Nữ thần Saraswati (Benzaiten) ở Nhật Bản - Quá trình hình thành, phát triển và bản địa hóa

Tóm tắt: Là một nền văn minh vĩ đại của Châu Á, một trong bốn

nền văn minh cổ đại lớn còn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay, văn

minh Ấn Độ có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đến nhiều nước

trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Trong suốt chiều dài lịch

sử, những tiếp xúc - giao lưu giữa văn minh Ấn Độ và các nền văn

hóa Châu Á như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, đã để lại

những dấu ấn văn hóa đặc sắc. Tại Nhật Bản, giao lưu văn hóa với

Ấn Độ qua con đường Triều Tiên và Trung Hoa cũng không nằm

ngoại lệ. Nhiều yếu tố văn hóa, gồm cả tôn giáo có nguồn gốc Ấn

Độ đã được truyền đến Nhật Bản và được người Nhật Bản tiếp thu,

dung hợp để phù hợp với điều kiện cụ thể của họ. Trong số những

yếu tố văn hóa đó, không thể không kể đến quá trình tiếp nhận,

phát triển và bản địa hóa việc thờ các vị thần trong Hindu giáo tại

Nhật Bản. Bài viết tập trung nghiên cứu một trường hợp trong số

các vị thần Hindu giáo ấy - nữ thần Saraswati (tức nữ thần

Benzaiten trong văn hóa Nhật Bản) nhằm làm rõ quá trình hình

thành, phát triển cũng như đặc điểm bản địa hóa của tục thờ nữ

thần này tại Nhật Bản

pdf 17 trang yennguyen 1700
Bạn đang xem tài liệu "Nữ thần Saraswati (Benzaiten) ở Nhật Bản - Quá trình hình thành, phát triển và bản địa hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nữ thần Saraswati (Benzaiten) ở Nhật Bản - Quá trình hình thành, phát triển và bản địa hóa

