Những tiến bộ và hạn chế trong chế định quyền con người, quyền công dân của Dự thảo 3 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013

Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích những thay đổi trong chế định về quyền con người, quyền và

nghĩa vụ của công dân trong Dự thảo 3 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2013. Trên cơ

sở so sánh, đối chiếu với các quy định liên quan của Luật nhân quyền quốc tế, đặc biệt là Công

ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã là thành viên, tác giả đã chỉ

ra những thành tựu, hạn chế của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân của

Dự thảo kể trên, đồng thời đề xuất những điều chỉnh để Dự thảo phù hợp hơn với Luật nhân quyền

quốc tế.

pdf 11 trang yennguyen 3560
Bạn đang xem tài liệu "Những tiến bộ và hạn chế trong chế định quyền con người, quyền công dân của Dự thảo 3 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những tiến bộ và hạn chế trong chế định quyền con người, quyền công dân của Dự thảo 3 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013

Những tiến bộ và hạn chế trong chế định quyền con người, quyền công dân của Dự thảo 3 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 29, Số 3 (2013) 51-61 
 51 
Những tiến bộ và hạn chế trong chế định quyền con người, 
quyền công dân của Dự thảo 3 Hiến pháp 1992 
sửa đổi năm 2013 
Vũ Công Giao 
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 01 tháng 7 năm 2013 
Chỉnh sửa ngày 30 tháng 7 năm 2013; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 8 năm 2013 
Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích những thay đổi trong chế định về quyền con người, quyền và 
nghĩa vụ của công dân trong Dự thảo 3 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2013. Trên cơ 
sở so sánh, đối chiếu với các quy định liên quan của Luật nhân quyền quốc tế, đặc biệt là Công 
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã là thành viên, tác giả đã chỉ 
ra những thành tựu, hạn chế của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân của 
Dự thảo kể trên, đồng thời đề xuất những điều chỉnh để Dự thảo phù hợp hơn với Luật nhân quyền 
quốc tế. 
Từ khóa: Hiến pháp, quyền con người, quyền công dân, Việt Nam, Luật nhân quyền quốc tế, công 
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 
Tiến trình nghiên cứu sửa đổi,*bổ sung Hiến 
pháp hiện hành (Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ 
sung năm 2001) hiện đã qua một chặng đường 
dài, đánh dấu bằng việc bản Dự thảo 3 (được 
tiếp thu, chỉnh lý sau đợt xin ý kiến nhân dân 
vào Dự thảo 21) đã được trình lên Quốc Hội 
khóa XIII cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 (20/5-
22/6/2013).2 
_______ 
*
 ĐT.: 84 - 912105803 
 Email: giaochr@gmail.com 
1
 Tức Dự thảo để lấy ý kiến nhân dân và được công bố lần 
thứ hai vào ngày 02/01/2013, trên trang Duthaoonline của 
Văn phòng Quốc Hội, tại: 
NGHIQUYET/View_Detail.aspx?ItemID=32&TabIndex=1&L
anID=50 
2
 Dự thảo này được công bố công khai vào ngày 17/5/2013 
trên trang Duthaoonline của Văn phòng Quốc Hội (tại địa 
chỉ trên). 
Mặc dù vậy, Dự thảo 3 vẫn tiếp tục thu hút 
sự quan tâm góp ý của nhiều chuyên gia và 
người dân. Bài viết này phân tích một số khía 
cạnh (cả mới và cũ) còn đang được tranh luận 
trong Chương II (về quyền con người, quyền và 
nghĩa vụ của công dân) của Dự thảo 3 và nêu ra 
một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện chế 
định quan trọng này. 
1. Những điểm giống Dự thảo 2 
So với Dự thảo 2, tên gọi, vị trí và số lượng 
điều trong chế định quyền con người, quyền 
công dân của Dự thảo 3 cơ bản không thay đổi. 
Cả hai dự thảo đều đặt tên chương là “Quyền 
V.C. Giao / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 3 (2013) 51-61 
52 
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, đều 
nâng chương lên vị trí thứ 2 (so với vị trí thứ 5 
trong Hiến pháp hiện hành). Chỉ có một sự khác 
biệt nhỏ đó là Dự thảo 3 bỏ đi Điều 20 (ghép vào 
Điều 16) và chuyển Điều 37 thành Điều 23(a) (Dự 
thảo 2 có 38 điều, còn Dự thảo 3 có 37 điều, nếu 
tính Điều 23(a) cũng là một điều riêng). 
Việc vị trí mới và tên gọi mới của chương 
không thay đổi trong Dự thảo 2,3 (và cả Dự 
thảo 13) cho thấy nhận thức về tầm quan trọng 
của chế định quyền con người, quyền công dân 
trong Hiến pháp và về tính chất, phạm vi điều 
chỉnh của chế định này (hay rộng hơn nữa là về 
mối quan hệ giữa quyền con người, quyền công 
dân), đã đạt được sự đồng thuận rộng rãi. 
