Phân tích lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi viết các thể loại Tiểu luận học thuật

TÓM TẮT: Mục đích của bài nghiên cứu này là nhằm phân tích lỗi sai sinh viên bậc đại

học thường phạm phải do ảnh hưởng của tiếng Việt khi viết 3 loại tiểu luận học thuật: so

sánh, nguyên nhân - kết quả và tranh luận. Nghiên cứu được tiến hành trên 50 sinh viên

năm 2 chuyên ngành ngôn ngữ Anh và 150 bài viết, bằng cách sử dụng phương pháp phân

tích lỗi. Kết quả nghiên cứu cho thấy dưới sự ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất, sinh viên

sẽ mắc phải 14 nhóm lỗi sai, và cấu trúc lỗi sai trong mỗi loại là khác nhau. Như vậy, đối

với mỗi loại tiểu luận khác nhau, sinh viên sẽ gặp phải những vấn đề khác nhau về mặt

ngôn ngữ. Do đó, trước khi giảng dạy, giảng viên nên xem xét ảnh hưởng của tiếng Việt, từ

đó có cách thức chuẩn bị ngôn ngữ phù hợp cho người học.

pdf 10 trang yennguyen 6460
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi viết các thể loại Tiểu luận học thuật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi viết các thể loại Tiểu luận học thuật

