Phân biệt nghĩa và ý nghĩa trong ngôn ngữ học hiện đại

Tóm tắt: Trong nhiều ngôn ngữ có sự song tồn của cặp thuật ngữ mà khi dịch sang tiếng Việt

thường được dịch là “nghĩa” hoặc “ý nghĩa” (tiếng Anh: meaning và sense; tiếng Pháp:

signification và sens; tiếng Đức: Bedeutung và Sinn; tiếng Nga: значение và смысл). Trước đây,

người ta thường đồng nhất cái được biểu đạt (sở biểu) với nghĩa cho nên những cặp thuật ngữ trên

đây có thể được dùng lẫn lộn, thay thế lẫn nhau. Ngôn ngữ học hiện đại phân biệt nghĩa (meaning)

và ý nghĩa (sense) của đơn vị ngôn ngữ. Ý nghĩa là cái sở biểu của đơn vị ngôn ngữ, còn nghĩa là

mối quan hệ giữa năng biểu và sở biểu. Như thế, nghĩa của từ là quan hệ của từ với cái gì đó nằm

ngoài bản thân nó. Vì từ (cũng như các đơn vị ngôn ngữ khác) có quan hệ rất đa dạng với các hiện

tượng khác cho nên, nghĩa của từ là một hiện tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản

hơn như nghĩa sở biểu, nghĩa sở thị, nghĩa sở chỉ, nghĩa sở dụng, nghĩa ngữ pháp.

pdf 13 trang yennguyen 7960
Bạn đang xem tài liệu "Phân biệt nghĩa và ý nghĩa trong ngôn ngữ học hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân biệt nghĩa và ý nghĩa trong ngôn ngữ học hiện đại

Phân biệt nghĩa và ý nghĩa trong ngôn ngữ học hiện đại
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3 (2014) 1-13  
 1
NGHIÊN CỨU 
Phân biệt nghĩa và ý nghĩa trong ngôn ngữ học hiện đại1 
Nguyễn Thiện Giáp* 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam 
 Nhận bài ngày 16 tháng 6 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 9 năm 2014 
Tóm tắt: Trong nhiều ngôn ngữ có sự song tồn của cặp thuật ngữ mà khi dịch sang tiếng Việt 
thường được dịch là “nghĩa” hoặc “ý nghĩa” (tiếng Anh: meaning và sense; tiếng Pháp: 
signification và sens; tiếng Đức: Bedeutung và Sinn; tiếng Nga: значение và смысл). Trước đây, 
người ta thường đồng nhất cái được biểu đạt (sở biểu) với nghĩa cho nên những cặp thuật ngữ trên 
đây có thể được dùng lẫn lộn, thay thế lẫn nhau. Ngôn ngữ học hiện đại phân biệt nghĩa (meaning) 
và ý nghĩa (sense) của đơn vị ngôn ngữ. Ý nghĩa là cái sở biểu của đơn vị ngôn ngữ, còn nghĩa là 
mối quan hệ giữa năng biểu và sở biểu. Như thế, nghĩa của từ là quan hệ của từ với cái gì đó nằm 
ngoài bản thân nó. Vì từ (cũng như các đơn vị ngôn ngữ khác) có quan hệ rất đa dạng với các hiện 
tượng khác cho nên, nghĩa của từ là một hiện tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản 
hơn như nghĩa sở biểu, nghĩa sở thị, nghĩa sở chỉ, nghĩa sở dụng, nghĩa ngữ pháp. 
Từ khóa: Nghĩa, ý nghĩa, nghĩa sở chỉ, nghĩa sở thị, nghĩa sở biểu, nghĩa sở dụng, nghĩa liên tưởng, 
nghĩa cấu trúc, nghĩa ngữ pháp, nghĩa hàm chỉ, nghĩa khu biệt, nghĩa biểu cảm, nghĩa phong cách, 
nghĩa từ vựng, ý liên tưởng. 
Trong nhiều ngôn ngữ đều có sự song tồn 
của cặp thuật ngữ mà khi dịch sang tiếng Việt 
thường được dịch là “nghĩa” hoặc “ý nghĩa”:*1 
Tiếng Anh: meaning và sense 
Tiếng Pháp: signification và sens 
Tiếng Đức: Bedeutung và Sinn 
Tiếng Nga: значение và смысл 
F. de Saussure được coi là người đặt nền 
móng cho ngôn ngữ học hiện đại. Ông đã khám 
_______ 
* ĐT.: 84-917879047 
 Email: nguyenthiengiap@yahoo.com.vn 
1 Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học 
và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 
VII2.1-2012.06. 
