Phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam

Tóm tắt. Bài viết trình bày bản chất của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, đồng thời chỉ ra các giai

đoạn cụ thể của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu gồm các giai đoạn như sản xuất nguyên liệu, kéo

sợi, dệt vải, nhuộm, in vải, cắt may và phân phối sản phẩm, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của sự

liên kết giữa ngành dệt và ngành may trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Bài viết cũng dựa trên

cách tiếp cận từ sản phẩm đầu ra để phân tích và làm rõ chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may gồm bốn

thành phần chính: khách hàng quốc tế, nhà sản xuất trong nước, nguồn cung ứng đầu vào và trung

gian. Trong mỗi thành phần đó, bài viết chỉ rõ những nguyên nhân làm cho giá trị gia tăng của

hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam còn thấp trong chuỗi giá trị xuất khẩu mặt hàng này.

pdf 11 trang yennguyen 8720
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam

Phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 49‐59 
49 
Phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam(1) 
PGS.TS. Hà Văn Hội* 
1Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế, 
Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 17 tháng 01 năm 2012 
Tóm tắt. Bài viết trình bày bản chất của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, đồng thời chỉ ra các giai 
đoạn cụ thể của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu gồm các giai đoạn như sản xuất nguyên liệu, kéo 
sợi, dệt vải, nhuộm, in vải, cắt may và phân phối sản phẩm, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của sự 
liên kết giữa ngành dệt và ngành may trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Bài viết cũng dựa trên 
cách tiếp cận từ sản phẩm đầu ra để phân tích và làm rõ chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may gồm bốn 
thành phần chính: khách hàng quốc tế, nhà sản xuất trong nước, nguồn cung ứng đầu vào và trung 
gian. Trong mỗi thành phần đó, bài viết chỉ rõ những nguyên nhân làm cho giá trị gia tăng của 
hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam còn thấp trong chuỗi giá trị xuất khẩu mặt hàng này. 
Từ khóa: Chuỗi giá trị, xuất khẩu, dệt may, toàn cầu. 
1. Đặt vấn đề(1)* 
 Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh 
tế quốc tế, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là quy 
luật tất yếu. Mỗi sản phẩm được tạo ra đều có 
giá trị bao gồm một xâu chuỗi mắt xích nhiều 
giá trị kết nối tạo nên. Trong bối cảnh hội nhập, 
các mắt xích tạo nên giá trị cuối cùng của một 
sản phẩm đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia - 
lãnh thổ, hoặc một sản phẩm thuần túy ra đời 
tại một địa phương cụ thể nhưng vẫn mang giá 
trị toàn cầu. Dệt may Việt Nam cũng như các 
lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân đã tích 
cực tham gia vào thị trường thế giới. Mặc dù 
trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt 
Nam có tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu tương 
đối lớn với kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai 
sau dầu mỏ - khí đốt nhưng giá trị gia tăng và 
______ 
(1) Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ đề tài “Tham gia 
chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, kinh nghiệm của một số nước 
châu Á và gợi ý đối với Việt Nam” với sự tài trợ của Trung tâm 
Hỗ trợ Nghiên cứu châu Á - Đại học Quốc gia Hà Nội. 
* ĐT: 84-913559235 
 E-mail: hoiktqt@gmail.com, hoihv@vnu.edu.vn 
lợi nhuận thu được lại thấp. Để lý giải điều này, 
cần phải phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt 
may của Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp 
hữu hiệu để gia tăng giá trị trong chuỗi giá trị 
xuất khẩu dệt may của Việt Nam. 
2. Bản chất chuỗi giá trị dệt may toàn cầu 
Chuỗi giá trị có thể được thực hiện trong 
phạm vi một khu vực địa lý hoặc trải rộng trong 
phạm vi nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá 
trị toàn cầu (global value chain). Theo cách 
nhìn này, các doanh nghiệp từ nhiều quốc gia 
trên thế giới sẽ đóng vai trò như những mắt 
xích quan trọng và có thể chi phối sự phát triển 
của chuỗi giá trị. Việc phân tích hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp theo quan điểm chuỗi 
giá trị chính là một phương pháp hữu hiệu để 
đánh giá tốt nhất năng lực cạnh tranh cũng như 
vai trò và phạm vi ảnh hưởng của quốc gia 
trong chuỗi giá trị toàn cầu [1]. 
Đối với ngành dệt may, quan hệ theo chiều 
dọc của ngành này được biểu hiện dưới dạng 
chuỗi giá trị như sau: 
H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 49‐59 
50
Sơ đồ 1. 
Sơ đồ 1. Chuỗi giá trị sản xuất - kinh doanh hàng dệt may. 
