Những cuộc cải cách của Lý Thái Tổ

Tóm tắt: Năm 1010, Lý Thái Tổ lên ngôi vua, lập ra Vương triều Lý. Ngay sau đó, ông bắt tay vào

thực hiện một loạt các cuộc cải cách toàn diện trên các lĩnh vực hành chính, chính trị, an ninh - quốc

phòng gắn liền với kinh tế, văn hóa - xã hội, thực hiện tư tưởng dời kinh đô, giảm bớt quân đội

thường trực, tăng cường các biện pháp cai trị khoan hòa, bớt hình phạt khắc nghiệt, thúc đẩy phát

triển kinh tế và văn hóa, đặc biệt là chọn lựa hệ tư tưởng chỉ đạo, đặt nền móng cho sự phát triển và

phồn thịnh của đất nước. Việc định đô đã mở ra một thời kỳ văn hóa Thăng Long phát triển rực rỡ.

Sự phát triển và hưng thịnh của đất nước dưới thời vua Lý Thái Tổ đã chứng tỏ tài năng và tầm nhìn

của vị vua khai sáng triều Lý.

pdf 7 trang yennguyen 3840
Bạn đang xem tài liệu "Những cuộc cải cách của Lý Thái Tổ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những cuộc cải cách của Lý Thái Tổ

Những cuộc cải cách của Lý Thái Tổ
74 
Những cuộc cải cách của Lý Thái Tổ 
Ngô Vũ Hải Hằng1 
1 Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
Email: ngovuhaihang@gmail.com 
Nhận ngày 30 tháng 9 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 24 tháng 11 năm 2018. 
Tóm tắt: Năm 1010, Lý Thái Tổ lên ngôi vua, lập ra Vương triều Lý. Ngay sau đó, ông bắt tay vào 
thực hiện một loạt các cuộc cải cách toàn diện trên các lĩnh vực hành chính, chính trị, an ninh - quốc 
phòng gắn liền với kinh tế, văn hóa - xã hội, thực hiện tư tưởng dời kinh đô, giảm bớt quân đội 
thường trực, tăng cường các biện pháp cai trị khoan hòa, bớt hình phạt khắc nghiệt, thúc đẩy phát 
triển kinh tế và văn hóa, đặc biệt là chọn lựa hệ tư tưởng chỉ đạo, đặt nền móng cho sự phát triển và 
phồn thịnh của đất nước. Việc định đô đã mở ra một thời kỳ văn hóa Thăng Long phát triển rực rỡ. 
Sự phát triển và hưng thịnh của đất nước dưới thời vua Lý Thái Tổ đã chứng tỏ tài năng và tầm nhìn 
của vị vua khai sáng triều Lý. 
Từ khóa: Cải cách, Lý Thái Tổ, Vương triều Lý. 
Phân loại ngành: Sử học 
Abstract: In 1010, Ly Thai To ascended the throne, establishing the Ly dynasty. Shortly thereafter, 
he embarked on a series of comprehensive reforms in the areas of administration, politics, security 
and defense associated with the development of the economy, culture and society. With the 
decision of moving the capital, reducing the number of the troops on duty, enhancing measures of 
ruling with tolerance, lessening the use of harsh penalties, while promoting economic and cultural 
development, and, especially, the selection of the thought of leadership, he laid the foundation for 
the development and prosperity of the country. The move to the new capital of Thang Long 
ushered in a period of flourishing Thang Long culture. The development and flourishing of the 
country under the reign of King Ly Thai To proved the talent and vision of the king, who founded 
the Ly dynasty. 
Keywords: Reform, Ly Thai To, Ly dynasty. 
Subject classification: History 
Ngô Vũ Hải Hằng 
75 
1. Mở đầu 
Lý Thái Tổ (húy là Công Uẩn) là người 
châu Cổ Pháp2. Mẹ ông là người họ Phạm. 