phá thực chất của ngôn ngữ là một hệ thống tín 
hiệu. Ông viết: “Dấu hiệu ngôn ngữ kết liền 
thành một không phải một sự vật với một tên 
gọi, mà là một khái niệm với một hình ảnh âm 
thanh. Hình ảnh này không phải là cái âm vật 
chất, một vật thuần vật lí, mà là dấu vết tâm lí 
của cái âm đó, là cái biểu tượng mà các giác 
quan của ta cung cấp cho ta về cái âm đó, nó 
thuộc cảm quan, và nếu đôi khi ta có gọi nó là 
“vật chất” thì chỉ với ý nghĩa đó và để đối lập 
với thành phần kia của sự liên hệ, tức là với 
khái niệm, thường trừu tượng hơn” [1: 138, 
139]. Saussure đã biểu hiện dấu hiệu ngôn ngữ 
là một thực thể tâm lí có hai mặt bằng hình vẽ 
sau: 
N.T. Giáp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3 (2014) 1-13  
2 
Ông đề nghị thay “khái niệm” bằng “sở 
biểu” và thay “hình ảnh âm thanh” bằng “năng 
biểu” vì hai thuật ngữ này có cái ưu thế là nêu 
rõ được sự đối lập giữa hai vế này với nhau và 
với cái tổng thể. Như vậy, theo quan điểm của 
Saussure, mỗi tín hiệu là cái tổng thể do sự kết 
hợp giữa năng biểu và sở biểu. Sở biểu hay cái 
được biểu đạt chính là ý nghĩa (sense) của tín 
hiệu. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu trong 
đó điều cốt yếu duy nhất là sự kết hợp giữa ý 
nghĩa với hình ảnh âm thanh, và trong đó, hai 
bộ phận của tín hiệu đều có tính chất tâm lí như 
nhau. 
Hạn chế của F. de Saussure trong quan 
niệm về nghĩa là đã không chú ý đến mối quan 
hệ của ngôn ngữ với thực tại khách quan. Mỗi 
ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu được dùng để 
thể hiện các đối tượng và các sự tình trong thế 
giới. Do đó, một bình diện của nghĩa là quan hệ 
giữa các tín hiệu ngôn ngữ với các sự vật hoặc 
sự tình có thực mà chúng ta dùng các tín hiệu 
này để miêu tả. Ngôn ngữ truyền bá những 
thông tin về thế giới quanh ta. Chúng ta có thể 
quy chiếu vào những con người, những địa 
điểm, những đối tượng cụ thể và những khái 
niệm trừu tượng. Chúng ta cũng có thể xác 
nhận những sự vật đó có những đặc tính nhất 
định hoặc có quan hệ nhất định với các sự vật 
khác. Bằng cách dùng các câu của một ngôn 
ngữ, một người có thể mở rộng kiến thức về thế 
giới của một người khác. Do đó, bình diện này 
của nghĩa chính là nội dung thông báo 
(information content): Ngôn ngữ nói cho ta 
biết cái gì về thế giới. 
Người ta gọi tên mối quan hệ giữa các yếu 
tố ngôn ngữ với các sự vật, biến cố, hành động 
và tính chất mà chúng thay thế là quy chiếu 
(reference). Quy chiếu là dấu hiệu đầu tiên thể 
hiện quan hệ giữa hoàn cảnh giao tiếp với diễn 
ngôn. Sự quy chiếu nhất thiết mang theo nó các 
tiền đề về sự tồn tại phát sinh từ những kinh 
nghiệm trực tiếp của ta về các đối tượng trong 
thế giới vật chất. Nói rằng một từ hay một đơn 
vị ngôn ngữ nào đó quy chiếu một đối tượng 
tức là nói rằng vật quy chiếu của nó là một đối 
tượng có thực, như khi ta nói rằng những con 
người, động vật và đồ vật cụ thể tồn tại và trên 
nguyên tắc có thể miêu tả các đặc tính vật chất 
của đối tượng đang xét. Có thể coi khái niệm 
“tồn tại vật chất” là cơ sở để định nghĩa mối 
quan hệ ngữ nghĩa của quy chiếu. Sự tồn tại là 
tiền đề của quy chiếu. Cần lưu ý là khi nói một 
số đơn vị từ vựng quy chiếu những đối tượng 
và những đặc tính của đối tượng ở ngoài ngôn 
ngữ thì không phải là giả định rằng tất cả các 
đối tượng được chỉ ra bằng một từ cụ thể làm 
thành một lớp tự nhiên mà chúng cùng thuộc 
vào lớp đó, cùng tập trung vào một từ ngữ là do 
quy ước được ngầm chấp nhận của cộng đồng 
ngôn ngữ. Sự quy chiếu của một đơn vị từ vựng 
cũng không cần phải thật chính xác và đầy đủ. 
Thường thường các ranh giới quy chiếu của các 
đơn vị từ vựng là không xác định và có tính võ 
đoán. Chẳng hạn, người ta không thể xác định 
ranh giới chính xác giữa cái sở chỉ của gò và 
núi, của từ xanh và lục v.v. Một đặc trưng của 
ngôn ngữ là bằng các từ ngữ, nó đã phạm trù 
hóa thế giới và vạch ra các ranh giới một cách 
võ đoán. Các ranh giới quy chiếu tuy võ đoán 
N.T. Giáp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3 (2014) 1-13  
3
và không xác định, nhưng điều này không dẫn 
đến hiểu lầm vì khi cần thiết người ta có thể 
dùng các hệ thống khác để xác định. 
Ngôn ngữ được dùng để nói về những cái 
trong thế giới. Rất nhiều từ có thể được dùng để 
thay thế hoặc quy chiếu các đối tượng hoặc 
quan hệ thực có trong thế giới. Do đó dường 
như có lí để coi cái thực có mà một từ quy 
chiếu vào – tức là sở chỉ (referent) của nó là 
một bình diện của nghĩa từ. 
Không phải ngẫu nhiên một số người cho 
nghĩa của từ là sự vật hay hiện tượng do từ biểu 
 thị [2 ]. Chẳng hạn, theo quan điểm này, nghĩa 
của từ «nhà» là bản thân cái nhà có trong thực 
tế, nghĩa của từ «đi», từ «đẹp», v.v. là bản thân 
hành động, tính chất tương ứng. 