Phân tích lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi viết các thể loại Tiểu luận học thuật
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thị Thùy Trang 
85 
PHÂN TÍCH LỖI SAI CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM 
KHI VIẾT CÁC THỂ LOẠI TIỂU LUẬN HỌC THUẬT 
ANALYZING VIETNAMESE STUDENTS’ ERRORS IN WRITING ACADEMIC ESSAYS 
PHẠM THỊ THÙY TRANG 
 ThS. Trƣờng Đại học Văn Lang, phamthithuytrang@vanlanguni.edu.vn, Mã số: TCKH10-02-2018 
TÓM TẮT: Mục đích của bài nghiên cứu này là nhằm phân tích lỗi sai sinh viên bậc đại 
học thường phạm phải do ảnh hưởng của tiếng Việt khi viết 3 loại tiểu luận học thuật: so 
sánh, nguyên nhân - kết quả và tranh luận. Nghiên cứu được tiến hành trên 50 sinh viên 
năm 2 chuyên ngành ngôn ngữ Anh và 150 bài viết, bằng cách sử dụng phương pháp phân 
tích lỗi. Kết quả nghiên cứu cho thấy dưới sự ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất, sinh viên 
sẽ mắc phải 14 nhóm lỗi sai, và cấu trúc lỗi sai trong mỗi loại là khác nhau. Như vậy, đối 
với mỗi loại tiểu luận khác nhau, sinh viên sẽ gặp phải những vấn đề khác nhau về mặt 
ngôn ngữ. Do đó, trước khi giảng dạy, giảng viên nên xem xét ảnh hưởng của tiếng Việt, từ 
đó có cách thức chuẩn bị ngôn ngữ phù hợp cho người học. 
Từ khóa: phân tích lỗi sai, kỹ năng viết, ảnh hưởng ngôn ngữ 1, tiểu luận học thuật. 
ABSTRACT: This article aims to analyze errors of university students which are often 
made by the influence of Vietnamese when writing three types of academic essays: 
comparison, cause-effect and argument. A research was conducted on 50 second year 
students of English major and 150 essays, using error analysis method. Research results 
show that under the influence of the first language, students will encounter 14 groups of 
errors, and the structure of errors in each category is different. Thus, for different types of 
essays, students will encounter different language problems. Therefore, before teaching, 
lecturers should consider the influence of Vietnamese, so that they can have proper 
language preparation for learners. 
Key words: error analysis, writing skills, linguistic influence, academic essay. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong tất cả các kỹ năng tiếng Anh thì 
kỹ năng viết, đặc biệt là dạng thức viết tiểu 
luận học thuật, luôn là vấn đề lớn đối với 
sinh viên, kể cả sinh viên chuyên ngữ. 
Nguyên nhân quan trọng nhất là do trong 
quá trình viết, sinh viên phải kết hợp và vận 
dụng rất nhiều kiến thức thuộc nhiều phạm 
trù ngôn ngữ và kỹ năng, trong đó có nhóm 
kiến thức về cấu trúc ngữ pháp và ngữ 
nghĩa. Tác giả Weigle nhận xét rằng quá 
trình viết là quá trình tái tạo lại các ý tƣởng, 
ý kiến, quan điểm, các mối quan hệ dƣới 
dạng ngôn ngữ, theo một cấu trúc và một 
trình tự nhất định, và quá trình tái tạo này 
thƣờng sẽ bị gián đoạn và tác động khi 
ngƣời viết phải tìm kiếm cấu trúc và ngữ 
vựng phù hợp [12]. Vì thế, đối với sinh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
86 
viên học tiếng Anh nhƣ ngôn ngữ thứ hai 
thì quá trình này sẽ còn khó khăn hơn nữa 
khi sinh viên còn thiếu cả về kiến thức 
ngôn ngữ và năng lực ngôn ngữ (Language 
Knowledge And Language Competence). 
Mặc dù kỹ năng viết đƣợc xem là kỹ 
năng khó thuần thục nhất, đó lại là kỹ năng 
cực kỳ quan trọng trong thời đại ngày nay 
khi các quốc gia nói tiếng Anh đang đẩy 
mạnh xuất khẩu giáo dục và ngày càng có 
nhiều tạp chí và các ấn phẩm khoa học 