Về cha ông, không thấy tài liệu nào chép rõ 
ràng. Khi Lý Công Uẩn được 3 tuổi, ông 
được nhà sư Lý Khánh Văn nhận làm con 
nuôi. Từ bé ông đã thông minh, có vẻ tuấn 
tú khác thường. Nhà sư Vạn Hạnh nói: 
“Đứa bé này không phải là người thường, 
sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, 
làm bậc minh chủ trong thiên hạ” [6, 
tr.240]. Được sự nuôi dạy của hai nhà sư Lý 
Khánh Văn và Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở 
thành một người có học vấn trong giới Phật 
giáo lúc bấy giờ. 
Năm 1005, Lê Đại Hành qua đời, các 
hoàng tử đánh nhau để tranh ngôi vua, Thái 
tử Long Việt (tức vua Lê Trung Tông) lên 
ngôi được 3 ngày thì bị Long Đĩnh (em của 
Long Việt) giết hại. Trong lúc mọi người 
hoảng sợ, Lý Công Uẩn ôm xác vua mà 
khóc. Long Đĩnh lên ngôi (tức Lê Ngọa 
Triều) nghĩ ông là người trung thành, cho 
làm Phó chỉ huy sứ quân Tứ sương. Tháng 
10 năm 1009, Lê Ngọa Triều chết. Lý Công 
Uẩn được Đào Cam Mộc cùng với nhà sư 
Vạn Hạnh và một số quan lại trong triều tôn 
lên làm vua. Đào Cam Mộc nói rằng, Lý 
Công Uẩn là “người khoan thứ, nhân từ, 
lòng người chịu theo. Hiện nay trăm họ mỏi 
mệt kiệt quệ, dân không chịu nổi, Thân vệ 
nên nhân đó lấy ân đức mà vỗ về, thì người 
ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ 
thấp, có ai ngăn được!” [6, tr.238]. Lý Công 
Uẩn đã đồng ý lên ngôi vua, đặt niên hiệu là 
Thuận Thiên, mở đầu Vương triều Lý. Ngô 
Thì Sỹ cho rằng: “Lý Thái Tổ lên ngôi, 
chưa vội làm việc khác, mà trước tiên mưu 
tính việc định đô đặt đỉnh, xét về sự quyết 
đoán sáng suốt, mưu kế anh hùng, thực 
những vua tầm thường không thể theo kịp. 
Cho nên, truyền ngôi hơn 200 năm, đánh 
giặc Tống, dẹp giặc Chiêm, nước mạnh, 
dân giàu, có thể gọi là đời rất thịnh trị. Các 
vua đời sau noi theo đều giữ gìn được ngôi 
vua, chống chọi với Trung Quốc. Lý Thái 
Tổ có thể nói là một bậc vua biết mưu tính 
việc lớn đấy!” [7, tr.194]. Sự phát triển và 
hưng thịnh của đất nước dưới thời vua Lý 
Thái Tổ đã chứng tỏ tài năng và tầm nhìn 
của một vị vua khai sáng triều Lý. Ông 
không chỉ là người có công mở đầu cho một 
vương triều thịnh trị trong lịch sử dân tộc 
mà còn là người đặt nền móng cho sự phát 
triển và phồn thịnh của đất nước về sau này. 
Bài viết này tập trung phân tích những cải 
cách của Lý Thái Tổ về các mặt hành chính, 
chính trị, quân đội, an ninh quốc phòng, văn 
hóa - xã hội. 
2. Cải cách về hành chính 
Ngay sau khi lên ngôi vua, lập ra Vương 
triều Lý, vua Lý Thái Tổ đã thực hiện công 
cuộc cải cách hành chính trên quy mô lớn, 
góp phần quan trọng trong việc quản lý 
toàn diện đất nước, tạo nên sức mạnh cho 
Nhà nước Đại Cồ Việt. 