Trong chuỗi giá trị trên, các giai đoạn sản 
xuất nguyên liệu, kéo sợi, dệt vải, nhuộm, in vải 
được gọi là nguồn nguyên liệu đầu vào. Đây 
cũng chính là các ngành công nghiệp phụ trợ và 
có liên quan chặt chẽ đến ngành cắt may. Còn 
các giai đoạn cắt may, phân phối hàng may 
được coi là các công đoạn sản xuất và phân 
phối sản phẩm. Công đoạn này có vai trò tác 
động ngược trở lại các công đoạn đầu và được 
coi là là “động lực” thúc đẩy các công đoạn đầu 
phát triển. Trên thực tế, mặc dù không nhất 
thiết cần phát triển tất cả các khâu trong hệ 
thống sản xuất dệt may một cách đồng đều, 
song nếu tạo ra được mối liên hệ hữu cơ giữa 
các khâu trong những điều kiện sẵn có thì sẽ có 
tác động rất lớn trong việc đảm bảo tính chủ 
động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, 
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên 
thị trường nội địa và thế giới. Trong chuỗi giá 
trị dệt may nêu trên, sự liên kết giữa ngành dệt 
và ngành may được coi là một trong những liên 
kết quan trọng bởi vì sự liên kết giữa khâu dệt 
và khâu may có thể góp phần nâng cao chất 
lượng nguyên liệu các doanh nghiệp may do 
ngành dệt có thể bám sát hơn nhu cầu của 
ngành may về các loại nguyên liệu. Đồng thời, 
việc tăng cường liên kết dệt may sẽ tạo điều 
kiện giảm chi phí do giảm chi phí trung gian, hạ 
giá thành sản phẩm may, tăng sức cạnh tranh 
của hàng may mặc do tỷ lệ nội điạ hóa được 
nâng cao. Liên kết dệt - may còn có tác dụng 
giảm bớt nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu nước 
ngoài, nâng cao giá trị gia tăng, góp phần tăng 
ngân sách quốc gia. Bên cạnh đó, liên kết dệt - 
may góp phần tạo điều kiện cung cấp vải sợi ổn 
định, chủ động cho may hàng xuất khẩu. Thực 
tế nhiều nước cho thấy, việc nhập khẩu vải sợi 
và phụ liệu khiến các doanh nghiệp gặp nhiều 
bất lợi, không chủ động được tiến độ sản xuất 
cũng như thời gian giao hàng. Nhiều doanh 
nghiệp chịu chi phí bổ sung cao do phải vận 
chuyển vải và phụ liệu nhập khẩu bằng đường 
hàng không để đảm bảo thời gian giao hàng và 
giữ chữ tín với đối tác. Tuy nhiên, việc làm này 
chỉ có thể là giải pháp tạm thời, về lâu dài sẽ 
khiến doanh nghiệp thua lỗ và bị phá sản. Vì 
vậy, nếu được cung cấp vải và phụ liệu từ 
nguồn nguyên liệu ổn định trong nước, các 
doanh nghiệp may sẽ giảm bớt rủi ro xuất khẩu. 
Đồng thời, đây cũng là cơ hội để nâng cao tỷ lệ 
nội địa hóa, đẩy mạnh phát triển ngành công 
nghiệp dệt. Ngoài ra, liên kết dệt - may tạo điều 
kiện mở rộng thị trường ngành dệt, từ đó tăng 
quy mô sản xuất để đạt lợi thế về quy mô, giảm 
giá thành, tăng sức cạnh tranh của hàng dệt, thu 
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng tích lũy để 
tiếp tục tái đầu tư cho công nghệ mới nhằm đáp 
ứng yêu cầu của ngành may. 
Xét trên góc độ chuỗi giá trị dệt may toàn 
cầu: khâu thiết kế kiểu dáng sản phẩm được 
thực hiện ở các trung tâm thời trang nổi tiếng 
thế giới như Paris, London, New York 
Nguyên liệu chính là vải được sản xuất tại Hàn 
Quốc, Trung Quốc hoặc các phụ liệu khác được 
sản xuất tại Ấn Độ. Khâu sản xuất, gia công sản 
phẩm cuối cùng được thực hiện ở các nước có 
chi phí nhân công rẻ như Việt Nam, Trung 
Quốc Các sản phẩm dệt may hoàn chỉnh sẽ 
được đưa ra bán trên thị trường bởi các công ty 
thương mại danh tiếng [3]. Trong chuỗi giá trị 
toàn cầu hàng dệt may, khâu có lợi nhuận cao 
nhất là thiết kế mẫu, cung cấp nguyên phụ liệu 
và thương mại. Tuy nhiên, dệt may Việt Nam 
chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối 
cùng với lượng giá trị gia tăng thấp nhất trong 
chuỗi giá trị. Theo ước tính, khoảng 90% doanh 
nghiệp may mặc của Việt Nam tham gia vào 
khâu này của chuỗi giá trị dưới hình thức gia 
công. Vì thế, tuy sản phẩm dệt may của Việt 
Nam được xuất đi nhiều nơi, Việt Nam có tên 
trong top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất 
thế giới nhưng giá trị thu về rất thấp. 