C.K. Ogden và I.A. Richards trong tác 
phẩm The meaning of meaning. A study of the 
influence of language upon thought and the 
science of symbolis [3] đã đề xuất một sơ đồ gọi 
là “tam giác nghĩa” như sau: 
Trong sơ đồ tam giác nghĩa này, một đỉnh là 
biểu hiệu (symbol), một đỉnh là tư duy 
(thought) hoặc quy chiếu (reference) và một 
đỉnh là sở chỉ (referent). 
 Sở chỉ (referent) của một biểu hiệu là một 
sự vật được ghi nhận nhờ cách dùng biểu hiệu 
này trong một tình huống phát ngôn cụ thể. Có 
thể nói, sở chỉ là đối tượng mà từ biểu thị, gọi 
tên. Sở dĩ gọi cái đối tượng được gợi ra trong 
mỗi phát ngôn cụ thể là cái sở chỉ vì quan hệ 
giữa từ và đối tượng là quan hệ quy chiếu. 
Trong câu nói các từ ngữ mới có thể có sở chỉ, 
tức là được dùng để trực tiếp chỉ một đối tượng 
cụ thể. 
Quan hệ giữa biểu hiệu và tư duy là quan hệ 
biểu trưng; quan hệ giữa tư duy hay sự quy 
chiếu với sở chỉ là quan hệ quy chiếu; quan hệ 
giữa biểu hiệu với sở chỉ là quan hệ thay thế 
hay gọi tên. Biểu hiệu không có quan hệ trực 
tiếp với sở chỉ mà quan hệ với sở chỉ thông qua 
tư duy. Vì thế cạnh nối biểu hiệu với sở chỉ các 
ông dùng vạch đứt đoạn chứ không dùng vạch 
liền. 
John Lyons [4] chấp nhận quan niệm truyền 
thống coi “khái niệm là nghĩa của từ”, nhưng để 
tránh hiểu lầm nghĩa ở ngoài từ, ông cải tiến sơ 
đồ tam giác nghĩa như sau: 
N.T. Giáp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3 (2014) 1-13  
4 
Trong sơ đồ này, một đỉnh là hình thức (của 
từ), một đỉnh là nghĩa (khái niệm) và một đỉnh 
là sở chỉ. Ông coi từ là biểu hiệu (symbol), gồm 
hai phần là hình thức2 và nghĩa. Ông giải thích: 
“Hình thức của từ có thể nói là “biểu nghĩa” 
cho cả “khái niệm” mà các “sự vật” được gộp 
vào đó (bằng sự “trừu tượng” khỏi các đặc tính 
“ngẫu nhiên” của chúng) và cả bản thân các “sự 
vật” đó nữa” [4: 635]. 
Theo quan điểm tín hiệu học, hình thức (của 
từ) là cái biểu đạt của khái niệm (sở biểu); hình 
thức của từ với sở biểu của nó lại là cái biểu đạt 
của sự vật mà từ biểu thị; trong những phát 
ngôn cụ thể toàn bộ tam giác ngữ nghĩa còn có 
thể là cái biểu đạt của một sự vật khác, một sự 
vật mới. Như vậy, cái được biểu đạt của tín hiệu 
ngôn ngữ không chỉ là sở biểu, tức khái niệm về 
sự vật mà từ biểu thị, mà còn là bản thân các sự 
vật nữa. 
Nếu quan niệm cái được biểu đạt (khái 
niệm và sự vật mà đơn vị ngôn ngữ biểu thị) 
của đơn vị ngôn ngữ là nghĩa của đơn vị ngôn 
ngữ ấy thì việc dùng lẫn lộn các thuật ngữ nghĩa 
và ý nghĩa, meaning và sense, signification và 
sens, Bedeutung và Sinn, значение và смысл 
cũng không thành vấn đề. 
_______ 
2 Lưu ý là: trong những cải biến khác của tam giác nghĩa, 
Ju.X. Xtepanov gọi đỉnh này là “từ ngữ âm”; Đỗ Hữu 
Châu thì thay bằng “từ trừu tượng” [5]. 
Tuy nhiên, ngôn ngữ học hiện đại đã chứng 
minh, nghĩa của đơn vị ngôn ngữ không thể là 
một thực thể, một bản chất nào đó (khái niệm, 
sự vật) mà phải là quan hệ. 
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, 
chức năng cơ bản của nó là làm phương tiện 
giao tiếp của con người. Ngôn ngữ phải có tính 
vật chất, nếu không là vật chất thì ngôn ngữ 
không thể làm phương tiện giao tiếp bởi vì 
ngôn ngữ có là vật chất thì con người mới lĩnh 
hội được. Tính vật chất của ngôn ngữ thể hiện ở 
chỗ nó tồn tại khách quan trong lời nói (lời nói 
miệng cũng như lời viết). 
Tín hiệu bao giờ cũng có tính hai mặt: cái 
biểu đạt và cái được biểu đạt. Tín hiệu chỉ là tín 
hiệu khi nó có nghĩa. Các đơn vị ngôn ngữ cũng 
có tính hai mặt như vậy. 
Nếu coi nghĩa của từ là bản thân cái đối 
tượng thực tế mà từ biểu thị thì sẽ dẫn đến 
nhiều mâu thuẫn. Ngôn ngữ thì tồn tại trong lời 
nói, nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ tồn tại trong 
thực tế. Phải chăng ngữ âm kết hợp với thực tế 
khách quan mới tạo thành ngôn ngữ? Như vậy, 
hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ dường như tách 
rời nhau và cả hai mặt đều có tính vật chất cả, 
chứ quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu không 
còn là quan hệ giữa hình thức và nội dung nữa. 