Đi sâu hơn vào nội dung chương II, có thể 
thấy Dự thảo 3 vẫn giữ được định hướng thay 
đổi tiến bộ của Dự thảo 2, cụ thể là: 
Không còn đồng nhất quyền con người và 
quyền công dân (như ở Điều 50 Hiến pháp hiện 
hành) mà sử dụng khá hợp lý hai thuật ngữ này 
cho các quyền/tự do hiến định. 
• Đã thay đổi (tuy chưa triệt để) cách hiến 
định quyền từ mô thức nhà nước “quyết 
định”, “trao” quyền cho người dân sang 
mô thức các quyền của con người là tự 
nhiên, vốn có, nhà nước phải ghi nhận, 
bảo vệ và bảo đảm thực hiện. 
• Đã ghi nhận cả ba nghĩa vụ của nhà nước 
về tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền 
con người theo tinh thần của luật nhân 
quyền quốc tế.4(Điều 50 Hiến pháp hiện 
hành chỉ ghi nhận nghĩa vụ tôn trọng). 
_______ 
3Tức Dự thảo được trình Quốc Hội khóa XIII cho ý kiến tại 
kỳ họp thứ 4 và được công bố lần thứ nhất vào ngày 
22/10/2012, trên trang Duthaoonline của Văn phòng Quốc 
Hội (tại địa chỉ trên). 
4Trong Dự thảo 2, ba nghĩa vụ này được nêu ở khoản 1 
Điều 15, còn trong Dự thảo 3, nghĩa vụ tôn trọng được quy 
định ở khoản 1 Điều 15, các nghĩa vụ bảo vệ và bảo đảm 
được quy định ở Điều 3. 
• Đã quy định nguyên tắc về giới hạn 
quyền5mà một số khía cạnh đã tương 
thích đến mức độ nhất định với luật nhân 
quyền quốc tế. 
• Đã ghi nhận một số quyền mới, bao gồm: 
Quyền sống (Điều 21); Các quyền về văn 
hóa (Điều 44); Quyền xác định dân tộc, 
sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn 
ngữ giao tiếp (Điều 45); Quyền sống 
trong môi trường trong lành (Điều 46); 
Quyền của công dân không bị trục xuất, 
giao nộp cho nước khác (Điều 18).6 
• Đã củng cố hầu hết các quyền hiện có 
(quy định rõ hơn hoặc tách thành điều 
riêng), bao gồm: Bình đẳng trước pháp 
luật (Điều 17); Cấm tra tấn, đối xử tàn 
bạo, vô nhân đạo và hạ nhục (Điều 22.1); 
Bảo vệ đời tư (Điều 23, 23(a) và 377); 
Tiếp cận thông tin (Điều 26); Tham gia 
quản lý nhà nước và xã hội (Điều 29); 
Bình đẳng giới (Điều 27); Bỏ phiếu trong 
trưng cầu dân ý (Điều 30); Xét xử công 
bằng (Điều 32); Tư hữu tài sản (Điều 33); 
An sinh xã hội (Điều 35); Nơi ở hợp 
pháp (Điều 36); Việc làm (Điều 38).8 
Những thay đổi trên khiến cho chế định này 
của hiến pháp phù hợp hơn với nội dung của 
các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt 
Nam là thành viên, cũng như với chế định về 
quyền con người, quyền công dân trong hiến 
pháp các nước dân chủ. Phần lớn những thay 
đổi trên nhằm khắc phục những hạn chế của 
chương V Hiến pháp hiện hành mà đã khiến các 
_______ 
5Khoản 2 Điều 15 và rải rác ở một số điều khác trong 
chương II của cả hai Dự thảo 2 và 3. 
6Các điều gắn với các quyền này tương thích trong cả hai 
Dự thảo 2 và 3. 
7Các quyền về đời tư trong Dự thảo 2 được quy định ở hai 
Điều 23 và 37, còn trong Dự thảo 3 được quy định trong hai 
Điều 23 và 23(a), trong đó Điều 23(a) là do Điều 37 chuyển 
lên. 
8
 Ngoại trừ các Điều 23(a) và 37, các điều gắn với các 
quyền còn lại là tương thích trong cả hai Dự thảo 2 và 3. 
V.C. Giao / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 3 (2013) 51-61 53 
quy định về quyền con người, quyền công dân 
trở thành hình thức, vì vậy, nó hứa hẹn rằng các 
quyền hiến định trong hiến pháp sửa đổi sẽ 
được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm đúng đắn, 
hiệu quả hơn trong thực tế. 
2. Khác Dự thảo 2 
So với Dự thảo 2, Chương II Dự thảo 3 có 
một số sửa đổi, bổ sung như sau: 
Thứ nhất, sửa đổi quy định ở khoản 1 Điều 
15, cụ thể là:9 “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền 
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, 
xã hội được tôn trọng, được quy định trong 
Hiến pháp và pháp luật”, 
Việc bỏ hai từ “bảo vệ” và “bảo đảm” có 
thể được biện minh với lý do là hai nghĩa vụ 
này đã được chuyển lên Điều 3 chương I,10còn 
việc bổ sung cụm từ “về chính trị, dân sự, kinh 
tế, văn hóa, xã hội” có tác dụng làm rõ hơn 
nhận thức về quyền con người, quyền công dân 
(dù không thực sự cần thiết vì đây đã là nhận 
thức phổ biến ở trên thế giới và Việt Nam). Tuy 
nhiên, việc bổ sung cụm từ “được quy định” 
làm giảm tính tích cực của khoản 1 Điều 15. 