đƣợc viết bằng tiếng Anh. Chính vì thế, 
chƣơng trình đào tạo tiếng Anh tại Việt 
Nam hiện nay thƣờng lồng ghép các học 
phần giảng dạy kỹ năng viết học thuật. Đặc 
biệt đối với chƣơng trình đào tạo sinh viên 
chuyên ngữ, kỹ năng viết tiếng Anh theo 
phong cách học thuật chiếm một vai trò rất 
quan trọng. Vì thế, đã có rất nhiều nghiên 
cứu đƣợc thực hiện nhằm giúp sinh viên cải 
thiện tốt kỹ năng này. Có thể kể đến những 
nghiên cứu liên quan đến vấn đề nhận diện 
và phân loại lỗi sai của sinh viên ở cấp độ 
câu và đoạn, hay những phƣơng pháp, cách 
thức nhằm tăng mức độ chính xác và lƣu 
loát khi viết (Writing Accuracy And 
Writing Fluency) hay cách thức đƣa phản 
hồi hiệu quả từ giáo viên và nhóm bạn học. 
Có thể tham khảo một đoạn văn do 
sinh viên chuyên ngữ viết trong học phần 
Writing 4: “Secondly, cyber bullying is 
becoming crisis of morale. Bullying other 
people not only makes them feel stressed 
but also leads to do negative things. For 
example, they can use alcohol intakes, 
drugs, and so on. Moreover, cyber bullying 
has resulted in tragic events including 
suicide, self – harm and clearly. For 
instance, when young people bully others 
very terrible, the weaker studied is able to 
think dead as they feel very tired, 
inferiority complex, and not have future. 
When they ginger communicate with people 
around them, they feel lonely, no door to 
exit. Hence, the bad thrilling is created by 
bullying others through Internet (Trích từ 
bài luận phân tích nguyên nhân – kết quả 
“The effects of cyberbullying”). 
Trong đoạn văn trên, ngƣời viết đã 
mắc phải rất nhiều lỗi sai về cả ngữ pháp 
và cách dùng từ, và trong không ít trƣờng 
hợp, các lỗi sai đã làm cho đoạn văn trở 
nên khá khó hiểu. Xét về cấu trúc đoạn 
văn, ngƣời viết vẫn có thể nắm đƣợc cách 
thức khai triển một đoạn văn cơ bản bao 
gồm câu mở đoạn và các câu khai triển 
đoạn. Tuy nhiên, ngƣời viết gặp rất nhiều 
vấn đề trong việc diễn đạt ý, từ cách sử 
dụng thì, dùng từ, cụm từ, kết ngôn 
(Collocations), cho đến trật tự từ. Rõ ràng 
là, trong 2 loại lỗi sinh viên thƣờng mắc 
phải khi viết, là lỗi sai trong quá trình phát 
triển ngôn ngữ (Intralingual/ 
Developmental Errors) và lỗi sai do ảnh 
hƣởng của tiếng mẹ đẻ (Interlingual/ 
Transfer Errors), thì loại lỗi thứ 2 thƣờng 
chiếm tỷ lệ cao hơn, đặc biệt khi ngƣời 
viết cần diễn tả những ý tƣởng phức tạp. 
Trong khoảng một thập niên trở lại 
đây, đã có nhiều nghiên cứu đƣợc thực hiện 
chứng minh sức ảnh hƣởng của tiếng mẹ đẻ 
đối với kỹ năng viết ngôn ngữ thứ hai. Tác 
giả Camilleri [4] nghiên cứu tầm ảnh 
hƣởng của tiếng mẹ đẻ đối với sinh viên 
Malta khi viết tiếng Anh, thông qua 5 giai 
đoạn nghiên cứu bao gồm: thu thập dữ liệu, 
phân tích lỗi sai, mô tả lỗi sai, phân loại lỗi 
và phân tích cấu trúc lỗi. Theo kết quả 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thị Thùy Trang 
87 
nghiên cứu, có 13 loại lỗi sai thƣờng gặp, 
bao gồm: danh từ, trạng từ, động từ, tính từ, 
hình thức động từ, giới từ, mạo từ, lỗi chính 
tả, hòa hợp động từ, thành ngữ, đại từ, thể 
thụ động, và trật tự từ. Nguyên nhân của lỗi 
sai là do ảnh hƣởng của tiếng mẹ đẻ khi 
sinh viên thƣờng dịch trực tiếp từ ngôn ngữ 
thứ nhất sang ngôn ngữ thứ hai. Hylan và 
Anan [7] khảo sát quan điểm, và đánh giá 
của giáo viên về tầm ảnh hƣởng của ngôn 
ngữ thứ nhất đến kỹ năng viết ngôn ngữ thứ 
hai. Trong số 16 giảng viên đƣợc phỏng 
vấn, đa số cho rằng những lỗi sai về cấu 
trúc câu thƣờng là do sinh viên chuyển dịch 