Đồng thời, nếu thừa nhận, nghĩa của từ là sự 
vật, hiện tượng do từ biểu thị thì khi ta nói, ta 
N.T. Giáp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3 (2014) 1-13  
5
cười, ta đichính là ta thực hiện các nghĩa của 
các từ nói, cười, đi chứ không phải là ta sản 
sinh ra những hoạt động, những quá trình rành 
rọt. Nếu nghĩa của các từ người, bò...là bản thân 
con người, con bò thì chúng ta sẽ đi đến một 
kết luận vô lí là: nghĩa của những từ này có thể 
bị giết, bị sưng phổi, bị cảm lạnh, v.v. 
Coi nghĩa của từ là những hiện tượng tâm lí 
tồn tại trong ý thức của con người cũng gặp 
nhiều mâu thuẫn: ngôn ngữ thì tồn tại trong lời 
nói và là hiện tượng vật chất, trong khi đó, 
nghĩa của đơn vị ngôn ngữ lại không tồn tại 
trong lời nói mà tồn tại trong ý thức, có quan hệ 
với các hiện tượng tinh thần. Để tránh mâu 
thuẫn này, việc coi cả nghĩa của đơn vị ngôn 
ngữ lẫn bản thân ngôn ngữ đều tồn tại trong ý 
thức, đều thuộc vào số các hiện tượng tâm lí, 
như F. Saussure đã làm, cũng không được bởi 
vì, như trên đã nói, muốn làm phương tiện giao 
tiếp ngôn ngữ không thể không có tính vật chất. 
Thừa nhận “ngôn ngữ là sự thống nhất của mặt 
vật chất và tinh thần” [6: 275], trong đó, mặt 
vật chất là những tín hiệu tồn tại khách quan 
bên ngoài con người, còn mặt tinh thần là 
những nghĩa tồn tại dưới dạng tư tưởng với tư 
cách là một hiện tượng của nhận thức trong óc 
mỗi một người thuộc xã hội nào đó, như quan 
điểm của V.M. Solncev cũng chưa thỏa đáng. 
I.S. Barkhudarov [7] đã chỉ ra rằng quan niệm 
như thế hoàn toàn không giải thích được mặt 
vật chất và mặt tinh thần trong ngôn ngữ liên hệ 
nhau bằng cách nào. Rốt cuộc, sự đối lập giữa 
vật chất và tinh thần không có tính chất tuyệt 
đối (tinh thần cũng có bản thể vật chất ở não). 
Đồng thời, nếu ngữ âm của từ tồn tại trong lời 
nói còn nghĩa của từ tồn tại trong não người thì 
dường như hình thức và nghĩa tồn tại tách biệt 
lẫn nhau, chúng không còn là một đối tượng 
thống nhất nữa. Như vậy, ngôn ngữ chỉ là hình 
thức, nghĩa không phải là bộ phận tạo thành của 
ngôn ngữ. Điều đó hoàn toàn trái với bản chất 
tín hiệu của ngôn ngữ. 
Từ những sự phân tích trên đây, I.S. 
Barkhudarov đi đến kết luận rằng hình thức và 
nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ đều tồn tại trong 
lời nói. Ông viết: “ Nghĩa của các đơn vị ngôn 
ngữ không tồn tại trong ý thức của con người 
mà tồn tại trong bản thân những đơn vị đó, tức 
là không tồn tại trong óc người mà tồn tại trong 
lời nói” [7]. 
Nếu thừa nhận nghĩa của các đơn vị ngôn 
ngữ tồn tại trong bản thân các đơn vị đó, tức là 
trong lời nói, thì nghĩa không thể là một thực 
thể, một bản chất nào đó mà phải là quan hệ. 
I.S. Barkhudarov viết: “Quan hệ của tín hiệu 
đối với cái gì đó nằm ngoài bản thân tín hiệu 
chính là nghĩa của tín hiệu” [7:60]. Như vậy, 
hiểu nghĩa của một đơn vị nào đó là hiểu đơn vị 
ấy có quan hệ với cái gì, tức là nó biểu thị cái 
gì. Có thể thấy rõ điều này khi chúng ta quan 
sát cách người ta nắm nghĩa của từ như thế nào. 
Đối với người lớn, nghĩa của một từ mới được 
phát hiện thông qua định nghĩa của nó. Ví dụ: 
“lâu đài – tòa nhà to lớn đẹp đẽ” (Văn Tân, Từ 
điển tiếng Việt, Hà Nội, 1967). Như vậy, nghĩa 
của từ chưa biết (lâu đài) được phát hiện thông 
qua các từ khác (tòa nhà to lớn đẹp đẽ). Thực 
chất việc giải nghĩa trong từ điển (từ điển giải 
thích cũng như từ điển đối chiếu) là tìm đơn vị 
ngôn ngữ tương đương về nghĩa với cái đơn vị 
cần giải thích. Khi con người nắm ngôn ngữ lần 
đầu tiên thì phải liên hệ âm thanh của từ với sự 
vật. Trẻ em nắm nghĩa của từ mèo nhờ nó nghe 
được phức thể ngữ âm [mɛu2] trong các câu cụ 
thể, các câu đó được phát ra trong những hoàn 
cảnh có con mèo nhất định. Dần dần trong nhận 
thức của trẻ, âm [mɛu2] có quan hệ với con 
mèo – bắt đầu từ con mèo đen cụ thể của nhà 
mình, rồi đến con mèo vàng của hàng xóm, cuối 
cùng là cả loài mèo nói chung. Trẻ em hiểu 
được âm [mɛu2] có quan hệ với đối tượng nào, 
N.T. Giáp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3 (2014) 1-13  
6 
âm đó biểu thị một đối tượng duy nhất hay cả 
lớp đối tượng, tức là nó đã nắm được nghĩa của 
từ mèo. 