Sản xuất 
nguyên liệu 
Dệt 
vải 
Nhuộm, 
in vải 
Cắt 
may 
Phân phối sản 
phẩm dệt, may 
H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 49‐59 
51
Sdgf 
3. Chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may hiện nay 
của Việt Nam 
Ngành dệt may là lĩnh vực có kim ngạch 
xuất khẩu lớn, chiếm khoảng 7% tổng kim 
ngạch xuất khẩu cả nước. Liên tục trong mấy 
năm trở lại đây, xuất khẩu của ngành này đã 
vượt qua dầu khí, chiếm vị trí số một về kim 
ngạch xuất khẩu. Năm 2010, ngành dệt may đã 
có những bước tăng trưởng khả quan: Kim 
ngạch xuất khẩu đạt 11,2 tỷ USD, tăng 23,2% 
so với năm 2009. Năm 2011, dù gặp khó khăn 
trong những tháng cuối năm nhưng dệt may vẫn 
liên tục đạt kim ngạch xuất khẩu cao và dự 
đoán sẽ vượt mục tiêu 13,5 tỷ USD [4]. 
Theo cách tiếp cận từ sản phẩm đầu ra, chuỗi 
giá trị xuất khẩu dệt may gồm bốn thành phần 
chính: khách hàng quốc tế, nhà sản xuất trong 
nước, nguồn cung ứng đầu vào và trung gian. 
3.1. Khách hàng quốc tế 
Khách hàng quốc tế được hiểu là những nhà 
nhập khẩu sản phẩm dệt may từ các doanh 
nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Trong chuỗi giá trị 
xuất khẩu dệt may, khách hàng quốc tế có ảnh 
hưởng rất quan trọng. Nguyên nhân là do có 
quá nhiều nhà sản xuất và cung cấp sản phẩm 
dệt may trên thế giới nên người mua có thể 
chọn mua sản phẩm từ các nhà cung cấp ở 
nhiều quốc gia. Theo VITAS (2010), công suất 
cung ứng hàng may mặc hiện nay của thế giới 
cao hơn gấp hai lần so với nhu cầu thực tế. 
Đồng thời, các nhà bán lẻ hàng may mặc hay 
các công ty nhập khẩu bán buôn có thương hiệu 
có vai trò quyết định về xu hướng thời trang 
Nguyên liệu 
Sợi tự 
nhiên: 
bông, 
gỗ, tơ 
Sản xuất 
nguyên 
liệu 
(kéo sợi) 
Vải 
(đan len, 
dệt, hồ) 
Các công 
ty thiết 
kế 
Sợi 
nhân 
tạo: 
dầu, khí 
đốt 
Hóa 
dầu 
Hợp 
đồng gia 
công sản 
xuất 
Công ty 
may với 
thương 
hiệu 
riêng 
Sợi 
tổng 
hợp 
Văn 
phòng 
người 
mua 
nước 
ngoài 
Nguyên liệu 
đầu vào 
Hệ thống 
cửa hàng 
đặc biệt 
Hệ thống 
cửa hàng 
chuyên 
dụng 
Chuỗi 
bán buôn 
Chuỗi 
bán lẻ 
Các yếu tố 
sản xuất Hệ thống sản xuất 
Hệ thống 
xuất khẩu 
Hệ thống 
marketing 
Các nhà 
bán lẻ 
Các công ty 
may 
Các công ty 
dệt 
Các 
công ty 
thương 
mại 
Các nhà 
bán lẻ 
Sơ đồ 2. Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. 
Nguồn: The international competiveness of Asian economies in the apparel commodity chain (Gereffi, 2002).
H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 49‐59 
52
trong mỗi mùa bằng cách thảo luận và thỏa hiệp 
với nhau về màu sắc và mẫu mốt cho các mùa 
thời trang. 
Trong các khách hàng quốc tế, Mỹ là đối 
tác lớn nhất nhập khẩu hàng dệt may của Việt 
Nam. Theo số liệu thống kê hải quan trong 
những năm qua, Mỹ luôn là thị trường dẫn đầu 
về nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam. Vì vậy, 
xuất khẩu nhóm hàng này sang Mỹ luôn chiếm 
trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt 
may của cả nước [2]. 
Tuy nhiên, để đưa được sản phẩm dệt may 
của Việt Nam vào thị trường Mỹ không phải dễ 
dàng. Bởi vì, mặc dù số lượng một hợp đồng 
cho thị trường Mỹ thường rất lớn, nhưng phải 
giao đúng hạn, đúng tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, 
ngoài các tiêu chuẩn về chất lượng, khách hàng 
Mỹ còn rất khắt khe với các tiêu chuẩn về lao 
động. Tiêu chuẩn lao động ở đây là mức lương 
được trả, điều kiện môi trường làm việc của công 
nhân - nơi sản xuất ra hàng xuất khẩu. Tăng ca, 
lương thấp, môi trường lao động cực nhọc đều 
được coi là một hình thức cạnh tranh không lành 
mạnh. Điểm thiếu nhất của các doanh nghiệp dệt 
may hiện nay là chưa thể nắm bắt kịp thời những 
thông tin mới nhất, những quy chế, thể lệ, quy 
định mới nhất tại thị trường Mỹ. 