Quy định nổi bật nhất trong cải cách 
hành chính và gắn liền với tên tuổi Lý Thái 
Tổ chính là quyết định dời kinh đô từ Hoa 
Lư về thành Đại La và đổi tên Đại La thành 
Thăng Long (với mong muốn đất nước phát 
triển như “Rồng bay lên”). 
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: sau 
khi lên ngôi vua, lập ra Vương triều Lý, 
“Vua [Lý Thái Tổ] thấy thành Hoa Lư ẩm 
thấp chật hẹp, không đủ chỗ ở của đế 
vương, muốn dời đi nơi khác” [6, tr.124]. 
Định đô là một việc quan trọng của mỗi 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
76 
quốc gia, vì nó liên quan đến sự an nguy và 
thinh suy của quốc gia. Cho nên, sau khi đã 
“xem khắp trong nước Việt”, phân tích cái 
được, cái thuận lợi và dự tính những thách 
thức trong tương lai, Lý Thái Tổ đã quyết 
định chọn Đại La làm kinh đô của nhà nước 
Đại Cồ Việt. Việc dời đô này không phải là 
việc làm ngẫu nhiên, hoặc do ý muốn chủ 
quan hay do tài năng đặc biệt của Lý Thái 
Tổ, càng không phải vì miền Hà Nội có sẵn 
cái thành của Cao Biền khi xưa. Việc thiên 
đô của Lý Thái Tổ năm 1010 chính là do 
hoàn cảnh xã hội lúc ấy cho phép và cũng là 
do những yêu cầu phát triển của xã hội Việt 
Nam lúc ấy đặt ra. Đây là một quyết định 
mang tính bước ngoặt lịch sử, đánh dấu 
mốc quan trọng trong sự phát triển vượt bậc 
của Vương triều Lý và quốc gia Đại Cồ 
Việt, mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ Văn 
hóa Thăng Long. 
Trong Chiếu dời đô, vua Lý Thái Tổ viết: 
“Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở 
giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ 
ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi 
núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng 
mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân 
cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật 
hết sức tươi tốt phồn thịnh” [6, tr.241]. 
Tiếp theo đó, tháng 12 năm Canh Tuất 
(1010), Lý Thái Tổ chia lại khu vực hành 
chính trong cả nước; chia 10 đạo thời Đinh 
- Lê thành 24 lộ hay phủ; lấy châu Hoan, 
châu Ái làm trại, gọi miền núi là châu, gọi 
đơn vị hành chính dưới phủ là huyện và gọi 
đơn vị hành chính dưới huyện là hương. 
“Đây được coi là bằng chứng quan trọng 
khẳng định sự ra đời của một hệ thống 
chính quyền địa phương hoàn chỉnh ngay từ 
thời Lý Thái Tổ và lộ là cấp hành chính cao 
nhất, phổ biến nhất trong cả nước” [1, tr.9]. 
(Tuy nhiên, vua Lý Thái Tổ lại chưa phân 
biệt rõ cấp lộ và phủ). Đồng thời, vua Lý 
Thái Tổ cho đổi châu Cổ Pháp (quê hương 
của mình) thành phủ Thiên Đức, đổi thành 
Hoa Lư thành phủ Trường Yên, đổi phủ 
Ứng Thiên3 thành Nam Kinh, đổi trấn 
Chiêu Dương thành châu Vĩnh An, đổi sông 
Bắc Giang thành sông Thiên Đức [3, tr.40]. 
Năm 1025, Lý Thái Tổ cho đặt trại Định 
Phiên ở phía nam châu Hoan (Nghệ An, Hà 
Tĩnh ngày nay), dùng trại đó làm nơi định 
cư cho tù nhân người Chiêm Thành. 
3. Cải cách về chính trị 
Đinh Tiên Hoàng dựng Vương triều Đinh 
và Lê Đại Hành dựng Vương triều Tiền Lê 
từ võ công dẹp nội loạn và chống giặc 
ngoại xâm. Vì thế, triều đình của hai vương 
triều ấy còn mang nặng tính chất của một 
bộ máy quân sự. 