Nữ thần Saraswati (Benzaiten) ở Nhật Bản - Quá trình hình thành, phát triển và bản địa hóa
100 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
NGUYỄN ANH TUẤN* 
NỮ THẦN SARASWATI (BENZAITEN) Ở NHẬT BẢN 
- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ BẢN ĐỊA HÓA 
Tóm tắt: Là một nền văn minh vĩ đại của Châu Á, một trong bốn 
nền văn minh cổ đại lớn còn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay, văn 
minh Ấn Độ có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đến nhiều nước 
trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Trong suốt chiều dài lịch 
sử, những tiếp xúc - giao lưu giữa văn minh Ấn Độ và các nền văn 
hóa Châu Á như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, đã để lại 
những dấu ấn văn hóa đặc sắc. Tại Nhật Bản, giao lưu văn hóa với 
Ấn Độ qua con đường Triều Tiên và Trung Hoa cũng không nằm 
ngoại lệ. Nhiều yếu tố văn hóa, gồm cả tôn giáo có nguồn gốc Ấn 
Độ đã được truyền đến Nhật Bản và được người Nhật Bản tiếp thu, 
dung hợp để phù hợp với điều kiện cụ thể của họ. Trong số những 
yếu tố văn hóa đó, không thể không kể đến quá trình tiếp nhận, 
phát triển và bản địa hóa việc thờ các vị thần trong Hindu giáo tại 
Nhật Bản. Bài viết tập trung nghiên cứu một trường hợp trong số 
các vị thần Hindu giáo ấy - nữ thần Saraswati (tức nữ thần 
Benzaiten trong văn hóa Nhật Bản) nhằm làm rõ quá trình hình 
thành, phát triển cũng như đặc điểm bản địa hóa của tục thờ nữ 
thần này tại Nhật Bản. 
Từ khóa: Benzaiten, Saraswati, Thần đạo, Hindu giáo, bản địa hóa. 
1. Sự truyền bá nữ thần Saraswati qua Kinh Phật vào Nhật Bản 
Hình ảnh nữ thần Saraswati ở Nhật Bản gắn liền với sự truyền bá hai bản 
dịch của kinh Suvarnaprabhāsa (The Sutra of Golden Light) tại đất nước 
này: bản dịch của Bảo Quý (寶 貴) và bản dịch của Nghĩa Tịnh (義 淨). 
Trong hai bản dịch trên, bản dịch của Bảo Quý xuất hiện sớm hơn, vào năm 
676 dưới thời Thiên hoàng Temmu với tên gọi Kim Quang Minh Kinh1. 
Tiếp đó, năm 725, dưới thời Thiên hoàng Shomu, bản dịch của Nghĩa Tịnh 
đã xuất hiện với tên gọi Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh. 
* Nghiên cứu sinh Khoa Đông phương học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và 
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Nguyễn Anh Tuấn. Nữ thần Saraswati (Benzaiten) ... 101 
 101
Hình tượng nữ thần Saraswati trong hai bản dịch này, trong mối liên 
hệ đối sánh với bản gốc bằng tiếng Phạn, có thể được chia làm ba phần 
riêng biệt, mỗi phần lại đại diện cho một khía cạnh khác nhau của nữ 
thần: nữ thần của trí tuệ và tài hùng biện; nữ thần hướng dẫn nghi thức 
tắm bằng thảo dược; nữ thần chiến tranh. Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt 
tìm hiểu những hình tượng nguyên bản của nữ thần Saraswati khi kinh 
Suvarnaprabhāsa mới được truyền vào Nhật Bản. 
- Nữ thần của trí tuệ và tài hùng biện. Các nhà phiên dịch kinh Phật 
người Trung Quốc gọi Saraswati là Đại Biện Thần hoặc Đại Biện Thiên 
Thần, Đại Biện Tài Thiên Nữ. Đây cũng chính là nguồn gốc tên gọi 
Benten (Biện Thiên) hay Benzaiten (Biện Tài Thiên) của nữ thần này 
trong tiếng Nhật. Cụ thể, bản kinh Phật đề cập đến Saraswati với các nội 
dung như sau: 
Nữ thần hứa sẽ tăng thêm niềm vui cho hoạt động giảng đạo của 
người thuyết pháp, đồng thời cũng giúp người thuyết pháp tăng cường tài 
hùng biện của mình. 
Nữ thần khẳng định trí tuệ tuyệt đối của mình khi cam kết sẽ hoàn 
chỉnh, bổ sung lại các đoạn kinh văn bị thiếu sót cũng như hỗ trợ người 
thuyết pháp nhớ lại những đoạn kinh văn mình đã quên. 
Nữ thần còn nhấn mạnh đến những quyền năng - đại trí tuệ mà mình 
có thể đem đến cho người thuyết pháp, bao gồm: phúc đức vô lượng, khả 
năng thấu hiểu vô số “phương tiện”, khả năng kiểm nghiệm và thông suốt 
tất cả các lý luận, học thuyết, khả năng biết rõ tất cả các nghệ thuật trên 
thế gian, khả năng thoát ra khỏi vòng sinh tử và đạt tới cảnh giới Niết 
Bàn, khả năng nhanh chóng đạt được sự giác ngộ tuyệt đối (anuttara 
samyak sambodhi). 
Như vậy, ở đây Saraswati hiện lên với hình tượng của một nữ thần 
hùng biện và trí tuệ, có khả năng đem lại tài hùng biện, tri thức về thế 
giới, trí tuệ về mặt tâm linh và khả năng giác ngộ tuyệt đối. 
- Nữ thần hướng dẫn nghi thức tắm bằng thảo dược. Không nên hiểu 
lầm sự tắm rửa ở đây như một hình thức làm sạch thân thể của người 
phàm tục. Trong Hindu giáo nói chung và trong trường hợp nữ thần 