Với việc các quyền con người, quyền công dân 
“được quy định trong Hiến pháp và pháp luật”, 
khoản 1 Điều 15 của Dự thảo 3 lại trượt vào tư 
duy cũ là các quyền con người do nhà nước 
“ban phát’ cho nhân dân chứ không phải là 
những giá trị vốn có, tự nhiên. Theo nghĩa này, 
diễn đạt cũ (ở Dự thảo 2) tỏ ra tiến bộ hơn, khi 
nói rằng quyền con người, quyền công dân 
“được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến 
_______ 
9Trong bài viết này, để bạn đọc tiện theo dõi, trong các quy 
định được trích dẫn, những từ mà Dự thảo 3 bỏ đi (từ Dự 
thảo 2) sẽ bị gạch ngang, những từ được thêm vào sẽ in 
nghiêng. 
10So với Điều 3 Dự thảo 2, điều này được thêm một đoạn 
“tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền 
công dân”. 
pháp và pháp luật” (mặc dù từ “theo” vẫn nên 
được thay bằng từ “bởi” hoặc “bằng”). 
Thứ hai, sửa đổi quy định ở khoản 2 Điều 
15, cụ thể là: “2. Quyền con người, quyền công 
dân chỉ có thể bị hạn chế ở mức độ cần thiết 
trong trường hợp khẩn cấp vì lý do quốc phòng, 
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo 
đức, sức khỏe của cộng đồng”. 
Sửa đổi trên đã nhầm lẫn giữa hai vấn đề 
khác biệt trong Luật nhân quyền quốc tế, đó là 
limitation of human rights (“giới hạn của 
quyền”) và derogation of human rights (“hạn 
chế việc thực hiện quyền” hay “tạm đình 
chỉ/dừng thực hiện quyền”),11 từ đó sẽ gây ra 
những hậu quả nghiêm trọng về lập pháp và 
thực thi pháp luật. Hậu quả thứ nhất là, với quy 
định đã được sửa đổi như trên, bất cứ quyền 
con người, quyền công dân nào cũng sẽ chỉ bị 
hạn chế (giới hạn) trong trường hợp khẩn cấp 
của quốc gia, trong khi trên thực tế, một số 
quyền cần thiết (và được Luật nhân quyền quốc 
tế cho phép) phải được giới hạn trong mọi thời 
điểm, chứ không cần đợi đến khi xuất hiện tình 
trạng khẩn cấp. Ví dụ, theo Luật nhân quyền 
quốc tế, quyền tự do hội họp luôn được kèm 
theo điều kiện “hòa bình”;12 quyền tự do lập hội 
có thể bị hạn chế với những người làm việc 
trong các lực lượng vũ trang và cảnh sát;13 
quyền tự do ngôn luận có thể bị hạn chế để 
phòng ngừa sự xâm hại danh dự, nhân phẩm, 
đời tư của người khác, bí mật quốc gia, đạo đức 
cộng đồng hay để ngăn ngừa những hành động 
_______ 
11Về derogation of human rights, xem 
academy.ch/RULAC/derogation_from_human_rights_treatie
s_in_situations_of_emergency.php. 
12Xem Điều 20(1) Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 
1948 (UDHR) và Điều 21 Công ước quốc tế về các quyền 
dân sự, chính trị 1966 (ICCPR). 
Các điều ước quốc tế về nhân quyền được dẫn chiếu trong 
bài viết này (bản dịch tiếng Việt và bản gốc tiếng Anh) được 
tham chiếu tại  
13Xem Điều 22(2) ICCPR. 
V.C. Giao / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 3 (2013) 51-61 
54 
kích động chiến tranh, hằn thù, phân biệt đối xử 
về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, tín ngưỡng14 
Hậu quả thứ hai là, trong khi đề cập đến vấn 
đề hạn chế thực hiện quyền, quy định sửa đổi 
trên đã không kèm theo những ngoại trừ với các 
quyền tuyệt đối (non-derogable rights) mà theo 
luật nhân quyền quốc tế các quốc gia không 
được phép giới hạn hay đình chỉ thực hiện trong 
bất kỳ bối cảnh nào, cụ thể như các quyền sống; 
quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân 
đạo hay nhục hình; quyền không bị bắt làm nô 
lệ, nô dịch; quyền không bị tù vì không hoàn 
thành nghĩa vụ theo hợp đồng; quyền được suy 
đoán vô tội; quyền được thừa nhận tư cách thể 
nhân trước pháp luật và quyền tự do tư tưởng, 
tín ngưỡng, tôn giáo.15Thiếu sót này vô hình 
trung sẽ tạo cơ sở cho việc lợi dụng quy định về 
tình trạng khẩn cấp để vi phạm các quyền tuyệt 
đối. 