Khi phân tích về việc họ Đinh mất 
vương triều của, Sử thần Ngô Thì Sỹ cho 
rằng: “Đất Hoa Lư thấp trũng hẹp, không 
phải là nơi địa hình tốt đẹp, thế nước không 
vững, lòng người dễ dao động, lại nạn mưa 
đá, động đất luôn luôn xảy ra, 3 thứ thiên 
thời, địa lợi, nhân hòa không được lấy một, 
mà muốn xây dựng kế hoạch lâu dài thì làm 
sao được?” [7, tr.165]. Theo ông điều đó có 
nguyên nhân là ở chỗ từ tư tưởng quản lý 
đất nước không phù hợp, đem “thuật trị 
quân ra mà trị nước”, “đặt vạc dầu làm hình 
phạt”. Tuy nhiên, xét trên một góc độ nào 
đó, thì trong bối cảnh đất nước mới thoát 
khỏi “trăm mối tơ vò”, tư tưởng cai trị như 
vậy cũng không hẳn là không phù hợp. 
Lê Đại Hành lên ngôi tuy đã “để ý việc 
thường dùng của dân, dốc lòng về quốc 
chính, trọng nông nghiệp, cẩn thận về biên 
phòng, quy định pháp lệnh tuyển dân làm 
lính” [3, tr.227], nhưng do vương triều và 
nhân dân đang đứng trước họa xâm lăng 
Ngô Vũ Hải Hằng 
77 
của nhà Tống, nên buộc ông vẫn phải duy 
trì một bộ máy do những vị tướng lĩnh quân 
sự đảm đương. 
Sử thần Lê Văn Hưu cho rằng: “Kể về 
mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, 
làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người 
Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại 
Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về 
mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng 
nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê 
Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính 
lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư? 
Đáp: Hơn thì không biết, chỉ thấy đức của 
họ Lý dày hơn họ Lê, vì thế nên noi theo họ 
Lý” [6, tr.221]. 
Rõ ràng là, ngoài lý do địa chính trị của 
Kinh đô Hoa Lư (không còn phù hợp là 
kinh đô của một quốc gia độc lập, đang trên 
đà phát triển), thì chính sách cai trị và quản 
lý đất nước của chính quyền Đinh, Tiền Lê 
cũng là một trong những nguyên nhân 
khiến hai triều đại ấy không thể tồn tại được 
lâu dài. Trong khi đó, Lý Thái Tổ đã có sự 
thay đổi hẳn về tư duy quản lý đất nước. 
Nếu nhà Đinh và nhà Tiền Lê lựa chọn ưu 
tiên mục tiêu an ninh, quân sự, dựa vào địa 
thế hiểm yếu, khả năng phòng thủ tốt của 
Hoa Lư, thì Lý Thái Tổ lại lấy sự phát triển 
để tạo ra khả năng phòng thủ. 
Từ thay đổi tư duy cầm quyền và quản lý 
xã hội trên, Lý Thái Tổ đã xây dựng tổ 
chức bộ máy nhà nước theo mô hình “nhà 
nước thân dân”. Đặc trưng nổi trội của thiết 
chế chính trị này là ở chỗ quyền lực nhà 
nước được xây dựng dựa trên sự ủng hộ của 
dân chúng và mối quan hệ làng - nước hòa 
đồng. Đây là nguồn gốc tạo nên những 
thành tựu trong công cuộc xây dựng, bảo vệ 
và phát triển đất nước. 
Theo Trần Quốc Vượng, câu cuối cùng 
trong Thiên đô chiếu của vua Lý Thái Tổ 
(“Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy 
để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”) là 
“câu văn đắt nhất trong bài chiếu. Đó là cái 
thần của bài chiếu nước Việt, là một bản sắc 
dân tộc, một bản sắc văn hóa Việt đầu đời 
Lý” [8, tr.238-252]. Sau đó, bề tôi đều nói: 
“Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho 
nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho 
dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi 
như thế, ai dám không theo” [6, tr.241]. 