Saraswati nói riêng, tắm rửa chính là một trong những phương pháp 
thanh tẩy cơ thể và tâm hồn, để tâm linh thoát ra khỏi vòng trần tục và 
đến với thế giới của thần linh, đạt đến sự giác ngộ và giải thoát. Bản kinh 
Phật đã đề cập về nữ thần Saraswati ở các khía cạnh sau: 
102 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
 102
Nữ thần yêu cầu tất cả những người đang nghe kinh và thực hiện nghi 
lễ cần học thuộc lòng và liên tục niệm thần chú, đồng thời phải tắm rửa 
thanh tẩy cơ thể của mình trong bồn tắm thảo dược và như sắp nói sau 
đây, nữ thần sẽ giải thích kỹ càng về nghi thức tắm bằng thảo dược2. 
Nữ thần nêu ra những lợi ích mà những người thực hành nghi thức 
tắm bằng thảo dược có thể nhận được. Rõ ràng, việc thực hành nghi thức 
này không chỉ đem lại những lợi ích về mặt trí tuệ, hùng biện và giác ngộ 
thuần túy mà còn đưa đến cho người giải quyết những vấn đề có tính thực 
tiễn trong đời sống trần thế như chữa lành mọi bệnh tật, giải trừ các thiên 
tai, nguy nan, nghèo khổ trong cuộc sống, giúp con người ta có được một 
cuộc sống khỏe mạnh, trường thọ, giàu có, may mắn, nhiều phúc đức. 
Ở đó, chúng ta có thể thấy những lời Phật khen ngợi công đức của nữ 
thần Saraswati khi nữ thần đã đem lại sự giàu có, sự che chở cho những 
người đàn ông bằng những câu thần chú và sự chữa trị. 
Như vậy, nữ thần Saraswati đã hướng dẫn tín đồ cách thức thực hiện 
nghi thức tắm bằng thảo dược với những mục đích hết sức rõ ràng và 
thực tế. Trí tuệ ở đây không còn nằm ở Niết Bàn xa xôi hay thế giới Đại 
trí tuệ màu nhiệm đầy quyền năng mà con người khó với tới nữa, mà có 
thể được ứng dụng ngay trong cuộc sống trần thế để đem đến cho họ sức 
khỏe, tiền bạc, may mắn và hạnh phúc. 
- Nữ thần chiến tranh. Nếu như ở hai phần trên, hình tượng nữ thần 
Saraswati xuất hiện với hình ảnh của một vị thần hiền hòa với quyền 
năng đem lại trí tuệ, tài hùng biện, sức khỏe, tiền bạc, may mắn và hạnh 
phúc cho người thuyết pháp và các tín đồ, thì ở phần thứ ba này, hình ảnh 
nữ thần Saraswati có phần khác biệt, mang dáng dấp của một vị chiến 
thần. Qua bản kinh Phật đã đề cập đến Saraswati, có thể hình dung hình 
ảnh của nữ thần này như sau: 
- Nữ thần Saraswati được Kaundinya cầu nguyện và cầu xin sự giúp 
đỡ của nữ thần bởi theo Kaundinya: “nữ thần là con sư tử cái tốt nhất 
trong số các con sư tử cái”, “là phương tiện của đàn ông” và “được trang 
bị tám cánh tay”. Cần chú ý hoàn cảnh Kaundinya cầu nguyện là khi ông 
bị kẻ địch tấn công, song bản thân ông ta lại không phải là một chiến binh. 
Vì vậy, sự xuất hiện của nữ thần Saraswati ở đây là nhằm hỗ trợ 
Kaundinya chiến đấu với sức mạnh của một con “sư tử cái” với “tám 
cánh tay”. 
Nguyễn Anh Tuấn. Nữ thần Saraswati (Benzaiten) ... 103 
 103
- Bên cạnh sự công nhận sức mạnh như “sư tử” của nữ thần, bản dịch 
của Bảo Quý còn phác họa hình ảnh của nữ thần Saraswati: nữ thần xuất 
hiện trong hình dáng một con người với tám cánh tay. 
- Hình ảnh của nữ thần còn được miêu tả kỹ càng ở những vũ khí nữ 
thần cầm trong tám cánh tay, bao gồm: cung, tên, dao, rìu, giáo nhọn, 
bánh xe, dây thừng và kim cương chủy (vajra). Đây đều là những thứ vũ 
khí dùng trong chiến tranh. 
Như vậy, hình tượng nữ thần Saraswati ở đây mang tính chất của một 
vị thần chiến tranh. Song, điều đáng chú ý là chính hình tượng này đã 
được sử dụng làm cơ sở để sau này các nhà điêu khắc tượng của Trung 
Hoa và Nhật Bản tạo tượng cho nữ thần Biện Tài Thần (Trung Hoa) và 
Benzaiten (Nhật Bản) với hình dạng một vị nữ thần có tám cánh tay cầm 
tám loại vũ khí khác nhau của họ. Điều này ở Trung Hoa không thật rõ 
rệt vì việc thờ Biện Tài Thần không phát triển, song ở Nhật Bản thì rất rõ 
nét, bởi việc thờ nữ thần Benzaiten đã được dung hóa vào việc thờ Bảy vị 
phúc thần của dân tộc Nhật và có sức ảnh hưởng rộng rãi. 
Sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo sau khi đến Nhật Bản trong thời 
đại Asuka, Nara và sau này là Heian đã tạo điều kiện cho sự truyền bá 
rộng rãi của hai bản dịch kinh Suvarnaprabhāsa của Bảo Quý và của 
Nghĩa Tịnh, từ đó góp phần đưa hình tượng của nữ thần Saraswati đến 
gần hơn với người dân Nhật Bản giai đoạn này. Trong Nihon Shoki (Nhật 
Bản thư kỷ) có nhiều sự kiện cho thấy sự quan tâm truyền bá Phật giáo, 
mà cụ thể ở đây là kinh Suvarnaprabhāsa của chính quyền quân chủ Nhật 
Bản. Đó là năm 676, Thiên hoàng Temmu (Thiên Vũ) ra lệnh truyền bá 