Liên quan đến những vấn đề trên, hiện còn 
một câu hỏi còn để ngỏ: Liệu quy định về giới 
hạn, hạn chế quyền nêu ở khoản 1 Điều 15 có 
được áp dụng với những quyền được ghi nhận ở 
ngoài phạm vi của chương II, ví dụ như quyền 
được dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc 
dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, 
truyền thống và văn hoá, và quyền bầu cử, ứng 
cử trong các Điều 5 và 7 của chương I)? Ở đây, 
về nguyên tắc, quy định về giới hạn, hạn chế 
quyền phải được áp dụng với mọi quyền hiến 
định, bất luận được ghi nhận ở chương nào của 
hiến pháp; vì thế, cần thêm vào cụm từ “trong 
hiến pháp” hoặc “hiến định” ngay sau cụm từ 
_______ 
14Xem các Điều 19,20 ICCPR. 
15Xem Điều 4(2) ICCPR. Các quyền liệt kê ở trên thuộc về 
các Điều 6, 7, 8 (khoản 1 và 2), 11, 15, 16 và 18 ICCPR. 
Riêng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo luật nhân quyền 
quốc tế, quyền tuyệt đối không bao gồm khía cạnh thực 
hành tôn giáo, tín ngưỡng. Cụ thể, trong bối cảnh khẩn cấp 
của quốc gia, nhà nước không có quyền cấm người dân tin 
hay không tin theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào, song có 
thể tạm đình chỉ việc tổ chức các hoạt động tôn giáo có tính 
chất tập thể để bảo đảm an ninh, trật tự công cộng. 
“quyền con người, quyền công dân” ở đầu 
khoản 1 Điều 15. 
Thứ ba, bổ sung hai câu vào Điều 21, cụ 
thể là: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng 
con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị 
tước đoạt tính mạng một cách trái pháp luật”. 
Hai câu bổ sung nêu trên đã làm rõ một vấn 
đề gây tranh cãi do cấu trúc quá ngắn gọn của 
Điều 21 Dự thảo 2, đó là: ghi nhận quyền sống 
không đồng nghĩa với việc sẽ xóa bỏ hình phạt 
tử hình. Quan điểm này trên thực tế không mâu 
thuẫn với Luật nhân quyền quốc tế, vì ICCPR 
ghi nhận quyền sống nhưng chỉ vận động mà 
không bắt buộc các quốc gia thành viên phải 
xóa bỏ hình phạt tử hình.16 
Mặc dù vậy, Luật nhân quyền quốc tế nêu 
rõ một giới hạn đó là, ở những nước mà hình 
phạt tử hình chưa được xoá bỏ thì chỉ được 
phép áp dụng hình phạt này với những tội ác 
nghiêm trọng nhất...17 Vì vậy, quy định này cần 
được đưa vào Điều 21 Dự thảo. Ở đây, câu 
“Không ai bị tước đoạt tính mạng một cách trái 
pháp luật” nên được thay bằng “Cho đến khi 
chưa được xóa bỏ, hình phạt tử hình chỉ được 
áp dụng với những tội phạm nghiêm trọng 
nhất” (và có thể nêu thêm là “trong mọi trường 
hợp không được áp dụng với phụ nữ có thai và 
trẻ em”). Sửa đổi như vậy sẽ giúp Điều 21 phù 
hợp hơn với luật nhân quyền quốc tế, đồng thời 
tránh được một nguy cơ là quy định “Không ai 
bị tước đoạt tính mạng một cách trái pháp luật” 
có thể được giải thích theo hướng nhấn mạnh 
rằng, ngoài việc Tòa án tuyên án tử hình, còn có 
những khả năng khác cho phép các cơ quan nhà 
nước khác tước đoạt tính mạng của con người 
một cách hợp pháp. Cách hiểu như vậy có thể 
dẫn tới việc cho phép các cơ quan thực thi pháp 
_______ 
16Xem Điều 6 ICCPR. 
17Xem Điều 6 khoản 2 ICCPR. 
V.C. Giao / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 3 (2013) 51-61 55 
luật lạm dụng vũ khí sát thương trong quá trình 
truy bắt tội phạm. 
Thứ tư, bổ sung quy định “Không ai bị bắt, 
nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, 
quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát 
nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. 
Việc bắt, giam giữ người do luật định” thành 
khoản 2 Điều 22. Thực chất phần lớn quy định 
này được lấy lại từ Điều 71 Hiến pháp hiện 
hành (mà đã bị xóa bỏ trong Dự thảo 2). Việc 
lấy lại quy định này có ý nghĩa tích cực, vì nó 
củng cố sự bảo vệ hiến định với các quyền con 
người trong tố tụng hình sự. 
Thứ năm, sửa cụm từ “được thông tin” 
trong Điều 26 thành “tiếp cận thông tin”. 