Lý Thái Tổ đã, “thực thi nhiều chính 
sách, biện pháp cụ thể nhằm cải tổ thể chế 
cũ, từng bước dân sự hóa bộ máy chính 
quyền và thiết lập mối quan hệ gần gũi với 
dân chúng” [1, tr.7]. Ngay sau khi lên ngôi, 
tháng 12 năm Canh Tuất (1010), Lý Thái 
Tổ đã “đại xá các thuế khóa cho thiên hạ 
trong 3 năm, những người mồ côi, góa 
chồng, già yếu, thiếu thuế lâu năm đều tha 
cho cả” [6, tr.242]. Tháng 2 năm Quý Sửu 
(1013), Lý Thái Tổ cho định ra 6 loại thuế: 
ao hồ ruộng đất; tiền và thóc về bãi dâu; sản 
vật ở núi nguồn các phiên trấn; các quan ải 
xét hỏi về mắm muối; sừng tê, ngà voi và 
hương liệu của người Man Lão; các thứ gỗ 
và hoa quả ở đầu nguồn [6, tr.243]. Đến 
tháng 10 năm Quý Sửu (1013), ông cho các 
vương hầu công chúa được quản các thuế 
theo thứ bậc khác nhau. Năm Bính Thìn 
(1016), tuy được mùa to, giá lúa được cao 
(30 bó lúa giá 70 tiền), nhưng vua Lý Thái 
Tổ vẫn cho miễn tô thuế 3 năm. 
4. Cải cách về quân đội, an ninh - quốc phòng 
Lực lượng quân đội thời Lý gồm hai bộ 
phận chủ yếu, là cấm quân (hay cấm binh) 
và lộ quân (hay sương quân). Bên cạnh đó, 
còn có dân binh ở cấp hành chính cơ sở, 
(được gọi là hương binh ở đồng bằng, hay 
thổ binh ở miền núi). 
Tháng 8 năm Ất Sửu (1025), vua Lý 
Thái Tổ cho “định binh làm giáp, mỗi giáp 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
78 
15 người, dùng một người quản giáp. Lại 
định các cấp bậc quản giáp. Lại đổi chức 
hỏa đầu4 làm chính thủ, chỉ con hát mới gọi 
là quản giáp” [6, tr.247]. Đồng thời, ông 
cho xây dựng “sáu quân” theo thông lệ và 
hai đội túc xa quân, mỗi đội 500 người. 
Lý Thái Tổ không chủ trương duy trì lực 
lượng quân đội thường trực đông đảo, mà 
dùng chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi 
binh ở trong nông), mở đầu cho tư tưởng 
quân sự dựa vào sức dân mà các triều đại 
phong kiến sau đó sẽ kế thừa và phát huy. 
Chính sách này đã “giải quyết được mâu 
thuẫn giữa việc xây dựng một chính quyền 
dân sự gọn nhẹ với nhu cầu xây dựng một 
quân đội vững mạnh” [4, tr163]; đồng thời 
giải quyết được cả hai nhiệm vụ dựng nước 
và giữ nước, cân đối giữa yêu cầu phát triển 
kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh. 
Một trong những chính sách củng cố an 
ninh quốc phòng được xuất phát từ Lý Thái 
Tổ là dùng hôn nhân tôn thất để thiết lập hệ 
thống quản lý hành chính ở vùng biên viễn. 
Chính sách này là chính sách “làm yên biên 
giới”, hay chính sách “nhu viễn” (mềm dẻo 
với phương xa). Chính sách “nhu viễn” này 
đã trở thành một chính sách xuyên suốt 
trong các triều đại phong kiến sau này. 