Bên cạnh thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản 
cũng là hai thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt 
may của Việt Nam với tỷ trọng lần lượt là 18% 
và 11% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm 
hàng này của cả nước năm 2009. Tuy nhiên, 
trong ba thị trường dẫn đầu này, Mỹ vẫn là thị 
trường mà xuất khẩu dệt may của Việt Nam có 
tốc độ tăng trưởng cao nhất, trung bình đạt 
19%/năm trong giai đoạn 2006-2010, thị trường 
EU và Nhật Bản có tốc độ tăng bình quân lần 
lượt là 16,1% và 10,7%. 
Sơ đồ 3. Chuỗi giá trị xuất khẩu hàng dệt may hiện nay của Việt Nam. 
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2010. 
Productio
Spinnin
Weavin
Confectio
Merchandisin
Desig
Machinery 
Accessorie
Dyestuff & 
chemical
Fibres 
Fabric 
Raw 
Packagin
Vận chuyển 
nguyên liệu thô 
Logistics 
Custom
Branded 
marketer
Retailer
Importer
Wholesaler
Foreign 
sale Shippin Logistics Custom
Buying 
Buying 
Sourcing 
Intermediary 
International buyers Domestic manufacturers 
Sản xuất 
Xe chỉ, dệt, 
tạo mẫu, 
liên kết 
Kế hoạch 
kinh doanh 
Máy móc, phụ 
kiện, nhuộm, 
hóa chất 
Sợi, vải 
cotton thô 
Đóng gói Hậu cần, 
hải quan 
Công ty phát 
triển thương hiệu
Các nhà 
bán lẻ 
Nhà NK 
 Bán buôn 
Văn phòng 
nguyên liệu 
nước ngoài 
Vận chuyển
Hậu 
cần, 
hải 
quan 
Đại lý 
mua hàng 
Văn phòng 
mua hàng 
Nguồn 
nguyên liệu 
Trung gian 
Khách hàng quốc tế Các nhà sản xuất trong nước 
 Sự dịch chuyển của chi phí và sản phẩm 
 Sự dịch chuyển của thông tin 
H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 49‐59 
53
Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ giai đoạn 2006-2010 
 Năm 
Chỉ tiêu 
2006 2007 2008 2009 2010 
Kim ngạch xuất khẩu hàng 
dệt may sang Mỹ (triệu USD) 3045 4465 5106 4995 6000 
Kim ngạch xuất khẩu hàng 
dệt may cả nước (triệu USD) 5834 7750 9120 9066 11200 
Tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất 
khẩu dệt may cả nước (%) 52,2 57,6 56,0 55,1 53,6 
Nguồn: Tổng cục Hải quan và Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2011. 
Khó khăn đối với doanh nghiệp xuất khẩu 
vào EU, trước tiên là do thị hiếu, phong cách 
tiêu dùng, ngôn ngữ, văn hóa kinh doanh của 
mỗi nước, mỗi vùng khác nhau, trong khi đó 
hàng hóa vào thị trường EU lại được lưu thông 
trên toàn bộ 27 nước. Như vậy, việc tạo ra một 
sản phẩm và đưa sản phẩm vào được một nước 
và phải thích ứng với 26 nước còn lại là một 
thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp 
Việt Nam. Bên cạnh đó, thị trường EU có nhiều 
quy định kỹ thuật khá khắt khe với mục đích 
bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ môi trường, 
mà cụ thể là “vướng” về quy định sử dụng hóa 
chất đã có hiệu lực từ năm 2009. Ngoài ra, cũng 
phải kể đến việc EU vẫn đang tìm mọi cách để 
duy trì chính sách bảo hộ sản xuất nội khối. 
Việc tăng trưởng xuất khẩu quá nhanh đối với 
mặt hàng nào vào EU cũng có thể đưa đến hậu 
quả không mong muốn là EU sẽ tiến hành các 
biện pháp tự vệ, chống bán phá giá. 
Không giống như thị trường Mỹ và châu Âu 
luôn có những đơn đặt hàng số lượng lớn, Nhật 
Bản là một trong những thị trường tiên tiến, 
luôn đòi hỏi sự tinh xảo trong hàng may mặc 
nên các đơn đặt hàng rất nhỏ với nhu cầu kiểu 
dáng và màu sắc khác nhau bởi phụ nữ Nhật 
Bản yêu thích sự độc đáo, khác biệt. Đặc biệt, 
thị trường may mặc Nhật Bản thay đổi theo 
mùa rất mạnh. Vì vậy, các doanh nghiệp Nhật 
Bản thường yêu cầu rất phức tạp, đơn đặt hàng 
nhỏ với các sản phẩm thời trang theo mùa, số 
lượng thường chỉ từ 500-1.000 sản phẩm/kiểu 
dáng, màu sắc, nhiều nhất cũng chỉ lên tới 
khoảng 10.000 sản phẩm/kiểu dáng, màu sắc. 
iểu gjhđồ 1. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang 
Biểu đồ 1. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản giai đoạn 2006-2010. 
Nguồn: Tổng cục Hải quan và Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2011. 
H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 49‐59 
54
Ngoài ba thị trường chính nêu trên, hàng dệt 
may Việt Nam còn có mặt trên các thị trường 
như Đức, Anh, Pháp, Bỉ, Canada, Hồng Kông, 
Italia với thị phần khoảng 20%. 