Cần phân biệt nghĩa của từ với sự hiểu biết 
về nghĩa đó.  ...  khái niệm 
mang lại. Các từ không đơn giản chỉ mang nội 
dung tri nhận trung hòa như chúng ta thấy khi 
chúng được dùng để thảo luận về những lĩnh 
vực nhạy cảm trong đời sống văn hóa và xã hội 
của chúng ta. Thí dụ, vấn đề về chủng tộc được 
diễn tả khó khăn hơn bởi vì các từ “trắng”, 
“đen”, “màu” nặng trĩu ý hàm chỉ. Tuy nhiên, ý 
hàm chỉ cung cấp một nguồn phong phú cho 
những ai khai thác khả năng tưởng tượng của 
ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ nói, ý hàm chỉ 
thường được thể hiện bằng ngữ điệu, mô hình 
trọng âm. 
Nghĩa khu biệt (different meaning) là nghĩa 
được tạo ra do những từ khác nhau cùng kết 
hợp với một từ nào đó, tạo cho từ ấy nét khu 
biệt tế nhị về nghĩa. Thí dụ: từ ăn trong tiếng 
Việt với ý nghĩa là hấp thụ thức ăn qua đường 
miệng, có thể kết hợp với các từ như: cơm, mía, 
cháo, kẹo, Nhưng rõ ràng ăn cơm thì phải 
nhai, ăn cháo thì không phải nhai, còn ăn kẹo 
thì có thể chỉ ngậm cho kẹo tự tan chảy vào 
miệng, ăn mía thì phải nhai hít lấy nước và bỏ 
bã. 
Yếu tố gợi cảm – cảm xúc có tính chất 
khách quan đối với tập thể người nói còn thể 
hiện ở chỗ các từ thuộc vào một lớp tu từ học 
nhất định của ngôn ngữ. Khi tham gia vào lớp 
tu từ nào đó mỗi từ có giá trị tu từ riêng. Giá trị 
gợi cảm – cảm xúc của từ chỉ ra mối liên hệ của 
N.T. Giáp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3 (2014) 1-13  
10 
nó với phong cách nào đó. Đó là nghĩa phong 
cách. 
Nghĩa phong cách (stylistic meaning) liên 
quan đến khái niệm ngữ vực. Trong ngôn ngữ, 
các từ có tính nghi thức và tính khái quát hóa 
với mức độ khác nhau. Nếu chúng ta lấy các từ 
liên kết quanh bất cứ một trường nghĩa nào 
trong một ngôn ngữ thì chúng ta sẽ tìm thấy 
một số từ chỉ khác nhau trong ý nghĩa liên 
tưởng vì số từ này thì mới hơn hoặc sang trọng 
hơn số từ khác. Những từ sau đây có cùng ý 
nghĩa khái niệm nhưng khác nhau về nghĩa liên 
tưởng vì chúng thuộc vào những phong cách 
khác nhau của tiếng Việt: 
Phong cách trung hòa 
(hoặc đa phong cách) 
Phong cách khẩu ngữ 
Từ trần 
Tiểu tiện 
Nói nhiều 
Hợp nhau 
Ngon 
Bị đánh 
Liều 
Nam giới 
Bỏ xác 
Đái 
Dẻo miệng 
Ăn rơ 
Ngon ơ 
Ăn đòn 
Bạo phổi 
Đàn ông đàn ang 
 Ngôn ngữ một mặt là hệ thống tín hiệu 
được dùng để thể hiện các đối tượng và các sự 
tình trong thế giới; mặt khác ngôn ngữ còn là 
một hệ thống thể hiện chính bản thân nó. Bản 
thân ngôn ngữ cũng bao gồm các đơn vị khác 
nhau như: âm vị, hình vị, từ, cụm từ và câu. Nếu 
như âm vị chỉ có giá trị khu biệt nghĩa thì các 
đơn vị khác đều có nghĩa. Ngoài nội dung phản 
ánh liên quan đến mối quan hệ với các đối 
tượng và các sự tình trong thế giới, mỗi đơn vị 
đều có nghĩa hình thức phản ánh mối quan hệ 
của chúng với bản thân ngôn ngữ. Từ lâu, các 
nhà ngôn ngữ học đã phân biệt “nghĩa từ vựng” 
và “nghĩa cấu trúc”. Sự phân biệt này phản ánh 
chính xác sự phân biệt kiểu Aristote về “nghĩa 
chất liệu” và “nghĩa hình thức”. Sự đối lập của 
Aristote giữa “chất liệu” và “hình thức” được 
nêu ra để phân biệt các từ loại chủ yếu và thứ 
yếu. Chỉ có các từ loại chủ yếu như danh từ, 
động từ, tính từ và trạng từ là có ý nghĩa theo 
nghĩa đúng của từ này: chúng biểu hiện các đối 
tượng của tư duy, tạo nên “chất liệu” của lời 
nói. Các từ loại khác (giới từ, liên từ,..) tự thân 
không có ý nghĩa, mà chỉ góp phần vào toàn bộ 
ý nghĩa của câu bằng cách áp đặt cho câu một 
“hình thức” nào đó hay một tổ chức nào đó. 