từ cấu trúc của ngôn ngữ thứ nhất là tiếng 
Nhật. Tác giả Jenwitheesuck [8] khảo sát 
nguyên nhân dẫn đến các lỗi viết sai của 
sinh viên năm 3 ở Thái Lan. Nghiên cứu 
chỉ ra rằng các lỗi sai thƣờng là do sinh 
viên thiếu năng lực vận dụng kiến thức về 
ngữ pháp, cấu trúc và từ vựng. Các tác giả 
đã chỉ ra rằng do thiếu kiến thức liên quan, 
nên ngƣời học thƣờng chuyển dịch những 
yếu tố của ngôn ngữ Thái và đƣa vào bài 
viết tiếng Anh. 
Nhƣ vậy, từ những nghiên cứu đƣợc 
đƣa ra, có thể thấy ngôn ngữ thứ nhất gây 
ra những trở ngại không thể tránh khỏi cho 
ngƣời học tiếng Anh, và ảnh hƣởng này có 
thể thấy rất rõ trong kỹ năng viết tiếng 
Anh. Vì thế, đã có rất nhiều nhà ngôn ngữ, 
nhà giáo dục đã tham gia nghiên cứu trong 
lĩnh vực này nhằm tìm ra các biện pháp và 
phƣơng thức giúp ngƣời học vƣợt qua 
những trở ngại ngôn ngữ. Tuy nhiên, có rất 
ít nghiên cứu đồng dạng trong môi trƣờng 
Việt Nam, đặc biệt là về đối tƣợng sinh 
viên chuyên ngữ. Đồng thời, cũng rất ít 
nghiên cứu phân tích các dạng lỗi sai trong 
các loại tiểu luận học thuật khác nhau. 
Trong bối cảnh trên, bài nghiên cứu này tập 
trung phân tích lỗi sai của sinh viên chuyên 
ngành tiếng Anh ở 3 thể loại tiểu luận: so 
sánh, nguyên nhân - kết quả và tranh luận 
(Comparison/Contrast Essays; Cause-effect 
Essays; Argumentative Essays). Bài nghiên 
cứu đƣợc tiến hành nhằm phân tích cấu trúc 
lỗi sai của 3 dạng bài luận học thuật. Đồng 
thời bài viết cũng nhằm kiểm tra giả thuyết 
là mỗi dạng bài luận học thuật sẽ có một 
cấu trúc lỗi sai khác nhau và vì thế, trong 
quá trình giảng dạy, giảng viên cần dự đoán 
trƣớc cấu trúc lỗi sai sinh viên thƣờng gặp 
phải và nhấn mạnh vào những cấu trúc đó 
khi giảng dạy. 
2. CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 
ĐẾN VIỆC DẠY VÀ HỌC MÔN VIẾT 
TIẾNG ANH VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA 
NGÔN NGỮ THỨ NHẤT 
2.1. Error Analysis (EA: phƣơng pháp 
phân tích lỗi sai) 
Error analysis là một trong những 
phƣơng pháp đƣợc các nhà nghiên cứu đƣa 
ra nhằm phân tích và phân loại các dạng lỗi 
sai. Phƣơng pháp EA nghiên cứu các dạng 
lỗi sai và nguyên nhân dẫn đến lỗi sai tùy 
vào cấp độ thành thạo ngôn ngữ, ví dụ 
những lỗi sai về thiếu từ và lặp từ, lỗi sai về 
kiến thức ngôn ngữ hay kỹ năng vận dụng 
ngôn ngữ do ảnh hƣởng của ngôn ngữ thứ 
nhất [9]. Phƣơng pháp EA đƣợc nhiều tác 
giả sử dụng trong nghiên cứu và cũng đƣợc 
đánh giá từ nhiều khía cạnh khác nhau. Ví 
dụ, theo tác giả Dai và Shu [6], sử dụng EA 
trong giảng dạy giúp giáo viên có thể hiểu 
đƣợc cấp độ thành thạo ngôn ngữ hiện tại 
của sinh viên, và giúp các nhà nghiên cứu 
hiểu rõ hơn quá trình học và kiến tạo ngôn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
88 
ngữ. Đối với ngƣời học, hiểu rõ cấu trúc lỗi 
sai của bản thân sẽ giúp cải thiện kỹ năng 
ngôn ngữ. 
2.2 Những khó khăn trong kỹ năng viết 
của ngƣời học ngôn ngữ thứ hai 
Trong ba yếu tố cơ bản nhất của viết, 
bao gồm nội dung, cấu trúc bài viết, và 
ngôn ngữ, thì có thể nói vấn đề ngôn ngữ 
(bao gồm cách sử dụng từ vựng, cấu trúc 
câu, văn phong) gây ra nhiều khó khăn nhất 
đối với ngƣời học do quá trình tích lũy, 
phát triển, và vận dụng ngôn ngữ là một 
quá trình dài, phức tạp và đòi hỏi nhiều nỗ 
lực từ phía ngƣời học. Olsen [11] thấy rằng 
ngƣời học ngôn ngữ thứ 2, do hạn chế về 
kiến thức và năng lực ngôn ngữ, thƣờng 
gặp rất nhiều trở ngại khó khăn để có thể 
viết đƣợc bài viết tốt, và sự hạn chế này 
cũng làm ngƣời học nhẫm lẫn giữa cấu trúc 