Ở đây, sự sửa đổi xét về hình thức là rất 
nhỏ, nhưng có ý nghĩa lớn về nội dung, bởi 
quyền “được thông tin” (hay “được tiếp nhận 
thông tin”) chỉ là một trong ba khía cạnh của 
quyền “tiếp cận thông tin” (bao gồm quyền 
được tiếp nhận thông tin, được tìm kiếm thông 
tin và được phổ biến thông tin) theo luật nhân 
quyền quốc tế. Như thế, sửa đổi này đã mở rộng 
đáng kể nội hàm của quyền theo hướng phù hợp 
với pháp luật quốc tế cũng như với pháp luật 
hiện hành của Việt Nam, vì các quyền được tìm 
kiếm, phổ biến thôn ... ù hợp hoàn toàn với 
quy định liên quan trong luật nhân quyền quốc 
tế. Dưới đây chỉ đề cập đến vấn đề giới hạn 
quyền, do vấn đề hạn chế quyền đã được phân 
tích ở mục 2. 
 UDHR và ICESCR xác lập một nguyên tắc 
chung là việc giới hạn quyền chỉ có thể được 
quy định bởi luật nhằm các mục đích: tôn trọng 
những quyền và tự do của người khác; đáp ứng 
những yêu cầu về trật tự công cộng, đạo đức và 
phúc lợi của cộng đồng trong một xã hội dân 
chủ.22. Theo ICCPR, chỉ với các quyền tự do 
biểu đạt, quyền hội họp hòa bình và quyền tự 
do lập hội thì mục đích của sự giới hạn mới bao 
gồm cả việc bảo vệ an ninh quốc gia (protection 
of national security).23 
Như vậy, điều rút ra ở đây là yếu tố bảo vệ 
an ninh quốc gia chỉ có thể được coi là mục 
đích cho việc giới hạn ba quyền tự do biểu đạt, 
hội họp hòa bình và lập hội (khi thực sự cần 
thiết theo các tiêu chuẩn của một xã hội dân 
_______ 
22Xem khoản 2 Điều 29 UDHR và Điều 4 Công ước quốc tế 
về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966 (ICESCR). 
23
 Các Điều 19,21,22 ICCPR. 
Riêng với quyền được tự do biểu đạt, sự giới hạn còn được 
thực hiện nhằm một số mục đích cụ thể khác, trong đó có 
việc tôn trọng các quyền hoặc uy tín (reputation) của người 
khác, ngăn ngừa sự tuyên truyền chiến tranh, kích động 
hận thù dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, sự phân biệt đối xử 
hay những hành vi bạo lực. Xem các Điều 19 và 20 ICCPR. 
V.C. Giao / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 3 (2013) 51-61 
58 
chủ) chứ không thể được đưa vào quy định có 
tính chất là một nguyên tắc chung về giới hạn 
mọi quyền như khoản 2 Điều 15 của cả hai Dự 
thảo 2 và 3.24 
Thứ hai, cấm lợi dụng quyền 
Cả hai Dự thảo 2 và 3 đều có một quy địnhở 
khoản 4 Điều 16 nêu rằng: “Không được lợi 
dụng quyền con người, quyền công dân để xâm 
phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, 
lợi ích hợp pháp của người khác”. 
Vì khoản 2 Điều 15 đã quy định về khả 
năng các quyền có thể bị hạn chế và giới hạn, 
đồng thời các khoản 2, 3 Điều 16 (Dự thảo 3)25 
đã đề cập đến “nghĩa vụ tôn trọng quyền của 
người khác” và “trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ 
đối với nhà nước và xã hội” nên quy định trong 
khoản 4 Điều 16 nêu trên thực sự không cần 
thiết, đặc biệt khi các khái niệm “lợi ích quốc 
gia, lợi ích dân tộc, lợi ích hợp pháp của người 
khác” quá rộng và mơ hồ, tiềm ẩn nguy cơ quy 
định này bị lạm dụng, lợi dụng để vi phạm các 
quyền hiến định.26 
Thứ ba, chủ thể quyền 
Như đã đề cập ở mục 1, một trong những 
tiến bộ nổi bật của các Dự thảo là chuyển đổi 
đại từ nhân xưng chỉ chủ thể quyền từ “công 
dân” sang “mọi người” (hoặc “không ai”) trong 
nhiều điều khoản của chương II. Điều này phù 
hợp với bản chất của các quyền liên quan và tạo 
điều kiện để thực thi các quyền đó trên thực tế. 
_______ 
24Thêm vào đó, yếu tố “quốc phòng” (nêu ở khoản 2 Điều 
15 của cả hai Dự thảo) không thuộc vào phạm vi các mục 
đích cho phép giới hạn quyền theo luật nhân quyền quốc 
tế. Điều này là do khái niệm quốc phòng trên thế giới 
thường được hiểu là nằm trong phạm trù an ninh quốc gia, 
trong khi ở Việt Nam thì an ninh quốc gia thường được hiểu 
thiên về sự ổn định của thể chế chính trị. 
25Khoản 1 Điều 16 và Điều 20 Dự thảo 2. 
26Về quy định này, xem bình luận và khuyến nghị của tổ 
chức ARTICLE 19 trong đó cho rằng quy định này trái với 
luật nhân quyền quốc tế, tại 
etnam:-proposed-constitutional-amendments-go-against-
international-law. 