Konkomyokyo (Kim Quang Minh Kinh) và Ninnokyo (Nhân Vương 
Kinh) khắp bốn phương. Bản dịch được sử dụng là của Bảo Quý3. 
Năm 680, kinh Kim Quang Minh đã được truyền bá rộng rãi trong 
cung và các chùa Phật giáo4. Năm 686, một trăm nhà sư đã đến cung điện 
để tụng niệm kinh Kim Quang Minh5. Năm 692, Nữ hoàng Jito (Trì 
Thống) ra lệnh truyền bá kinh Kim Quang Minh trong khắp kinh thành và 
bốn tỉnh lân cận thuộc kinh đô trước nạn lụt lớn6. Năm 694, Nữ hoàng 
Jito (Trì Thống) gửi 100 cuốn kinh Kim Quang Minh đến các tỉnh để 
tụng niệm trong tuần trăng đầu tiên của tháng 17. Năm 696, một lệnh 
tương tự về việc tụng niệm kinh Kim Quang Minh được ban hành8. Năm 
702, trước việc Thiên hoàng Mommu (Văn Vũ) lâm bệnh, kinh Kim 
Quang Minh đã được tụng niệm tại bốn tỉnh lân cận thuộc kinh đô để cầu 
104 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
 104
phúc cho Thiên hoàng9. Năm 703, kinh Kim Quang Minh được tụng 
niệm ở bốn ngôi đại tự ở Nara, gồm: chùa Dai’an (Đại An tự), chùa 
Yakushi (Dược Sư tự), chùa Gango (Nguyên Hưng tự) và chùa Gufuku 
(Hoằng Phúc tự)10. Năm 705, kinh Kim Quang Minh được tụng niệm ở 
năm ngôi đại tự ở Nara, gồm: chùa Dai’an (Đại An tự), chùa Yakushi 
(Dược Sư tự), chùa Gango (Nguyên Hưng tự), chùa Gufuku (Hoằng Phúc 
tự) và chùa Horyu (Pháp Long tự) để cầu nguyện cho những người dân 
chết vì hạn hán11. 
Năm 725, Thiên hoàng Shomu (Thánh Vũ) ra lệnh cho các nhà sư 
tụng niệm kinh Kim Quang Minh. Do bản dịch của Bảo Quý lúc này đã 
bị thất truyền nên các nhà sư đã thay thế bằng bản dịch của Nghĩa Tịnh 
với tên gọi Konkomyosaishookyo (Kim Quang Minh Tối Thắng Vương 
kinh)12. Năm 728, một quy định được đưa ra, yêu cầu toàn bộ những 
người có nguyện vọng được xuất gia theo Phật giáo đều phải học thuộc 
kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương. Kể từ đây, bản dịch của Nghĩa 
Tịnh đã trở thành phiên bản duy nhất của kinh Suvarnaprabhāsa tại Nhật 
Bản13. Năm 737, tăng ni ở tất cả các tỉnh được yêu cầu phải tụng niệm 
kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương 2 - 3 lần mỗi tháng và 700 nhà 
sư được mời vào trong cung, tụng niệm kinh Kim Quang Minh Tối 
Thắng Vương để cầu quốc thái dân an14. Năm 741, kinh Kim Quang 
Minh Tối Thắng Vương để tụng niệm trong phạm vi cả nước để cầu quốc 
thái dân an15. Năm 743, kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương được 
tụng niệm tại chùa Todai (Đông Đại tự) trong suốt 7 ngày 7 đêm để cầu 
chúc hạnh phúc cho hoàng gia, dân chúng và thái bình cho đất nước16. 
Năm 747, kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương được tụng niệm tại 
tất cả các ngôi đền ở kinh đô Nara trong vòng 7 ngày trước thảm hoạ 
động đất17. Năm 749, các nghi thức sám hối (keka 悔 過) được tiến hành 
trong suốt 7 ngày đầu tiên của năm và kinh Kim Quang Minh Tối Thắng 
Vương được tụng niệm tại tất cả các ngôi chùa trong cả nước trong thời 
gian này18. Năm 757, các tăng lữ cao cấp trong chùa Kokubun (Quốc 
Phân tự) tụng niệm kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương trong suốt 
7 ngày đầu tiên của năm19. 
Những sự kiện nêu trên cho thấy kinh Suvarnaprabhāsa sau khi được 
truyền vào Nhật Bản với hai bản dịch của Bảo Quý và Nghĩa Tịnh đã 
được giai cấp thống trị và giới tăng lữ tiếp nhận nồng nhiệt và trở thành 
một kinh điển quan trọng đối với Phật giáo thời kỳ Asuka và Nara. Qua 
đó, nữ thần Saraswati được biết đến một cách rộng rãi hơn và đó cũng 
Nguyễn Anh Tuấn. Nữ thần Saraswati (Benzaiten) ... 105 
 105
chính là tiền đề cho sự ra đời của việc thờ nữ thần Saraswati dưới tên gọi 
tiếng Nhật là Benzaiten tại Nhật Bản. 
2. Sự hình thành và phát triển của tục thờ nữ thần Benzaiten tại 
Nhật Bản 
Quá trình hình thành và phát triển tục thờ nữ thần Benzaiten tại Nhật 
Bản căn cứ vào các ghi chép trong lịch sử và tượng điêu khắc còn lưu giữ 
đến ngày nay, có thể chia thành hai thời kỳ chính: 
2.1. Thời kỳ từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIII 
Năm 724, những ghi chép đầu tiên về nữ thần Benzaiten xuất hiện 
trong một thư tịch cổ tường thuật lại giấc mộng của Thiên hoàng Shomu. 
Trong giấc mộng này, Thiên hoàng đã được nữ thần Mặt Trời 
(Amaterasu) ban cho lời sấm: 
Trong hồ của nước Oshu có một hòn đảo nhỏ. Vì đảo này là thánh địa của 
Biện Tài Thiên, nên hãy cho xây dựng tự viện [ở đây]. Nếu làm vậy, quốc 
gia sẽ được thái bình, ngũ cốc dồi dào, vạn dân sống sung túc, vui tươi20. 