Trên cơ sở phân biệt từ loại chủ yếu và thứ yếu, 
các nhà ngôn ngữ học còn phân biệt “đơn vị từ 
vựng” và “đơn vị ngữ pháp”. Martinet, Halliday 
và nhiều nhà ngôn ngữ học lấy tiêu chuẩn “tập 
hợp đóng” và “tập hợp mở” làm tiêu chí phân 
biệt đơn vị từ vựng và đơn vị ngữ pháp. Các 
đơn vị ngữ pháp thuộc vào các tập hợp đóng, 
tức là tập hợp bao gồm các thành viên cố định 
và thường là ít, ví dụ: các tập hợp đại từ nhân 
xưng, thời, giống,Các đơn vị từ vựng thì 
thuộc các tập hợp mở, tức là tập hợp gồm các 
thành viên không hạn chế, vô cùng lớn, ví dụ 
như lớp danh từ hay vị từ trong một ngôn ngữ. 
Truyền thống cũng cho rằng các đơn vị từ vựng 
thì có cả nghĩa từ vựng lẫn nghĩa cấu trúc. Thí 
dụ, từ “bò” vừa biểu hiện khái niệm “bò” vừa 
biểu thị sự vật giống như các danh từ khác. 
Hiện nay, các nhà ngôn ngữ học thường 
dùng thuật ngữ “nghĩa ngữ pháp” thay cho thuật 
ngữ “nghĩa cấu trúc”. Đồng thời họ cũng nhận 
ra không có sự đối lập cứng nhắc giữa đơn vị từ 
vựng và đơn vị ngữ pháp. Nghĩa ngữ pháp được 
xác định trong sự đối lập với nghĩa từ vựng. 
Nghĩa ngữ pháp (grammatical meaning) 
là loại nghĩa chung, bao trùm lên một loạt đơn 
vị ngôn ngữ. Đó có thể là nghĩa chung của cả 
loạt dạng thức của từ, của cả loạt từ, loạt câu. 
Nghĩa ngữ pháp khác với nghĩa từ vựng ở 
tính chất của sự khái quát hóa. Sự khái quát hóa 
từ vựng là khái quát từ những sự vật, hiện t-
ượng trong đời sống hàng ngày. Thí dụ: từ sách 
trong tiếng Việt không phải là tên riêng của một 
N.T. Giáp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3 (2014) 1-13  
11
quyển sách cụ thể nào, mà là tên gọi của cả một 
lớp sự vật mang đặc tính nhất định. Sự khái 
quát hóa ngữ pháp là khái quát từ chính các đơn 
vị ngôn ngữ. 
Có nghĩa ngữ pháp được khái quát hóa trên 
cơ sở sự đối lập các dạng thức khác nhau của 
từ, chẳng hạn, ý nghĩa về giống, về số, về thời, 
về cách... trong tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng 
Anh. Thí dụ: 
Tiếng Pháp: étudiant “sinh viên” − 
étudiante “nữ sinh viên” 
Tiếng Anh: student “sinh viên” − 
students “những sinh viên” 
 table “cái bàn” − tables “những cái bàn” 
He laughs “Nó cười” − They laugh (Họ cười) 
Trong tiếng Nga, sự phân biệt giống đực, 
giống cái, giống trung của danh từ được dựa 
vào hình thái của từ chứ không phải dựa vào 
giới tính của sự vật trong thực tế. кошка chỉ cả 
mèo đực lẫn mèo cái, nhưng có nghĩa giống cái; 
слон chỉ cả voi đực lẫn voi cái, nhưng có nghĩa 
giống đực; cùng chỉ cái ghế là vật không có giới 
tính, nhưng стул “ghế dựa” là danh từ giống 
đực, скамейка “ghế băng” là danh từ giống cái, 
кресло “ghế bành” lại là danh từ giống trung. 
Có nghĩa ngữ pháp được khái quát hóa trên 
cơ sở sự đối lập giữa các lớp từ về phương diện 
ý nghĩa khái quát và đặc điểm hoạt động ngữ 
pháp của chúng. Chẳng hạn, nghĩa danh từ của 
các từ như: bàn, ghế, sinh viên, gường, tủ...; 
nghĩa vị từ của các từ như: ăn, ngủ, nghỉ, cười, 
nói...; nghĩa đại từ của các từ như: tôi, nó, mày, 
họ ... trong tiếng Việt. 
Có nghĩa ngữ pháp được khái quát hóa trên 
cơ sở sự đối lập về vị trí của các từ ở trong câu. 
Chẳng hạn, Tôi yêu em, thì tôi là chủ ngữ, như-
ng Em yêu tôi thì tôi là bổ ngữ; Từ yêu trong hai 
câu trên đều là vị ngữ, nhưng yêu trong câu Yêu 
là chết trong lòng một chút lại là chủ ngữ. 
Có nghĩa ngữ pháp được khái quát trên cơ 
sở sự đối lập về chức năng của các câu. Chẳng 
hạn: câu trần thuật, câu hỏi, câu mệnh lệnh, câu 
cảm thán. 
John Lyons nói đến ba loại nghĩa ngữ pháp 
khác nhau, đó là: (1) nghĩa của các đơn vị ngữ 
pháp (liên từ, giới từ và các phụ tố,..); (2) Nghĩa 
của các chức năng ngữ pháp như chủ ngữ, tân 
ngữ hay bổ ngữ; (3) Nghĩa liên quan đến các 
khái niệm như “tường thuật”, “nghi vấn” hay 
“mệnh lệnh” trong khi phân loại các kiểu câu. 