Sau khi thiết lập Vương triều Lý, mặc dù 
Lý Thái Tổ đã phân phong cho các hoàng 
tử đi trấn trị các địa phương, hay thân chinh 
đi đánh dẹp các cuộc bạo loạn ở miền biên 
viễn (Ái Châu, năm 1011; Diễn Châu, năm 
1012; Vị Long, năm 1013), nhưng hiệu quả 
không cao. Ông đã gả công chúa cho các vị 
tù trưởng có tầm ảnh hưởng ở các vùng đất 
trọng yếu nơi biên viễn, nhằm tăng tình 
đoàn kết bảo vệ biên giới. 
Bia Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi (tại chùa 
Sùng Phúc tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang, 
do tác giả Lý Thừa Ân soạn vào năm 1107, 
do chính Hà Di Khánh nhờ viết) cho biết: 
ông của Thái phó Hà Di Khánh giữ chức 
Thái bảo, lấy công chúa thứ ba của Thái tổ 
Hoàng đế (tức Lý Thái Tổ), nhân đó trao 
cho ông nội Hà Di Khánh chức Hữu đại 
liên ban [2, tr.324-334]. 
Dẫn theo Tống sử, tác giả Hoàng Xuân 
Hãn cũng cho rằng: Lý Thái Tổ cũng đã gả 
con gái cho Giáp Thừa Quý, tù trưởng động 
Giáp ở Lạng Châu (Bắc Giang và Nam 
Lạng Sơn ngày nay). Giáp Thừa Quý đổi ra 
họ Thân và được làm Châu mục Lạng Châu 
[5, tr.65-66]. Thân Thiệu Thái, con Thừa 
Quý, nối chức cha làm Châu mục Lạng 
Châu, và năm 1029, được vua Lý Thái 
Tông gả Công chúa Bình Dương cho. Con 
trai của Thân Thiệu Thái và Công chúa 
Bình Dương, là Thân Đạo Nguyên, lại lấy 
Công chúa Thiên Thành, năm 1066, đời Lý 
Thánh Tông. 
5. Cải cách về văn hóa - xã hội 
Lý Thái Tổ khi lên ngôi, coi trọng việc xây 
dựng chùa quán, lấy Phật giáo làm quốc 
giáo. Điều này cũng dễ hiểu, vì cả tuổi thơ 
của ông gắn với chùa chiền, được lĩnh hội, 
thấm nhuần tư tưởng triết lý nhân nghĩa của 
nhà Phật, lại được chính giới sư tăng (trí 
thức tôn giáo) đưa lên ngôi. Nhưng quan 
trọng hơn, vua Lý Thái Tổ muốn đem đạo 
vào đời, để xây dựng một xã hội nhân bản 
tốt đẹp hơn, lấy đạo Phật làm bệ đỡ tư tưởng 
cho triều đại, xoa dịu tinh thần người dân 
sau thế kỷ X với rất nhiều biến động lịch sử. 
Lý Thái Tổ đã thay đổi chính sách quản lý 
dân chúng, lấy nhân nghĩa để quản lý. 
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: 
tháng 7 năm Canh Tuất (1010), cùng với 
quyết định dời đô, Lý Thái Tổ cho xây 
dựng chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ 
Ngô Vũ Hải Hằng 
79 
Phượng ở trong thành, ở phía nam ngoài 
thành thì dựng chùa Thắng Nghiêm. Đồng 
thời, ông hạ lệnh cho “các hương ấp, nơi 
nào có chùa quán đã đổ nát đều phải sửa 
chữa lại” [6, tr.241-242]. Năm sau, năm 
Tân Hợi (1011), vua cho dựng chùa Vạn 
Tuế trong thành Thăng Long; chùa Tứ Đại 
Thiên Vương và các chùa Cẩm Y, Long 
Hưng, Thánh Thọ ở ngoài thành [6, tr.242]. 