Chính vì vậy, ngay sau đó, Thiên hoàng Shomu đã cho xây dựng ngôi 
chùa thờ nữ thần Benzaiten đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản tại hòn đảo 
nhỏ Chikubu trên hồ Biwa. Ngôi chùa này này chính là chùa Hogon (宝 
厳 寺)21. 
Năm 753, một ghi chép về nữ thần Benzaiten xuất hiện trong bức tranh 
minh họa kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương được vẽ bởi 22 họa sĩ 
trên tường của Shosoin (正 倉 院) trong chùa Todai (Đông Đại tự)22. 
Năm 754, một thư tịch khác của Shosoin ghi lại việc thỉnh cầu xây 
dựng một đàn thờ cho nữ thần Benzaiten. Lời thỉnh cầu này được chấp 
nhận và một đàn thờ nữ thần Benzaiten đã được xây dựng trong thời gian 
ngắn. Tuy nhiên, đến nay, đàn thờ này đã bị phá hủy và chỉ còn lại những 
mảnh vỡ với bút tích như sau: “Đại biện tài thiên nữ đàn  trường cửu 
xích, quảng cửu thốn - đông đại tự - thiên bình thắng bảo lục niên ngũ 
nguyệt tam nhật”. Bút tích trên đã khẳng định sự tồn tại của đàn thờ nữ 
thần Benzaiten tại chùa Todai vào năm Thiên Bình thứ 6 triều đại Thiên 
hoàng Kotoku (Hiếu Đức)23. 
Năm 764, trong một nghi thức sám hối với tên gọi Kichijo keka (Cát 
Tường Hối Quá) được tổ chức tại chùa Todai, các vị sư đã sử dụng tượng 
làm bằng đất sét của nữ thần Benzaiten và nữ thần Kichijoten (Cát Tường 
106 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
 106
Thiên). Hiện vật lưu lại đến nay chính là bức tượng của hai vị nữ thần tại 
Hokkedo (Pháp Hoa đường)24. 
Năm 780, sách Saidaijishizairukicho (Tây Đại tự tư tài lưu ký trướng) 
có ghi chép về sự tồn tại tranh vẽ các nữ thần Benzaiten và Kichijoten tại 
Shiodo (Tứ Vương đường) của ngôi chùa Saidai (Tây Đại tự) này. Tuy 
nhiên, đến nay những tranh vẽ này đã không còn25. 
Trong những năm 810 - 824 dưới thời Thiên hoàng Saga (Tha Nga), 
sách Kofukujiruki (Hưng Phúc tự lưu ký) có ghi chép về sự tồn tại tranh 
vẽ các vị thần, trong đó nữ thần Benzaiten tại Tokondo (Đông Kim 
đường) trong ngôi chùa Kofuku (Hưng Phúc tự) này26. 
Trong những năm 859 - 880 dưới thời Thiên hoàng Seiwa (Thanh 
Hòa) và Thiên hoàng Yozei (Dương Thành) xuất hiện một bức tranh vẽ 
hình hai thế giới Mandala trong đó có hình vẽ nữ thần Benzaiten tại Saiin 
(Tây viện) của Toji (Đông tự) thuộc Kyoto. Ở đây, nữ thần hiện lên trong 
pháp tướng Bodhisattva (Bồ Tát) ở tư thế ngồi, thân trên để trần, tay đánh 
đàn biwa (tỳ bà)27. 
Năm 951, một bức tranh nữ thần Benzaiten trong pháp tướng tương tự 
 ... thần có thể chỉ có hai cánh tay37. 
Trong pháp tướng có bốn cánh tay, nữ thần sẽ cầm trên tay bốn pháp khí 
gồm: một nhạc cụ giống cây đàn luýt gọi là veena, một vòng hoa mala, 
một bình nước và một cuốn kinh pustaka38. Còn trong pháp tướng có hai 
cánh tay, nữ thần sẽ chỉ cầm một nhạc cụ giống như cây đàn luýt. Mỗi 
pháp khí lại tượng trưng cho một quyền năng khác nhau của nữ thần: Cây 
đàn đại diện cho sức sáng tạo về khoa học và nghệ thuật; Cuốn kinh 
tượng trưng cho Vedas - quyền năng tuyệt đối và tri thức; Bình nước 
tượng trưng cho nguồn nước và khả năng thanh tẩy cái xấu xa, ô trọc và 
vô minh; Vòng hoa tượng trưng cho sự suy tưởng và tâm linh. 
Nữ thần Saraswati thường ngồi trên tòa sen hoặc ngồi không, bên 
cạnh có một linh thú là Thiên nga hansa hoặc Công mayura. Thiên nga 
tượng trưng cho sự thanh tẩy và cuộc sống vĩnh hằng, trong khi Công đại 
diện cho sự rực rỡ, huy hoàng và các điệu múa. Trong nhiều bức tranh, 
Saraswati còn được vẽ ngồi bên một dòng sông, gắn liền với nguồn gốc 
là thần sông của nữ thần. 
Trong Thần đạo, nữ thần Benzaiten có hai pháp tướng khác nhau: 
Nguyễn Anh Tuấn. Nữ thần Saraswati (Benzaiten) ... 111 
 111
Pháp tướng thứ nhất là một người phụ nữ xinh đẹp có hai cánh tay và 
cầm một cây đàn. Tuy nhiên, cây đàn này không phải là đàn veena truyền 
thống của Ấn Độ mà là đàn biwa (tỳ bà) có nguồn gốc từ Trung Hoa. 
Pháp tướng thứ hai là một người phụ nữ xinh đẹp có tám cánh tay, 
mỗi cánh tay cầm một pháp khí khác nhau. Trong các bức tượng và tranh 
vẽ nữ thần trước thế kỷ XIV, toàn bộ pháp khí nữ thần cầm trên tay đều 
là vũ khí: dao, kim cương chủy, giáo dài, rìu, dây thừng, bánh xe, cung, 
tên. Những pháp khí này hoàn toàn khác với bốn loại pháp khí liên quan 
trực tiếp đến trí tuệ - tri thức như pháp tướng nữ thần Saraswati có bốn 
cánh tay trong Hindu giáo. 
Trong cả hai dạng pháp tướng, nữ thần Benzaiten thường ngồi không 
hoặc trên tòa sen, không có linh thú bên cạnh. 