3.2. Nhà sản xuất hàng dệt may Việt Nam 
a. Hình thức sản xuất và xuất khẩu hàng dệt 
may 
Sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may thường 
tồn tại dưới  ... 
nhuận của các đại lý mua hàng và cơ sở thu 
mua. Vì vậy, hiện nay các nhà sản xuất sản 
phẩm dệt may của Việt Nam chủ yếu đang thực 
hiện kinh doanh theo hình thức CMT cho các 
hàng dệt may cấp thấp. Ở thị trường Mỹ, giá 
CIF cho các sản phẩm dệt may nhập khẩu từ 
Việt Nam là ở mức thấp nhất. Một số nguyên 
nhân lý giải cho việc này là kỹ năng thiết kế và 
thời gian sản xuất ở Việt Nam kéo dài. Chỉ có 
những sản phẩm dệt may cơ bản, không nhạy 
cảm về mặt thời trang thì mới được mua từ Việt 
Nam với mức giá thấp. 
b. Thời gian sản xuất và xuất khẩu sản 
phẩm dệt may 
Trong công đoạn sản xuất và xuất khẩu sản 
phẩm may mặc của các doanh nghiệp may, thời 
gian sản xuất ngày càng có tầm quan trọng tác 
động lớn đến quyết định của khách hàng quốc 
tế. Do nhu cầu thời trang ở các nước phát triển, 
thậm chí ở các nước đang phát triển, thường 
thay đổi rất nhanh và theo mỗi mùa nên việc rút 
ngắn thời gian sản xuất không chỉ giúp giảm chi 
phí cho các doanh nghiệp may xuất khẩu Việt 
Nam, mà còn đáp ứng được nhu cầu thời trang 
đang thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiên, theo 
VITAS, thời gian sản xuất của ngành may mặc 
Việt Nam dài hơn so với Trung Quốc, Ấn Độ 
và ngắn hơn so với Bangladesh, Campuchia. 
Sơ đồ 4. Thời gian sản xuất điển hình của chuỗi giá trị xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam. 
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2010.
Những nhân tố chính dẫn tới thời gian sản 
xuất kéo dài trong chuỗi giá trị xuất khẩu sản 
phẩm dệt may Việt Nam là: 
Nhập khẩu nguyên liệu: Sơ đồ 4 cho thấy 
mối liên kết dài nhất trong thời gian sản xuất là 
thời gian cần thiết dành cho nhập khẩu nguyên 
liệu từ các nước khác. Các doanh nghiệp xuất 
khẩu dệt may có thể tiến hành sản xuất với thời 
gian ngắn hơn nhiều nếu các nhà sản xuất sản 
phẩm dệt may có thể mua nguyên liệu trong 
nước. Thời gian từ lúc đặt hàng đến lúc ký kết 
hợp đồng có thể giảm xuống từ 15-25 ngày do 
các nhà sản xuất có thể chào giá và gửi vải mẫu 
nhanh hơn. Thời gian từ lúc ký kết hợp đồng 
đến lúc chuyển giao nguyên liệu cũng có thể 
giảm xuống được 15-25 ngày. 
Thủ tục hải quan: Thủ tục hải quan đối với 
tổng thời gian cần thiết cho nhập khẩu nguyên 
liệu và xuất khẩu thành phẩm là từ 6-14 ngày, 
việc này gây ra những bất lợi lớn cho xuất khẩu 
Giao 
nguyên 
liệu 
20-30 ngày 
 Hợp 
đồng 
Sản xuất 
Giao hàng cho 
khách hàng 
Nhật Bản 
20-30 
ngày 
25-30 
ngày Giao hàng cho 
khách hàng Mỹ 
Giao hàng cho 
khách hàng EU 40-50 
ngày 
35-40 ngày 
12-25 
ngày 65-95 ngày 
H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 49‐59 
56
sản phẩm dệt may của Việt Nam về mặt thời 
gian chuyển giao. [2] 
Vận chuyển đến nơi tiêu thụ: Khoảng cách 
địa lý giữa Việt Nam với Mỹ, EU và Nhật Bản 
cũng như công suất của các cảng Việt Nam đã 
làm cho nước ta giảm sức cạnh tranh hơn so với 
các đối thủ trên những thị trường này, đặc biệt 
là với Trung Quốc và Ấn Độ. Thời gian vận 
chuyển từ Việt Nam sang Mỹ là 35-45 ngày, 
trong khi đó từ Trung Quốc đến Mỹ chỉ có 12-
18 ngày (Bảng 3). Chuyên chở sản phẩm dệt 
may từ Việt Nam tới các thị trường này phải 
quá cảnh ở Hồng Kông hoặc Singapore. Tại 
những cảng này, các côngtenơ hàng của Việt 
Nam được chuyển sang những tàu lớn hơn để 
đưa tới các cảng đích. [2] 
Bảng 3. So sánh thời gian vận chuyển giữa Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ 
sang các thị trường lớn 
 Mỹ EU Nhật Bản 
Trung Quốc 12-18 ngày 25-30 ngày 2-4 ngày 
Ấn Độ 30-40 ngày 35-45 ngày 15-25 ngày 
Việt Nam 35-45 ngày 40-50 ngày 12-15 ngày 
Nguồn: Báo cáo chiến lược xuất khẩu hàng dệt may VITAS. 