Mặc dù vậy, vẫn còn một số quyền và tự do 
cần được áp dụng với tất cả mọi người nhưng 
hiện vẫn chỉ được quy định dành cho công dân, 
bao gồm: Tự do đi lại, cư trú (Điều 24); Tự do 
biểu đạt, lập hội, hội họp, biểu tình (Điều 26); 
Quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 36); Quyền 
được giáo dục (Điều 42); Quyền được quyết 
định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ (Điều 
45)Việc giới hạn chủ thể quyền chỉ là công 
dân với những quyền và tự do này là không phù 
hợp với luật nhân quyền quốc tế và có thể bị coi 
là sự phân biệt đối xử với người nước ngoài 
sinh sống hợp pháp ở Việt Nam. Ví dụ, xét về 
quyền tự do đi lại, cư trú, Điều 12(1) ICCPR 
quy định rằng, “Bất cứ ai cư trú hợp pháp trên 
lãnh thổ của một quốc gia đều có quyền tự do đi 
lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong phạm vi 
lãnh thổ quốc gia đó”. Như vậy, việc chỉ quy 
định “công dân có quyền tự do đi lại, tự do cư 
trú..” rõ ràng không phù hợp với Điều 12 
ICCPR. Tương tự, khi quy định về các tự do 
biểu đạt, lập hội, hội họp, biểu tình, quyền của 
các nhóm thiểu số được giữ gìn bản sắc của 
mình (các Điều 19,21,22,27 ICCPR), quyền có 
mức sống thích đáng (bao gồm nơi ở); quyền 
được giáo dục (các Điều 11,13 ICESCR), các 
Công ước này đều sử dụng đại từ nhân xưng 
“mọi người” để chỉ chủ thể quyền, hoặc sử 
dụng cách diễn đạt để hàm ý rằng những quyền 
này không chỉ áp dụng với công dân ở một 
quốc gia. 
Thứ tư, “theo luật” và “theo pháp luật” 
Mặc dù ở nhiều điều khoản của các Dự thảo 
2,3, những cụm từ “theo pháp luật”, “do pháp 
luật quy định”hoặc “theo quy định của pháp 
luật” vốn được sử dụng rất phổ biến trong 
chương V Hiến pháp hiện hành đã được bỏ đi 
hoặc thay thế bằng “do luật định”; tuy nhiên 
vẫn còn một số điều hiện còn “quyến luyến” 
với những cụm từ lạc hậu này.27 
_______ 
27Ví dụ như Điều 21 (Không ai bị tước đoạt tính mạng một 
cách trái pháp luật); Điều 23 (3) (Không ai được bóc mở, 
kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình 
V.C. Giao / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 3 (2013) 51-61 59 
Có ý kiến cho rằng sử dụng cụm từ “theo 
pháp luật” là cần thiết vì thực tế nhiều vấn đề 
nêu trên chưa kịp hoặc khó/không cần thiết 
được cụ thể hóa bằng luật. Thêm vào đó, với 
những quy định có mục đích cấm xâm hại 
quyền, việc sử dụng cụm từ “theo pháp luật” sẽ 
mở rộng phạm vi bảo vệ, giúp các quyền được 
bảo đảm hiệu quả hơn. 
Tuy nhiên, cần thấy rằng do ý nghĩa đặc 
biệt quan trọng của chúng, các quyền hiến định 
luôn cần thiết, có thể và không được trì hoãn 
việc cụ thể hóa bằng luật. Còn đối với các quy 
định nhằm cấm xâm hại quyền, việc sử dụng 
cụm từ “theo pháp luật” đồng thời dẫn đến hai 
khả năng: mở rộng phạm vi bảo vệ và tăng 
thêm nguy cơ tùy tiện rút bớt/giảm nhẹ những 
biện pháp xử lý. Trong thực tế, khả năng thứ 
hai thường nổi bật hơn khả năng thứ nhất. 
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng, 
cần tiếp tục điều chỉnh các cụm từ hiện còn 
“theo pháp luật” thành “theo luật định” hoặc 
“do luật định” nhằm giảm thiểu nguy cơ tùy 
tiện giới hạn và vi phạm các quyền hiến định 
của các cơ quan nhà nước.Ở đây, việc cụ thể 
hóa bằng luật không có nghĩa là mọi vấn đề liên 
quan đến việc thực hiện quyền đó đều cần được 
quy định trong luật, mà chỉ cần quy định những 
vấn đề mang tính nguyên tắc, có thể trong một 
đạo luật riêng hoặc một đạo luật có liên quan. 