Từ thế kỷ XIV về sau, trên tay nữ thần xuất hiện “như ý bảo châu” (如 
意 宝珠 ngọc như ý). Đồng thời, cũng từ thế kỷ XIV, pháp tướng này còn 
có sự xuất hiện của thần mùa màng Uga ở trên đầu nữ thần. Những chi 
tiết này đã thể hiện rõ tính chất của một phúc thần. 
3.2. Về tính chất 
Trong Hindu giáo, tính chất của nữ thần Saraswati thể hiện ở các điểm sau: 
Thứ nhất, nữ thần tồn tại với tư cách là vợ của thần sáng tạo Brahma 
và thường xuất hiện một cách độc lập. Trong một số trường hợp, nữ thần 
còn xuất hiện với tư cách là một trong ba nữ thần - vợ của ba vị thần chủ 
thuộc Hindu giáo (Brahma, Vishnu, Shiva). 
Thứ hai, nữ thần tượng trưng cho trí tuệ, tài hùng biện. Chữ “tài” (tài 
năng) trong tên của nữ thần trong những bản dịch kinh Suvarnaprabhāsa 
bằng Hán văn cho thấy tính chất này vẫn được bảo tồn khi hình tượng nữ 
thần trong kinh được truyền bá đến Trung Hoa và trong thời kỳ đầu ở 
Nhật Bản. Ngoài ra, hình ảnh nữ thần đánh đàn cũng cho thấy Saraswati 
còn là nữ thần bảo trợ cho nghệ thuật. 
Trong Thần đạo, tính chất của nữ thần Benzaiten thể hiện ở các điểm sau: 
Thứ nhất, nữ thần tồn tại với tư cách là một nữ thần độc lập, không có 
quan hệ hôn nhân hay dòng tộc với bất kỳ vị thần nào khác. Trong thời 
kỳ đầu, nữ thần thường được thờ chung với nữ thần Kichijoten (Cát 
Tường Thiên), sau này được dung hòa vào Bảy vị phúc thần. 
Thứ hai, nữ thần với tư cách là một vị phúc thần đem lại may mắn, 
phúc đức, tài lộc cho con người. Tuy nhiên, những phúc lành mà nữ thần 
112 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
 112
ban cho con người có nét khác biệt trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. 
Trước thế kỷ XIV, nữ thần xuất hiện cùng nữ thần Kichijoten trong các 
nghi lễ sám hối của Phật giáo. Cuối thế kỷ XVI, nữ thần được kỳ vọng sẽ 
mang đến phúc lành cho những chiến binh trong các trận đánh. Từ thế kỷ 
XVII, nữ thần hòa nhập với các vị phúc thần trong Bảy vị phúc thần và 
được tin rằng sẽ đem lại tài lộc cho người cầu nguyện. Điều này được thể 
hiện không chỉ trong diện mạo của nữ thần (qua các loại pháp khí và sự 
xuất hiện của thần Uga trên đầu) mà còn thể hiện ở cả tên gọi: chữ “tài” (
才) trong tài năng, trí tuệ, tài hùng biện của hình tượng gốc đã biến thành 
chữ “tài” (財) trong “tiền tài”. Mặt khác, có thể thấy, vai trò của một nữ 
thần bảo hộ cho nghệ thuật của Benzaiten ở Nhật Bản không thực sự rõ rệt. 
Qua những nét so sánh như trên, chúng tôi rút ra một vài nhận xét về 
sự bản địa hóa hình tượng cũng như việc thờ nữ thần Saraswati 
(Benzaiten) tại Nhật Bản: 
Một là, quá trình bản địa hóa đã diễn ra mạnh mẽ trên cả hai phương 
diện: ngoại hình và tính chất, song vẫn giữ được những nét nguyên thủy 
ban đầu: 
Về ngoại hình: Trong Thần đạo, pháp tướng nữ thần Benzaiten với hai 
cánh tay đánh đàn vẫn còn được lưu giữ. 
Về tính chất: Trong Thần đạo, nữ thần Benzaiten vẫn có quyền năng 
đem lại những điều may mắn, tốt lành cho con người, tuy nhiên sự ban 
phúc về mặt tài vận có phần nổi trội hơn. 
Hai là, quá trình bản địa hóa đã được diễn ra theo khuynh hướng đáp 
ứng nhu cầu tôn giáo của người Nhật: 
Trong thời kỳ đầu, với tư cách là một nữ thần có nguồn gốc trong kinh 
Phật, việc thờ cúng nữ thần Benzaiten là nhằm phục vụ cho hành vi sám 
hối tội lỗi của tín đồ Phật giáo. 
Tiếp đến, trong thời kỳ Azuchi - Momoyama cuối thế kỷ XV, việc thờ 
nữ thần Benzaiten phát triển mạnh mẽ dưới sự ủng hộ của giai cấp võ sĩ - 
chiến binh với niềm tin nữ thần sẽ ban cho họ sức mạnh và thắng lợi 
trong các cuộc chiến. Điều này xuất phát từ bối cảnh chiến tranh loạn lạc 
của thời đại. 
Kể từ thời kỳ Edo, sự phát triển của kinh tế thành thị Nhật Bản, đặc biệt 
là thương mại hàng hóa đã khiến cho kỳ vọng, niềm tin của người cầu 
nguyện về quyền năng của nữ thần thiên về khía cạnh tiền bạc, tài vận. 
Nguyễn Anh Tuấn. Nữ thần Saraswati (Benzaiten) ... 113 
 113
4. Kết luận 
Tục thờ nữ thần Benzaiten tại Nhật Bản đã trải qua 14 thế kỷ hình 
thành và phát triển trên cơ sở của quá trình bản địa hóa hết sức mạnh mẽ. 
Từ một nữ thần đại diện cho trí tuệ và nghệ thuật trong Hindu giáo, hình 
tượng Saraswati đã được người Nhật tiếp thu, cải biến cả về ngoại hình 
và tính chất để trở thành một nữ phúc thần Benzaiten có quyền năng đem 
lại may mắn, phúc đức, tài lộc cho con người. Quá trình bản địa hóa này 
đã diễn ra theo khuynh hướng đáp ứng những nhu cầu tôn giáo của người 
