Thường 
thì sản vật thu gom ñược nhiều vào mùa nào, người 
Cao Nguyên sẽ ñi trao ñổi hàng hóa với người 
Chăm vào mùa ấy. Trung bình, một năm, họ có thể 
ñi trao ñổi khoảng 2, 4 lần hoặc nhiều hơn nữa, còn 
tùy thuộc vào ñặc ñiểm của từng vùng. Và, họ ñi 
vào mùa nắng, khoảng trong tháng 6, tháng 9, tháng 
12 âm lịch 
Con ñường ñi trao ñổi của người Cao Nguyên 
khá gian truân, vất vả và ñầy hiểm nguy rình rập với 
dốc cao, thác hiểm, voi gầm, hổ thét, khỉ ñột ré, trâu 
rừng rú... Trong hằng chục ngày băng rừng lội suối 
bằng ñôi chân trần hoặc trên lưng các con ngựa núi, 
hằng ñêm họ phải ngủ rừng, bên các dòng sông, con 
suối. Họ lấy lá dầu rừng, lá chuối rừng làm mái che 
cho lều tạm. Bên cạnh việc gùi, cõng hàng hóa, lùa 
trâu, heo, khi ñi xuống, họ cũng cần phải ñem theo 
củi ngo ñể ñốt lửa sưởi ấm và ñuổi thú; ñem theo 
giáo mác, cung nỏ phòng thân; ñem theo gạo và 
ñánh bắt cá suối, hái rau rừng ñể ăn mà sống, mà 
tiếp tục ñi. Bởi muối rất cần, cần lắm. Không có 
muối thì trẻ nhỏ khóc thâu ñêm, người già ñau ốm 
quặt quẹo. Bởi vậy, mà trước mỗi chuyến ñi, họ ñều 
phải có buổi tế thần bằng gà, dê ñể cầu xin ñược 
may mắn, bình yên. Trên ñường ñi, ở nơi có các vị 
thần linh thiêng họ ñều thực hành nghi lễ theo tập 
quán ñể cầu nguyện cho chuyến ñi suông sẻ. 
Và rồi, khi gần ñến ñích ñoàn người tách ra 
thành từng nhóm ñể ñi ñến nơi mình cần trao ñổi. 
Nơi ñây, họ gặp lại những người bạn Chăm và sẽ 
ñược người bạn thương gia này chia sẽ với họ 
những mệt mỏi bằng bữa tiệc tẩy trần với cơm, thức 
ăn ngon và rượu trắng ñịa phương. Bữa tiệc ấy có 
tên gọi là rửa mồ hôi = rao yasauh44 (rao = rửa, 
yasauh = mồ hôi), cho sạch sẽ, cho người ñi buôn 
quên hết mệt nhọc và phục hồi sức khỏe trước khi 
lại lên núi. ðể nối kết thâm giao, ñôi khi người 
Chăm tặng bạn hàng của mình một ít rượu trắng. 
Và, người miền núi ñi trao ñổi trước khi lên núi 
cũng không quên mua một ít rượu trắng – rượu ñặc 
sản của ñồng bằng, ñể mang về làm quà cho người 
thân và bạn bè. 
44
 Theo ông Mang Ngọc Văn, Ya Byăng Sapuh, sinh năm 1959, 
người Raglai. Tổ tự quản số 2, thôn Takaya, số nhà 41, xã Phan 
Lâm, huyện bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Phỏng vấn ngày 
27/9/2014. 
(Nghiên cứu này ñược tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong ñề tài mã số IV5.2-2012.) 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X1-2015 
 Trang 39 
The trade routes from the Central Highlands 
to the Central Coast in the past 
• Nguyen Thi Hoa 
Institute of Sustainable Development of the Central Highlands 
ABSTRACT: 
To exchange goods from the Central 
Highlands to the Central Coast of Vietnam, 
there must have been some trade routes in the 
past. Indeed, there were at least two trade 
routes that the Central Highlanders in Vietnam 
used to take to exchange goods with people on 
the Central Coast. One route went to the 
towns of Phan Ri and Phan Rang where the 
Cham people lived and the other route led to 
Khanh Hoa and Phu Yen provinces where the 
Kinh people lived. These were local man-made 
trails that started out from highlanders’ villages. 
Keywords: trade routes, Central Highlands (Vietnam), exchange 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Bảo tàng tỉnh Phú Yên (2010), Lý lịch di tích 
tháp Chăm ðông tác, Sở Văn hóa, Thể thao 
và Du lịch Phú Yên. 
[2]. Chu Thái Sơn (1993), Những tàn tích văn 
hóa Chăm trên ñất Tây Nguyên, Tạp chí 
Nghiên cứu ðông Nam Á, số 2 (11), Viện 
nghiên cứu ðông Nam Á, Số chuyên ñề 
Chăm. 
[3]. Jean Boultbet (1967), Pays des Maa’ 
domaine des genies – Nggar Maa’, nggar 
yang, Essai d’ethno-histoire d’une 
population proto-Indochinoise du Viet Nam 
Central. Volume LXII. École Francaise 
d’extrême-orient, Paris, Bản dịch của ðỗ 
Văn Anh (1999), Xứ người Mạ lãnh thổ của 
thần linh, Nxb. ðồng Nai. 
[4]. Gerald Cannon Hickey (1982), Sons of the 
Mountains (Ethnohistory of the Vietnamese 
Central Highlands to 1954), Yale 
University Press, New Haven and London. 
[5]. Henri Maitre (1912) “Les Jungles Moi, 
Exploration et histoire des hinterlands moi 
du Cambodge, de la Cochinchine, de 
l’Annam et du Laos”, Paris, Émile Larose. 
Volume III, Résultats géographiques de la 
mission: géographie – ethnographie – 
historie, Bản dịch của Lưu ðình Tuân 
(2008), Rừng người Thượng (vùng rừng núi 
cao nguyên miền Trung Việt Nam), Nxb. 
Tri thức. 
[6]. Phòng Quản lý di tích, Sở Văn hóa Thể thao 
và Du lịch tỉnh Phú Yên (10/2014), Báo cáo 
sơ bộ kết quả khai quật khẩn cấp khu di tích 
ñất nung, xã Xuân Sơn Nam, huyện ðồng 
Xuân, tỉnh Phú Yên. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_con_duong_giao_thuong_tu_cao_nguyen_den_ven_bien_mien.pdf