3.3. Nguồn nguyên liệu đầu vào 
a. Lượng nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỷ 
trọng lớn 
Cho đến nay, ngành may mặc của Việt Nam 
vẫn chưa thoát khỏi tình trạng bị phụ thuộc khá 
nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. 
Các nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam 
hiện đang nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, 
Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Hồng Kông, với 
trị giá nguyên phụ liệu nhập khẩu thường chiếm 
gần 70-80% so với giá trị kim ngạch xuất khẩu. 
Tuy được chú trọng đầu tư về công nghệ, dây 
chuyền sản xuất hiện đại hơn nhưng nguyên 
liệu sản xuất trong nước hoặc không đủ cho nhu 
cầu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, hoặc 
không đáp ứng được tiêu chuẩn của khách hàng 
nước ngoài. Đối với nhiều đơn đặt hàng, phía 
nước ngoài cũng chỉ định luôn nhà cung cấp 
nguyên vật liệu khiến cho các doanh nghiệp 
may Việt Nam không có điều kiện sử dụng 
những nguyên liệu sản xuất trong nước với giá 
thành rẻ hơn. Như vậy, giá trị thực tế mà ngành 
may mặc thu được không hề cao so với con số 
kim ngạch xuất khẩu. 
Bên cạnh đó, việc vận chuyển, hải quan, 
thiết bị, chi phí vận chuyển liên quan đến nhập 
khẩu nguyên liệu vào Việt Nam làm cho chi phí 
nguyên vật liệu ở Việt Nam cao hơn so với 
Trung Quốc và Ấn Độ. Chi phí đầu vào của 
nguyên liệu ở Việt Nam cao hơn khoảng 25-
30% ở Trung Quốc. Vì chi phí nguyên liệu 
chiếm một phần lớn - 45% tổng chi phí, nên 
đây là một bất lợi lớn cho ngành dệt may nước 
ta. Số liệu thống kê hải quan mới nhất cho thấy, 
kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011 của 
ngành dệt may đạt 6,16 tỷ USD nhưng đã phải 
nhập tới 5,76 tỷ USD nguyên phụ liệu. Thời 
gian gần đây nhiều doanh nghiệp dệt may than 
phiền là càng xuất nhiều thì nguy cơ thua lỗ 
càng lớn cũng là do thiếu chủ động về nguyên 
liệu đầu vào. Phần lớn các phụ kiện của công 
nghiệp dệt may sản xuất trong nước chưa đáp 
ứng được đòi hỏi về mẫu mã, chất lượng cần 
thiết của sản phẩm xuất khẩu. Giá trị gia tăng 
trên mỗi sản phẩm xuất khẩu dệt may của Việt 
Nam còn rất thấp. 
b. Thiếu liên kết sợi - dệt nhuộm - may 
Trong năm phân khúc chính của chuỗi giá 
trị dệt may toàn cầu gồm: sản xuất nguyên liệu 
thô, sản xuất nguyên phụ liệu, may, xuất khẩu 
và phân phối bán lẻ thì ngành dệt may Việt 
Nam chủ yếu vẫn hoạt động ở phân khúc may - 
là phân khúc tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất. 
Nhìn lại quá trình phát triển của chuỗi giá trị 
ngành dệt may, có thể thấy sự phát triển thiếu 
đồng bộ giữa các phân khúc trong toàn bộ chuỗi 
H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 49‐59 
57
cung ứng, đặc biệt là sự yếu kém trong liên kết 
sợi - dệt nhuộm - may là nguyên nhân chính 
làm cho ngành dệt may Việt Nam không thể 
dịch chuyển sang các phân khúc có giá trị gia 
tăng cao hơn. Số liệu kim ngạch xuất khẩu hàng 
dệt may từ năm 2000-2010 cho thấy, trong tất 
cả các khâu của chuỗi giá trị dệt may Việt Nam 
thì may là ngành có sự phát triển rõ rệt nhất. 
Năm 2010, Việt Nam đã sản xuất được 2,6-2,8 
tỷ sản phẩm may mặc, trong đó khoảng 70% 
dành cho xuất khẩu, giá trị đạt trên 10 tỷ USD. 