Tháng 9 năm Giáp Dần (1014), vua lại phát 
310 lạng vàng trong kho để đúc chuông treo 
ở chùa Hưng Thiên. Tháng 10, phát trăm 
lạng bạc trong kho để đúc hai quả chuông 
treo ở chùa Thắng Nghiêm và tinh Lâu Ngũ 
Phượng [6, tr.224]. Tháng 3 năm Bính Thìn 
(1016), dựng hai chùa Thiên Quang, Thiên 
Đức và tô bốn pho tượng Thiên Đế. Tháng 
9 năm Giáp Tý (1024), làm chùa Chân Giáo 
ở trong thành Thăng Long để vua tiện ngự 
xem tụng kinh. Cùng với việc cho xây dựng 
chùa chiền, vua Lý Thái Tổ còn khuyến 
khích dân chúng xuất gia theo đạo Phật. Sử 
chép: tháng 3 năm Bính Thìn (1016), vua 
“độ cho hơn nghìn người ở Kinh sư làm 
tăng đạo”. Tháng giêng năm Canh Thân 
(1020), “xuống chiếu độ dân trong nước 
làm tăng” [6, tr.245-246]. Không những 
thế, vua Lý Thái Tổ còn cử sứ thần sang 
nhà Tống xin kinh Tam tạng về, cho sao 
chép lại để lưu trữ ở kho Đại Hưng. 
Có nhiều ý kiến về việc xây dựng chùa 
chiền, hưng thịnh Phật giáo của Lý Thái Tổ. 
Lê Văn Hưu, với con mắt của người học 
Nho, cho rằng: Lý Thái Tổ lên ngôi mới 
được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã 
tắc chưa lập, mà trước đã dựng tám chùa ở 
phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các 
lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở 
Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào 
việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể 
[6, tr.242]. Ngô Sỹ Liên cũng cho Lý Thái 
Tổ “ưa thích dị đoan” ông viết: “Vua ứng 
mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời mở 
vận, là người khoan thứ nhân từ, tinh tế hòa 
nhã, có lượng đế vương. Song chưa làm 
sáng chính học, lại ưa thích dị đoan, bị lụy 
vì chuyện đó” [6, tr.240]. 
Lý giải về sự “ưa thích dị đoan” của Lý 
Thái Tổ, Keith W.Taylor [9, tr.587-640] 
cho rằng: đức tính tinh thần của thần thánh, 
theo lời lẽ của Phật giáo, là lòng trắc ẩn và 
tính nhân đạo. Chúng kích thích và khơi 
động những quyền lực siêu nhiên trên lãnh 
thổ Việt Nam (núi, sông, cây cỏ, đồng 
ruộng) và trong ký ức lịch sử của dân Việt 
(các vị anh hùng đã chết). Những quyền lực 
này được khơi động nhờ nhà vua tuyên 
ngôn rằng đây là những thần linh bảo vệ 
vương quốc. Quá trình này “có lẽ là mặt 
đặc sắc của “tôn giáo thời Lý”, bởi vì đó là 
hình thức dân Việt Nam “tự phát hiện” sau 
nhiều thế kỷ bị Trung Quốc đô hộ”. Có vẻ 
như, việc Lý Thái Tổ và các vua nhà Lý 
thừa nhận vai trò tôn giáo và siêu nhiên này 
chính là yếu tố đầu tiên để thiết lập và duy 
trì quyền lực và tính chân chính của mình; 
các vua được nghe theo vì người dân nhận 
thức là vua có những đức tính tinh thần và 
thần linh, chứ không phải vì vua chỉ huy 
một hệ thống hành chính và buộc họ phải 
tuân theo. 