Thứ năm, thiếu một số quyền và tự do 
quan trọng 
Là thành viên của cả hai công ước ICCPR 
và ICESCR từ đầu thập kỷ 1980, Việt Nam có 
nghĩa vụ thực hiện đầy đủ “những chuẩn mực 
thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác trái 
pháp luật); Điều 24 (Công dân có quyền tự do đi lại và cư 
trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài 
về nước theo quy định của pháp luật); Điều 26 (Công dân 
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, 
hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật); 
Điều 32(5) (Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, 
tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người 
khác phải bị xử lý theo pháp luật)... 
nhân quyền quốc tế tối thiểu” được ghi nhận 
trong hai công ước này, mà đầu tiên là phải “nội 
luật hóa” vào hiến pháp. Mặc dù vậy, cho đến 
nay, Dự thảo 3 vẫn thiếu vắng một số quyền và 
tự do quan trọng được nhấn mạnh trong hai 
công ước đã nêu, bao gồm: Quyền không bị bắt 
làm nô lệ và nô dịch (ICCPR: Điều 8); Quyền 
không bị bỏ tù vì không hoàn thành nghĩa vụ 
theo hợp đồng (ICCPR: Điều 11); Quyền được 
thừa nhận là thể nhân trước pháp luật ở mọi nơi 
(ICCPR: Điều 16); Quyền đình công (ICECSR: 
Điều 8.1); Quyền thành lập, gia nhập công đoàn 
(ICCPR: Điều 22, ICESCR: Điều 8.1); Tự do tư 
tưởng (ICCPR: Điều 18.1); Quyền được giữ 
quan điểm riêng mà không bị can thiệp 
(ICCPR: Điều 19.1). 
Có quan điểm cho rằng các quyền nêu trên 
đã được ghi nhận trong các luật/đạo luật chuyên 
ngành của Việt Nam, vì vậy không cần thiết 
phải quy định trong hiến pháp. Quan điểm này 
không đúng cả về lý luận và thực tế. Về thực tế, 
hầu hết các quyền và tự do nêu trên chưa được 
ghi nhận cụ thể, rõ ràng ở bất cứ văn bản pháp 
luật nào của Việt Nam. Về lý luận, với tính chất 
là những giá trị tự nhiên, vốn có của mọi cá 
nhân được bảo vệ bởi luật quốc tế, các quyền 
con người trước hết và nhất thiết phải được ghi 
nhận trong hiến pháp – văn bản của nhân dân 
ràng buộc nhà nước. Việc một đạo luật nào đó 
đã đề cập đến những quyền nhất định không thể 
lấy làm lý do để không tiếp tục hiến định các 
quyền ấy, bởi quyền hiến định – với tính cách là 
các quyền do nhân dân xác lập – luôn phải được 
ưu tiên và cao hơn so với các quyền luật định – 
với tính cách là các quyền do nhà nước ‘ấn 
định” cho nhân dân. 
Thứ sáu, quyền và nghĩa vụ là không thể 
tách rời? 
Điều 16.1 Dự thảo 3 (Điều 20.1 Dự thảo 2) 
quy định: Quyền công dân không tách rời nghĩa 
vụ công dân. Theo logic này, Điều 42 quy định 
“Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”. 
V.C. Giao / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 3 (2013) 51-61 
60 
Những quy định trên nên được điều chỉnh 
(Điều 42) hoặc bỏ đi (Điều 16.1), dù nó đã “bén 
rễ’ vào tư duy của các nhà quản lý và được 
nhấn mạnh trong nhiều văn bản pháp luật, kể cả 
hiến pháp hiện hành. Đó là bởi câu “quyền công 
dân không tách rời nghĩa vụ công dân” không 
có nội hàm thực chất (nó chỉ có ý nghĩa như 
một câu khẩu hiệu); nhưng quan trọng hơn, nó 
có thể được hiểu và áp dụng theo một cách thức 
phi logic và phi thực tế (mọi quyền phải kèm 
theo một nghĩa vụ tương ứng, như ví dụ về 
Điều 42). Liệu có một quyền nào luôn gắn chặt 
(không tách rời) với một nghĩa vụ tương ứng 
trong thực tế? Nếu quyền luôn gắn liền nghĩa 
vụ tương ứng, vậy quyền sống gắn với nghĩa vụ 
gì? Nếu công dân có quyền đồng thời với nghĩa 
vụ học tập, vậy để hoàn thành nghĩa vụ này cần 
phải học tập đến cấp độ nào? Thế nào là vi 
phạm nghĩa vụ học tập và chế tài nào cho 
những vi phạm đó? 
Thứ bảy, quyền của LGBT 
Xu hướng trên thế giới là ngày càng thừa 
nhận các quyền của LGBT, bao gồm các quyền 
không biệt đối xử và quyền về hôn nhân của họ. 
Sửa đổi hiến pháp là một cơ hội để Việt 
Nam hòa mình vào dòng chảy chung trên thế 
giới về vấn đề trên. Ở đây, hiến pháp sửa đổi 
không nhất thiết cần quy định một quyền cụ thể 
nào đó của LGBT, nhưng hoàn toàn có thể điều 
chỉnh một số quy định để tạo cơ sở cho việc 
luật hóa quyền về hôn nhân và quyền không bị 
phân biệt đối xử của nhóm này mà không xung 
đột với bất kỳ nội dung nào liên quan. Cụ thể, ở 
Điều 39.1, nên thay quy định “Nam và nữ có 
quyền kết hôn và ly hôn” bằng quy định “Mọi 
người có quyền kết hôn và ly dị”, còn ở Điều 
27.3, nên mở rộng quy định “Cấm mọi hành 
động phân biệt đối xử về giới” thành “Cấm mọi 
hành động phân biệt đối xử về giới, nhận dạng 
giới và xu hướng tính dục”. 