Nhật trong những thời kỳ lịch sử cụ thể. Đây là một sự phát triển hợp quy 
luật và có tính tiêu biểu trong lịch sử giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các 
nền văn hóa nói chung và giữa văn hóa Ấn Độ - Nhật Bản nói riêng./. 
CHÚ THÍCH: 
1 W.G. Aston (transl., 1896), Nihongi: Chronicles of Japan from the earliest times 
to A.D. 697, Volume 2, Kegan Paul, Trench, Trubner & Co., Limited, United 
Kingdom, p. 335. 
2 Cụ thể về cách thức tắm bằng thảo dược, do dung lượng bài viết hạn chế nên 
người viết xin được tóm tắt lại như sau: Đầu tiên người ta sẽ hái các loại thảo 
mộc rồi nghiền, trộn và đem phơi. Một khoảng đất nhỏ sẽ được phủ bằng phân 
bò để làm nơi dựng bồn tắm. Hoa được rải xung quanh. Các chén vàng bạc được 
đổ đầy mật ong và đồ uống. Bốn người đàn ông sẽ đứng túc trực bên bồn tắm 
trong khi bốn cô gái đồng trinh sẽ cầm bình nước hoặc lọ hoa. Nhạc sẽ nổi lên. 
Bồn tắm được đổ đầy những thứ dung dịch có hương thơm. Người tắm sẽ vừa 
làm sạch thân thể vừa tụng niệm thần chú. Sau đó, toàn bộ đồ ăn và thức uống sẽ 
được đổ xuống dòng sông hay hồ ở gần đó. Cuối cùng, người tắm mặc quần áo 
mới và bước vào một căn phòng sạch sẽ, nơi ở đó thầy tu sẽ hướng dẫn cách bày 
tỏ lời thề của mình. 
3 W.G. Aston (transl., 1896), Nihongi: Chronicles of Japan from the earliest times 
to A.D. 697, Volume 2, Kegan Paul, Trench, Trubner & Co., Limited, United 
Kingdom: 335. 
4 W.G. Aston (transl., 1896), Nihongi: Chronicles of Japan from the earliest times 
to A.D. 697, sđd: 346. 
5 W.G. Aston (transl., 1896), Nihongi: Chronicles of Japan from the earliest times 
to A.D. 697, sđd: 378. 
6 W.G. Aston (transl., 1896), Nihongi: Chronicles of Japan from the earliest times 
to A.D. 697, sđd: 408. 
7 W.G. Aston (transl., 1896), Nihongi: Chronicles of Japan from the earliest times 
to A.D. 697, sđd: 416. 
8 W.G. Aston (transl., 1896), Nihongi: Chronicles of Japan from the earliest times 
to A.D. 697, sđd: 421. 
9 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: 
Taiho 2nd year, December 13th. 
114 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
 114
10 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: 
Taiho 3rd year, June 13th. 
11 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: 
Keiun 2nd year, April 3rd. 
12 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: Jinki 
2nd year, July 17th. 
13 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: Jinki 
5th year, December 28th. 
14 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: 
Tenpyō 9th year, October 26th. 
15 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: 
Tenpyō 13th year, March 24th. 
16 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: 
Tenpyō 15th year, January 13th. 
17 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: 
Tenpyō 19th year, November 7th. 
18 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: 
Tenpyō-shōhō 2nd year, January 1st. 
19 Kuroita Katsumi (ed., 1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan: 
Tenpyō-hōji, July 28th. 
20 Michael Pye (2013), Exploring Religions in Motion, Walter de Gruyter, 
Germany: 282. 
21 Chùa Hogon và đền Tsukubusuma (都 久 夫 須 麻 神 社) nằm trong quần thể 
kiến trúc thờ nữ thần Benzaiten trên đảo Chikubu. Hai cơ sở tôn giáo này vốn là 
một thể thống nhất trong khoảng thời gian từ thời Heian cho đến hết thời Edo 
trên cơ sở chính sách “Thần Phật tập hợp” (神 仏 習 合). Song đến thời Minh 
Trị, do chính sách “Thần Phật phân ly” (神 仏 分 離), chúng đã bị tách ra làm 
hai, mỗi bộ phận phục vụ cho hoạt động của một loại hình tôn giáo riêng: Chùa 
thờ Phật (Hogon) trong khi Thần xã thờ Thần (Tsukubusuma). 
22 Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, Ph.D. Thesis, University 
of Toronto, Canada: 306. 
23 Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, sđd: 306. 
24 Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, sđd: 306.. 
25 Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, sđd: 306. 
26 Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, sđd: 306. 
27 Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, sđd: 306. 
28 Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, sđd: 306. 
29 Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, sđd: 306. 
30 Andrew Mark Watsky (2004), Chikubushima: Deploying the Sacred Arts in 
Momoyama Japan, University of Washington Press, United States: 231. 