Trong những thế kỷ bị Trung Quốc đô 
hộ, các vị anh hùng xứng đáng tượng 
trưng cho thực thể dân tộc đã bị lãng 
quên, chỉ trừ ở ngay làng xóm quê hương 
họ hay ở các địa phương còn đền miếu thờ 
phụng họ. “Người Việt Nam trong thế kỷ 
XI thực sự đang cố tự phát hiện xem mình 
là ai, đang khơi dậy ký ức tập thể Việt, và 
nhà vua là nhân vật chủ chốt trong cuộc 
phiêu lưu văn hóa này” [9, tr.606]. Sự thờ 
phụng đa dạng được nhà vua bảo trợ trong 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2019 
80 
thế kỷ XI cho thấy thái độ thực nghiệm, 
sẵn sàng tiếp nhận thông tin mới; còn 
đang tìm hiểu chứ chưa khẳng định giới 
hạn của nền văn hóa Việt. 
6. Kết luận 
Có thể nói, Lý Thái Tổ thiết lập Vương 
triều Lý trong một tâm thế kiến tạo, mọi 
việc còn ở phía trước. Từ tư tưởng và công 
việc thực tế mà Lý Thái Tổ và các vua Lý 
sau này đã làm đều là những công việc sáng 
nghiệp (từ chủ quyền lãnh thổ, tăng cường 
sự kiểm soát đối với các vùng đất thượng 
du; mô hình chính trị, thiết lập một mô hình 
“tập quyền thân dân”; định đô, mở ra một 
thời kỳ văn hóa Thăng Long phát triển rực 
rỡ; định điển chế văn chương; các quan hệ 
đối ngoại với lân bang và đặc biệt là chọn 
lựa hệ tư tưởng chỉ đạo). Lý Công Uẩn với 
những chính sách cải cách toàn diện (giảm 
bớt quân đội thường trực, tăng cường các 
biện pháp cai trị khoan hòa, bớt hình phạt 
khắc nghiệt, thúc đẩy kinh tế và văn hóa đất 
nước phát triển mạnh) đã tăng cường sức 
mạnh của nhà nước. Với các chính sách đó, 
quyền lực tập trung của chính quyền trung 
ương không hề suy giảm, mà còn tăng lên 
gấp bội phần; nước Đại Việt bước vào thời 
kỳ sống trong cảnh thái bình thịnh trị gần 
hai thế kỷ. 
Chú thích 
2 Nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. 
3
 Tức phủ Ứng Hòa, nay là huyện Ứng Hòa, thành 
phố Hà Nội. 
4
 Hỏa đầu: như chức đội trưởng thời Lê. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Phạm Đức Anh (2011), “Về tính chất tập quyền 
trong thiết chế chính trị triều Nguyễn (1009-
1225)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 10 (426). 
[2] “Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi (bia chùa Bảo 
Ninh Sùng Phúc)”, Thơ Văn Lý - Trần, t.1, 
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977. 
[3] Phan Huy Chú (2008), Lịch triều hiến chương 
loại chí, t.1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[4] Vũ Minh Giang (2011), “Dời đô về Thăng 
Long - một sự kiện lịch sử quan trọng”, Với 
Thăng Long Hà Nội, Nxb Thế giới. 
[5] Hoàng Xuân Hãn (2003), Lý Thường Kiệt, lịch 
sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nxb Quân 
đội nhân dân, Hà Nội. 
[6] Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê (1993), 
Đại Việt sử ký toàn thư, t.1, Nxb Khoa học xã 
hội, Hà Nội. 
[7] Ngô Thì Sỹ (1997), Đại Việt sử ký tiền biên, 
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[8] Trần Quốc Vượng (1999), “Vài suy nghĩ tản 
mạn nhân đọc lại bài chiếu về việc dời đô của 
vị vua khai sáng Vương triều Lý”, Trên mảnh 
đất ngàn năm văn vật, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 
 [9] Keith W.Taylor (2010), “Quyền uy và tính 
chân chính ở Việt Nam thế kỷ thứ XI”, Vương 
triều Lý (1009-1226), Nxb Hà Nội, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_cuoc_cai_cach_cua_ly_thai_to.pdf