Cũng có thể khái quát thành hai loại nghĩa 
ngữ pháp là: nghĩa phạm trù (categorical 
meaning) và nghĩa chức năng (functional 
meaning). Nghĩa phạm trù bao gồm nghĩa của 
các phạm trù từ vựng – ngữ pháp như: danh từ, 
vị từ, tính từ,.. và nghĩa của các phạm trù ngữ 
pháp như: thời, thức, thể, giống, số, cách,.. 
Những phạm trù ngữ pháp không phải ngôn 
ngữ nào cũng có. 
Nghĩa ngữ pháp còn phân biệt với nghĩa từ 
vựng ở phương tiện biểu hiện. Nghĩa từ vựng đ-
ược biểu hiện bằng các phương tiện từ vựng, 
tức là bằng các từ hoặc ngữ. Xét về mặt nhận 
thức thế giới khách quan, người Việt cũng có 
khả năng phân biệt giới tính của người và động 
vật như người Nga, người Pháp. Nhưng người 
Việt dùng phương tiện từ vựng để phân biệt 
nghĩa về giống, tức là dùng những từ cụ thể 
như: nam, nữ, đực, cái, trống, mái, nái, ông, bà, 
anh, chị... Vì vậy, trong tiếng Việt không có 
nghĩa ngữ pháp về giống như trong tiếng Nga, 
tiếng Pháp... Các nghĩa ngữ pháp được biểu 
hiện bằng phương tiện ngữ pháp. Phương thức 
ngữ pháp là những phương tiện hình thức thể 
hiện nghĩa ngữ pháp. 
Trong ngôn ngữ học, người ta có thể phân 
loại nghĩa ngữ pháp thành hai loại là nghĩa 
quan hệ và nghĩa tự thân. Nghĩa quan hệ là loại 
nghĩa do mối quan hệ của đơn vị ngôn ngữ với 
N.T. Giáp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3 (2014) 1-13  
12 
các đơn vị khác trong lời nói đem lại. Thí dụ: 
Cáo bắt gà thì cáo có nghĩa “chủ thể”, gà có 
nghĩa ”đối tượng”, còn Gà mổ cáo thì gà lại có 
nghĩa “chủ thể”, cáo có nghĩa “đối tượng”. 
Nghĩa tự thân là nghĩa không phụ thuộc vào 
quan hệ ngữ pháp của các từ ở trong câu. Thí 
dụ: Trong hai câu trên cũng như trong từ điển, 
các từ cáo và gà đều biểu thị “sự vật”; các từ 
bắt và mổ đều có nghĩa “hoạt động”. Đó là 
những nghĩa ngữ pháp tự thân. Người ta cũng 
có thể phân nghĩa ngữ pháp thành nghĩa ngữ 
pháp thường trực và nghĩa ngữ pháp lâm thời. 
Nghĩa ngữ pháp thường trực là loại nghĩa ngữ 
pháp luôn luôn đi kèm nghĩa từ vựng, có mặt 
trong mọi dạng thức của đơn vị. Thí dụ: nghĩa 
“sự vật” của danh từ trong các ngôn ngữ khác 
nhau, nghĩa “giống đực”, “giống cái” của danh 
từ tiếng Nga, tiếng Pháp. Nghĩa ngữ pháp lâm 
thời là loại nghĩa ngữ pháp chỉ xuất hiện ở một 
số dạng thức nhất định của đơn vị. Thí dụ: các 
nghĩa “chủ thể”, “đối tượng”, “số ít”, số 
nhiều”,...của danh từ, “thì hiện tại”, “thì quá 
khứ”, “thì tương lai” hay “ngôi thứ nhất”, “ngôi 
thứ hai”, “ngôi thứ ba”, ...của vị từ. Phối hợp cả 
hai hướng phân loại trên, chúng ta có ba loại 
nghĩa ngữ pháp là: nghĩa quan hệ, nghĩa tự thân 
thường trực và nghĩa tự thân không thường 
trực. 
Phương tiện ngữ pháp (grammatical means) 
là những phương tiện hình thức thể hiện ý nghĩa 
ngữ pháp. Những phương tiện ngữ pháp phổ 
biến là: 
 ( 1) Phương tiện phụ tố. Thí dụ: national 
trong tiếng Anh gồm chính tố nation “dân tộc” 
và hậu tố -al biểu thị nghĩa ngữ pháp: tính chất, 
giống đực, số ít. 
(2) Phương tiện biến dạng chính tố. Thí dụ: 
Trong tiếng Anh, foot “bàn chân”, còn feet là 
“những bàn chân”, man “người đàn ông” còn 
men là “những người đàn ông”. 
 (3) Phương tiện thay chính tố. Thí dụ: 
Trong tiếng Anh, good “tốt” – better “tốt hơn”, 
bad “xấu” – worse “xấu hơn”; Trong tiếng 
Pháp, bon “tốt” – meilleur “tốt hơn”, mauvais 
“xấu” – pire “xấu hơn”. 
 (4) Phương tiện láy. Thí dụ: Trong tiếng 
Indonesia, labuch “con nhện” – labuch labuch 
“những con nhện”. Trong tiếng Ilakano ở 
Philippin, talon “cánh đồng” – taltalon “những 
cánh đồng”. 