Trong khi ngành sợi, may nước ta đã có 
những bước tiến tương đối dài thì ngành dệt 
vải, in nhuộm và hoàn tất vẫn chưa phát triển 
được như mong muốn. Năm 2010, ngành dệt 
sản xuất 1,1 tỷ mét vuông sản phẩm dệt thoi, 
150-200 nghìn tấn sản phẩm dệt kim và in 
nhuộm hoàn tất khoảng 800 triệu mét vuông, 
chỉ đáp ứng được khoảng 20-30% nhu cầu 
trong nước. Kết quả là trong khoảng 9 tỷ USD 
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2009, 
giá trị xuất khẩu vải chiếm chưa đến 430 triệu 
USD, nghĩa là ngành dệt chỉ đóng góp chưa đến 
5% giá trị xuất khẩu. Theo đánh giá của các 
chuyên gia, kết quả yếu kém này là do công 
đoạn dệt nhuộm của Việt Nam “đang chậm hơn 
các nước trong khu vực, nhất là công đoạn 
nhuộm, với 30% máy móc thiết bị cần khôi 
phục, hiện đại hóa do đã sử dụng trên 20 năm” 
[5]. Sự yếu kém của khâu dệt nhuộm đã hạn chế 
sự phát triển của hoạt động sản xuất sợi và may 
mặc, do đó ảnh hưởng đến khả năng phát triển 
của ngành dệt may. Điều này thể hiện ở các 
khía cạnh sau: 
Thứ nhất, làm hạn chế khả năng tiêu thụ sợi 
sản xuất trong nước. Đa số lượng sợi sản xuất 
ra đều xuất khẩu. Theo báo cáo khảo sát năng 
lực sản xuất kinh doanh ngành sợi Việt Nam 
2010, chỉ có 34% sản lượng sợi (khoảng 178 
nghìn tấn) sản xuất tại Việt Nam được tiêu thụ 
ở trong nước, khoảng 66% sản lượng còn lại 
được xuất khẩu. 
Thứ hai, dệt nhuộm đóng vai trò quan trọng 
đối với ngành may vì vải là yếu tố quan trọng 
quyết định đến chi phí và chất lượng cuối cùng 
của một sản phẩm may mặc. Theo số liệu của 
Tổng cục Thống kê năm 2010 cho thấy, tổng 
nhu cầu của ngành may xuất khẩu đối với các 
loại nguyên phụ liệu do ngành dệt cung cấp là 
gần 9 tỷ USD, trong đó vải chiếm khoảng 5,4 tỷ 
USD. Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong 
việc cung cấp nguyên liệu tại chỗ cho ngành 
may nhưng trên thực tế, ngành dệt nhuộm Việt 
Nam chưa thực hiện tốt vai trò đó. Hiện nay, 
các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt 
Nam đều không hài lòng cả về số lượng lẫn 
chất lượng vải nội vì không đáp ứng được yêu 
cầu về sản xuất hàng may mặc của họ. 
Từ phân tích trên cho thấy, ngành dệt 
nhuộm đóng vai trò rất quan trọng đối với 
ngành sản xuất sợi, may nói riêng và tổng thể 
ngành dệt may nói chung. Nhưng hiện nay, 
ngành dệt nước ta chưa thể hiện được vai trò 
đó, làm cho mối liên kết sợi - dệt nhuộm - may 
vừa lỏng lẻo, vừa yếu kém. 
3.4. Trung gian 
Khâu trung gian là một mắt xích quan trọng 
của chuỗi giá trị xuất khẩu hàng dệt may của 
Việt Nam. Lý do chính giải thích vì sao trong 
hầu hết các đơn hàng dệt may từ Việt Nam mà 
khách hàng quốc tế lựa chọn đều thông qua các 
nhà trung gian là vì hiện tại, chỉ có một số ít 
nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam có khả 
năng cung cấp được các dịch vụ như nguồn 
nguyên liệu, thiết kế, các hoạt động hậu cần, 
dịch vụ trọn gói cho người mua, mà đây lại là 
những điều kiện tiên quyết để khách hàng trực 
tiếp lựa chọn nguồn hàng từ một quốc gia. Bên 
cạnh đó, khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và 
thị trường Mỹ hoặc EU cũng ảnh hưởng lớn đến 
các yếu tố về giá cả (kiểm soát chất lượng và 
chi phi đi lại). Cuối cùng, phần lớn khách hàng 
quốc tế theo truyền thống thường tin tưởng vào 
các đại lý của họ hơn là thực hiện tìm kiếm 
nguồn hàng theo phương thức tiến hành nội bộ. 
Trong tất cả các trường hợp thì một cơ sở thu 
mua chịu trách nhiệm về cả một khu vực, ví dụ 
như khu vực ASEAN. Với những nhà xuất khẩu 
lớn như Trung Quốc và Ấn Độ, khách hàng 
H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 49‐59 
58
quốc tế lớn thường thiết lập một văn phòng ở 
mỗi quốc gia. Điều này giúp các nhà nhập khẩu 
rất thuận lợi trong việc xác định nhà cung cấp 
phù hợp nhất đối với sản phẩm nào đó về giá 
cả, chất lượng, thời gian giao hàng, hạn ngạch; 
giám sát chất lượng đối với sản xuất; tìm và ký 
hợp đồng với các nhà cung cấp nguyên liệu; sắp 
đặt việc chuyên chở nguyên liệu vào nước của 
nhà sản xuất và chuyên chở thành phẩm ra khỏi 
nước đó. 