31 Andrew Mark Watsky (2004), Chikubushima: Deploying the Sacred Arts in 
Momoyama Japan, University of Washington Press, United States: 231. 
Nguyễn Anh Tuấn. Nữ thần Saraswati (Benzaiten) ... 115 
 115
32 Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, Ph.D. Thesis, University 
of Toronto, Canada: 307 - 308. 
33 Andrew Mark Watsky (2004), Chikubushima: Deploying the Sacred Arts in 
Momoyama Japan, University of Washington Press, United States: 233. 
34 Andrew Mark Watsky (2004), Chikubushima: Deploying the Sacred Arts in 
Momoyama Japan, University of Washington Press, United States: 233. 
35 Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, Ph.D. Thesis, University 
of Toronto, Canada: 292. 
36 https://ja.wikipedia.org/wiki/弁才天, truy cập 15/07/2015. 
37 Griselda Pollock and Victoria Turvey-Sauron (2008), The Sacred and the 
Feminine: Imagination and Sexual Difference, I. B. Tauris: 144 - 147. 
38 Kinsley, David (1988), Hindu Goddesses: Vision of the Divine Feminine in the 
Hindu Religious Traditions, University of California Press: 55 - 64. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Than Tun (1976), “Saraswati of Burma”, Southeast Asian Studies, 14 (3): 433 - 
441. 
2. Patrick Hein (2014), The Goddess and the Dragon: A Study on Identity Strength 
and Psychosocial Resilience in Japan, Cambridge Scholars Publishing, United 
Kingdom. 
3. Jeremy Roberts (2010), Japanese Mythology A to Z, Second Edition, Chelsea 
House Publishing, United States. 
4. Michael Jordan (2004), Dictionary of Gods and Goddesses, Second Edition, 
Facts On File, Inc., United States. 
5. Catherine Ludvik (2001), From Sarasvati to Benzaiten, Ph.D. Thesis, University 
of Toronto, Canada. 
6. Patrick Hein (2014),“Encounters with the Goddess: A Critical Analysis of 
Travel: Essays of Foreign Visitors to Meiji Era Enoshima”, Journal of the 
Ochanomizu University English Society. 
7. W.G. Aston (1896), Nihongi: Chronicles of Japan from the earliest times to A.D. 
697, Volume 2, Kegan Paul, Trench, Trubner & Co., Limited, United Kingdom. 
8. 金光明經》(電子版),中華電子佛典協會,國立台灣大學。 
9. 金光明最勝王經》(電子版),中華電子佛典協會,國立台灣大學。 
10. Emmerick. R.E. (transl.) (1996), The Sutra of Golden Light: Being a Translation 
of the Suvarṇaprabhāsasutra, 3rd revised edition, Pali Text Society, United 
Kingdom. 
11. Kuroita Katsumi (ed.) (1983), Shoku Nihongi, Yoshikawa Kobunkan, Japan. 
12. Constance A. Jones and James D. Ryan (2007), Encyclopedia of Hinduism, Facts 
On File, Inc., United States. 
13. Andrew Mark Watsky (2004), Chikubushima: Deploying the Sacred Arts in 
Momoyama Japan, University of Washington Press, United States. 
14. Griselda Pollock and Victoria Turvey-Sauron (2008), The Sacred and the 
Feminine: Imagination and Sexual Difference, I.B. Tauris, United Kingdom. 
116 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
 116
15. Kinsley, David (1988), Hindu Goddesses: Vision of the Divine Feminine in the 
Hindu Religious Traditions, University of California Press, United States. 
16. Michael Pye (2013), Exploring Religions in Motion, Walter de Gruyter, 
Germany. 
Abstract 
WORSHIPPING OF SARASWATI (BENZAITEN) IN JAPAN 
- A HISTORY OF ESTABLISHMENT, DEVELOPMENT AND 
LOCALIZATION 
Being one of the great civilizations in Asia and one of the four major 
ancient civilizations existing up to the present, Indian civilization has 
profoundly influenced to numerous countries in East Asia and Southeast 
Asia. Throughout history, the acculturation and integration between 
Indian and Asian cultures such as China, Vietnam, Japan, Korea, etc 
has bequeathed the unique cultural identities. In Japan, the cultural 
exchange with India through Korea and China was also not an exception. 
Various cultural factors including religion originated from India which 
were transmitted to Japan and they were integrated into the specific 
conditions of this country. Among these cultural factors, it needs to 
mention the history of introducing, expanding and localizing the Hindu 
Gods in Japan. This article focuses on a Hindu goddess Saraswati (known 
as Benzaiten in Japanese culture) in order to study the history of 
worshipping the Saraswati goddess in Japan and its indigenous 
characteristics. 
Keywords: Benzaiten, Saraswati, Shinto, Hinduism, localization. 

File đính kèm:

  • pdfnu_than_saraswati_benzaiten_o_nhat_ban_qua_trinh_hinh_thanh.pdf