(5) Phương tiện trọng âm. Thí dụ: Trong 
tiếng Nga, за’мок “lâu đài” – замо’к “ổ khóa”. 
(6) Phương tiện hư từ. Thí dụ: Trong tiếng 
Pháp, le livre de Pierre “sách của Pierre” (t-
ương ứng với liber Petri trong tiếng Latin, dùng 
phụ tố). 
 (7) Phương tiện trật tự từ. Thí dụ: Trong 
tiếng Việt, nước cá khác với cá nước; nhà nước 
khác với nước nhà. 
 (8) Phương tiện ngữ điệu. Thí dụ: Trong 
tiếng Việt, phát âm kéo dài một từ là phương 
tiện để biểu thị ý nghĩa phủ định, chẳng hạn: 
Vâng...âng...âng. 
Tóm lại, ngôn ngữ học hiện đại phân biệt ý 
nghĩa với nghĩa của đơn vị ngôn ngữ. Ý nghĩa 
là biểu tượng tình thần có quan hệ với đơn vị 
ngôn ngữ, còn nghĩa là mối quan hệ của đơn vị 
ngôn ngữ với cái gì ngoài bản thân nó. Vì các 
đơn vị ngôn ngữ có quan hệ rất đa dạng với các 
hiện tượng khác cho nên, nghĩa của đơn vị ngôn 
ngữ là một hiện tượng phức tạp, bao gồm một 
số thành tố đơn giản hơn, như: nghĩa sở biểu, 
nghĩa sở thị, nghĩa sở chỉ, nghĩa sở dụng, nghĩa 
ngữ pháp. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Saussure, F. de, Giáo trình ngôn ngữ học đại 
cương (Cao Xuân Hạo dịch), NXB Khoa học Xã 
hội, Hà Nội, 2005. 
N.T. Giáp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3 (2014) 1-13  
13
[2] Russel, B., An Inquiry into Meaning and Truth, 
London: Allen and Unwin (Reprinted, 
Harmondsworth, Midlesex: Penguin, 1962) 
[3] Ogden, C.K. và Richards, I.A., The meaning of 
meaning. A study of the influence of language 
upon thought and the science of symbolism, 
Magdalene College, University of Cambridge, 
1923. 
[4] Lyons, J. Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết, Nxb 
Giáo dục, Hà Nội, 1996. 
[5] Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, 
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998. 
[6] Solcev V.M. Ngôn ngữ với tư cách là một cấu tạo 
có tính hệ thống và kết cấu, Moskva, 1971. 
[7] Barkhudarov I.S., Ngôn ngữ và phiên dịch, 
Moskva, 1975. 
[8] Locke, J. An Essay Concerning Human 
Understanding, Glasgow, 1977, Fount, first 
published 1690. 
[9] Artemov V.A., Tâm lí học của việc học tiếng 
nước ngoài, Moskva, 1965. 
[10] Chikobava A.C., Vấn đề ngôn ngữ với tính cách là 
đối tượng của ngôn ngữ học, Moskva, 1965. 
[11] Reformatskiy A.A., Dẫn luận ngôn ngữ học, 
Moskva, 1967. 
[12] Budagov P.A., Dẫn luận vào khoa học về ngôn 
ngữ, Moskva, 1965. 
[13] Golovin B.N., Dẫn luận ngôn ngữ học, Moskva, 
1966 
[14] Ullman, St., The Principles of semantics, Elasgro, 
1951. 
[15] Aprecjan Ju.D., Phân tích có tính miêu tả các 
nghĩa và các trường nghĩa , trong “Tuyển tập từ 
điển học”, tập 5, Moskva, 1962. 
[16] Nguyễn Thiện Giáp, Giáo trình ngôn ngữ học, 
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2008. 
[17] Nguyễn Thiện Giáp, 777 khái niệm ngôn ngữ học, 
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2010. 
[18] Nguyễn Thiện Giáp, Nghĩa học Việt ngữ, NXB 
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2014. 
Sense-Meaning Distinction in Modern Linguistics 
Nguyễn Thiện Giáp 
VNU University of Social Sciences and Humanities, Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hanoi, Vietnam 
Abstract: In many languages, there exist terms that can be translated into Vietnamese as “nghĩa” 
or “ý nghĩa” ( ‘meaning’ and ‘sense’ in English; ‘signification’ and ‘sens’ in French; ‘Bedeutung’ and 
‘Sinn’ in German; ‘значение‘ and ‘мысл‘ in Russian). It used be assumed that the signified was 
synonymous with meaning, and because of this misassumption, the above pair of terms was used 
interchangeably. In modern linguistics, sense and meaning are considered to be two distinctive 
constructs. The former refers to the significative meaning of the linguistic unit while the latter to the 
relationship between the signifier and the signified. In other words, the ‘meaning’ of the word 
indicates the relationship between the word itself and something outside the word. As words (like 
other linguistic units) are related to the phenomena in a diverse way, the meaning of the word is 
complex, involving some simpler elements such as significative meaning, referential meaning, 
denotative meaning, pragmatic meaning and grammatical meaning. 
Keywords: Meaning, sense, referential meaning, denotative meaning, significative meaning, 
pragmatical meaning, associative meaning, structural meaning, grammatical meaning, connotative 
meaning, different meaning, affective meaning, stylistic meaning, lexical meaning, connotation. 

File đính kèm:

  • pdfphan_biet_nghia_va_y_nghia_trong_ngon_ngu_hoc_hien_dai.pdf