4. Kết luận 
Từ việc phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt 
may theo cách tiếp cận từ sản phẩm đầu ra như 
trên cho thấy Việt Nam có nhiều cách để nâng 
cao hiệu quả của sản phẩm dệt may xuất khẩu: 
Thứ nhất, các doanh nghiệp dệt may cần 
tích cực và chủ động vươn lên, xâm nhập vào 
mạng lưới phân phối toàn cầu để bán được sản 
phẩm cho các nhà buôn (không phải qua trung 
gian môi giới), thậm chí có thể bán đến tận tay 
người tiêu dùng trên các thị trường lớn. Hiện tại 
Mỹ, EU và Nhật Bản đang là những quốc gia 
nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt 
Nam, chiếm gần 80% kim ngạch xuất khẩu dệt 
may nước ta. Đồng thời, các thị trường này đều 
là những thị trường truyền thống. Do vậy việc 
hiểu biết và nắm chắc nhu cầu của các thị 
trường này sẽ giúp các doanh nghiệp dệt may 
gia tăng đáng kể giá trị của khâu này trong 
chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam. 
Thứ hai, thời gian sản xuất kéo dài là một 
trong những trở ngại lớn của hàng dệt may Việt 
Nam trong việc giảm chi phí xuất khẩu. Việc 
giảm bớt thời gian sản xuất thông qua một số 
biện pháp như tăng khả năng cung cấp nguyên 
liệu của các cơ sở trong nước, cải tiến quy trình 
sản xuất và hợp lý hóa công tác tổ chức lao 
động. Bên cạnh đó, việc giảm thời gian làm thủ 
tục hải quan, nâng cao năng suất cũng là những 
nhân tố không kém phần quan trọng giúp gia 
tăng giá trị cho hàng dệt may xuất khẩu. 
Thứ ba, phát triển sản xuất nguyên phụ liệu. 
Rõ ràng, nhu cầu sử dụng nguyên phụ liệu trong 
nước của các doanh nghiệp dệt may là rất lớn 
và việc chủ động nguồn nguyên phụ liệu trong 
nước là mong muốn của hầu hết các doanh 
nghiệp nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản 
phẩm dệt may xuất khẩu. Điều này có thể thực 
hiện được thông qua thiết lập các trung tâm về 
nguồn nguyên liệu và thúc đẩy sản xuất nguyên 
liệu ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây là bài toán 
không đơn giản nhằm đẩy mạnh việc cung cấp 
nguyên liệu bông, xơ sản xuất trong nước, từng 
bước đáp ứng nhu cầu bông, giảm nhập siêu, 
tạo điều kiện để ngành dệt may tăng trưởng và 
phát triển ổn định. 
Thứ tư, tích cực đầu tư để làm chủ khâu 
thiết kế thời trang, bằng cách cần tập trung đào 
tạo đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp cho lĩnh 
vực thời trang. Khi mẫu thiết kế thời trang của 
Việt Nam được thị trường thế giới chấp nhận 
thì sẽ tăng được giá trị của khâu này trong 
chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may thuộc chuỗi giá 
trị toàn cầu. 
Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện và đặc 
điểm hiện tại của ngành dệt may xuất khẩu 
Việt Nam, vấn đề đặt ra là: Phải chăng dệt 
may Việt Nam sẽ dàn hàng ngang thực hiện tất 
cả các giải pháp trên, hay sẽ lựa chọn những 
khâu phù hợp nhất để triển khai? Điều này rất 
cần một nghiên cứu tiếp theo để trả lời thỏa 
đáng vấn đề nêu trên. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Hoàng Ánh (2009), “Kinh nghiệm tham gia 
chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Hàn 
Quốc”, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại - Trường Đại học 
Ngoại thương. 
[2] Hiệp hội Dệt may Việt Nam (2006), “Báo cáo chiến 
lược xuất khẩu hàng dệt may VITAS”. 
[3] Nguyễn Mạnh Hùng (2008), “Tìm hiểu mô hình 
chuỗi giá trị dệt may toàn cầu”, Nội san Khoa học 
và Giáo dục, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành. 
[4] Anh Quân (2010), “Xuất khẩu hàng dệt may Việt 
Nam - Triển vọng qua các thị trường chính”, Tạp 
chí Hải quan Việt Nam. 
[5] 
may-2011-mot-nam-vuot-kho 
H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 49‐59 
59
Analyzing Vietnamese textile and 
garment exporting value chain 
Assoc.Prof.Dr. Ha Van Hoi 
Faculty of International Business and Economics, VNU University of Economics and Business, 
 144 Xuan Thuy, Hanoi, Vietnam 
Abstract. This article presents the nature of the global textile value chain, and simultaneously 
points out the specific stages of the textile value chain such as producing raw materials, spinning, 
weaving, dyeing, tailoring and distributing the completed products, in which the role of the link 
between the textile and garment industry in the global textile value chain is emphasized. The paper is 
based on the output approach to analyze and clarify the major components of the textile exporting 
value chain. Those components consists of international buyers, domestic manufacturers, input 
suppliers and intermediaries. For each component, the article also points out the reasons for the low 
added value of Vietnamese textile and garment export in the global textile value chain. 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_chuoi_gia_tri_xuat_khau_det_may_viet_nam.pdf