Thứ tám, sở hữu đất đai 
Sở hữu đất đai là một trong những vấn đề 
được tranh luận nhiều nhất trong lần sửa đổi 
hiến pháp này. Cho đến nay, chương II của cả 
Dự thảo 2 và 3 đều chưa ghi nhận quyền sở hữu 
tư nhân về đất đai. 
Về vấn đề trên, trong khi vẫn cần giữ quy 
định sở hữu toàn dân về đất đai, đồng thời cũng 
nên thừa nhận quyền sở hữu tư nhân với một số 
loại đất đai nhất định (chế độ đa sở hữu về đất 
đai). Ngoài những cơ sở lý luận và thực tiễn ở 
Việt Nam mà đã được nhiều tác giả phân tích, 
việc này còn bởi quyền sở hữu đất đai cũng 
được coi là một quyền con người theo luật quốc 
tế. Cụ thể, sở hữu đất đai được đặc biệt nhấn 
mạnh với ý nghĩa là một quyền của nhóm trong 
Công ước số 169 năm 1989 về các dân tộc bản 
địa và bộ lạc của Tổ chức Lao động Quốc tế 
(ILO) và trong Tuyên bố năm 2007 của Liên 
hợp quốc về quyền của người bản địa. Trong 
UDHR, quyền sở hữu đất đai thuộc nội hàm của 
quyền sở hữu tư nhân về tài sản29, còn trong 
ICCPR, quyền sở hữu đất đai được gắn với 
quyền tự quyết với nguồn tài nguyên thiên 
nhiên và quyền được bảo đảm (không bị tước 
đoạt) các nguồn sinh sống của một cộng đồng30. 
Thứ chín, hiệu lực và cơ chế bảo đảm 
thực thi quyền 
Các Dự thảo 2 và 3 đều tiếp tục bỏ ngỏ hai 
vấn đề quan trọng trên, mặc dù đã có đề xuất 
quy định rõ các quyền hiến định có hiệu lực áp 
dụng trực tiếp và thành lập cơ quan quốc gia về 
bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền có vị thế hiến 
định độc lập. Điều đó có nghĩa là nhiều quyền 
hiến định trong hiến pháp sửa đổi vẫn sẽ chỉ là 
hình thức trong một thời gian dài do chưa có 
_______ 
29
 Điều 17 UDHR quy định: 1. Mọi người có quyền sở hữu tài 
sản của riêng mình hoặc chung với người khác. 2. Không ai có 
thể bị tước đoạt tài sản một cách tùy tiện. 
V.C. Giao / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 3 (2013) 51-61 61 
luật và nghị định cụ thể hóa. Đây là một nghịch 
lý lớn cả về lý luận và thực tiễn, khi mà các 
quyền hiến định về danh nghĩa do nhân dân xác 
lập để ràng buộc nhà nước thì chính nhân dân 
lại phải chờ đợi, và trong chừng mực nhất định, 
phải phụ thuộc vào nhà nước để có thể hưởng 
thụ các quyền đó. 
Đối với cơ chế bảo đảm thực thi quyền, luật 
nhân quyền quốc tế yêu cầu các quốc gia thành 
viên phải có những cơ chế, biện pháp khác 
nhau, không chỉ bao gồm các cơ quan nhà 
nước, để bảo đảm những người dân bị vi phạm 
quyền được “khắc phục hiệu quả”, kể cả khi vi 
xâm phạm do các cơ quan hay nhân viên nhà 
nước thực hiện31. Thực tế cho thấy, việc không 
quy định thành lập cơ quan quốc gia về bảo vệ 
và thúc đẩy nhân quyền trong hiến pháp làm 
cho nghĩa vụ này khó có thể được thực hiện đầy 
đủ./
Progress and Limitations in the Legal Institution on Human 
and Rights and Citizens’ Rights Duties of the 3rd Draft the 
Amended 1992 Constitution 
Vũ Công Giao 
VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: In this paper, the author analyzes the changes in the legal institution on human and 
rights and citizens’ rights Draft of the 3rd Draft of the 1992 Constitution which is amended and 
supplemented in 2013. On the basis of comparing with the stipulatons relating to the international law 
on human rights, espeecially the 1966 International Covenant on Civil and Political Rights to which 
Vietnam is a member, the author points out the achievements and limitations of the legal instutation on 
human rights and rights and obligations of citizen’s rights of the above-said Draft and at the same 
time,proposes the adjustments so that the Draft cant better conform to the internationa law on human 
right. 
Keywords: Constitution; Human rights; Citizen’s rights; Vietnam; International Law on Human 
Rights; International Convenant on Civil and Political Rights.30 
_______ 
30
 Điều 1 ICCPR. 
31
 Xem Điều 2(3) ICCPR. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_tien_bo_va_han_che_trong_che_dinh_quyen_con_nguoi_quye.pdf