của ngôn ngữ thứ nhất và cấu trúc của ngôn 
ngữ thứ 2. Đồng thời, Weigle [12] cũng 
cho rằng những hạn chế trên sẽ là một trở 
ngại rất lớn trong quá trình viết khi ngƣời 
viết chỉ tập trung toàn bộ sự chú ý vào ngôn 
ngữ và cách diễn đạt chứ không chú trọng 
vào nội dung hay cấu trúc bài luận. Nhƣ 
vậy, khi học ngôn ngữ thứ 2 thì kỹ năng 
viết là kỹ năng rất khó đạt đƣợc nếu hai 
ngôn ngữ có sự khác biệt lớn về mặt cấu 
trúc và ngữ pháp. 
Tác giả Chan đã nghiên cứu về hiện 
tƣợng chuyển dịch cấu trúc từ ngôn ngữ thứ 
nhất sang tiếng Anh của sinh viên Trung 
Quốc [5]. 710 sinh viên đƣợc yêu cầu dịch 
một số câu từ tiếng Trung sang tiếng Anh 
và số liệu thu thập đƣợc sẽ đƣợc phân tích, 
tập trung vào lỗi sai trong 5 khía cạnh ngôn 
ngữ bị ảnh hƣởng của tiếng mẹ đẻ, bao 
gồm: vị trí trạng từ, sử dụng động từ liên 
kết (Copula Verbs), mệnh đề quan hệ, cấu 
trúc “there be” và dạng động từ. Kết quả 
cho thấy năng lực ngôn ngữ sinh viên càng 
thấp thì tần suất lỗi sai càng nhiều. 
2.3. Phân biệt các dạng lỗi sai trong tiếng 
Anh: Error (lỗi sai do thiếu năng lực 
ngôn ngữ) và Mistakes (Lỗi sai do thiếu 
kỹ năng sử dụng ngôn ngữ) 
Khi nói đến sự ảnh hƣởng của ngôn 
ngữ thứ nhất đối với ngôn ngữ thứ hai thì 
nhất thiết phải làm rõ sự khác nhau giữa 
errors và mistakes. Brown [3] mô tả 
mistakes là những sai sót của ngƣời học khi 
vận dụng cấu trúc ngữ pháp khi nói và viết. 
Điều đó có nghĩa là, ngƣời học có thể nắm 
đƣợc kiến thức về cấu trúc ngôn ngữ, 
nhƣng gặp phải khó khăn khi vận dụng cấu 
trúc ngôn ngữ vào các kỹ năng nói và viết. 
Trong khi đó, errors đƣợc định nghĩa là 
những lỗi sai ngƣời học mắc phải khi 
không biết hoặc không nắm đƣợc cấu trúc 
ngữ pháp hay từ vựng. Nhƣ vậy, errors chỉ 
những mảng kiến thức ngôn ngữ còn khiếm 
khuyết, khi ngƣời học chƣa biết phân biệt 
giữa cách dùng đúng và cách dùng sai. 
Ngƣợc lại, mistakes phản ánh sự khiếm 
khuyết trong kỹ năng vận dụng các kiến 
thức ngôn ngữ đã đƣợc học khi nói và viết. 
2.4. Ảnh hƣởng của ngôn ngữ thứ nhất 
đối với những lỗi viết sai của ngôn ngữ 
thứ hai 
Nhƣ đã nói ở trên, sự chuyển dịch cấu 
trúc từ ngôn ngữ thứ nhất xảy ra khi ngƣời 
học sử dụng cấu trúc ngôn ngữ của tiếng mẹ 
đẻ khi viết bằng ngôn ngữ thứ hai. Vậy tại 
sao xảy ra quá trình này? Bhela cho rằng, 
hiện tƣợng này là do ngƣời học nghĩ rằng 
hai ngôn ngữ có sự tƣơng đƣơng và sự 
thống nhất [2]. Nhƣng hiển nhiên là không 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thị Thùy Trang 
89 
có hai ngôn ngữ nào là hoàn toàn đồng nhất 
về mặt cấu trúc, ngữ vựng hay hệ thống tƣ 
duy ngôn ngữ; chính vì vậy, sự khái quát 
hóa cấu trúc từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ 
kia sẽ dẫn đến những lỗi sai khi nói và viết. 
Sự ảnh hƣởng của ngôn ngữ thứ nhất 
cũng đã đƣợc chứng minh thực nghiệm 
trong môi trƣờng lớp học. Ví dụ, tác giả 
Bennui [1] đã chỉ ra đƣợc những lỗi về 
cách dùng kết ngôn hay ngữ pháp do sinh 
viên Thái mƣợn từ tiếng mẹ đẻ, ví dụ nhƣ 
cách dùng của “do” và “make”, “turn on” 
và “open”, khi sinh viên không đủ từ vựng 
hay cấu trúc thích hợp để diễn đạt bằng 
ngôn ngữ thứ 2. Tác giả cũng chỉ ra nguyên 
nhân là do ngƣời học luôn suy nghĩ bằng 
ngôn ngữ thứ nhất trƣớc khi viết, và vì thế 
sẽ không thể tránh khỏi tƣ duy theo ngôn 
ngữ thứ nhất. 
Tóm lại, theo định nghĩa, ảnh hƣởng 
của ngôn ngữ thứ nhất xảy ra khi ngƣời học 
khái quát hóa cấu trúc ngôn ngữ trong tiếng 
mẹ đẻ để sử dụng trong ngôn ngữ đích, và 
điều này sẽ dẫn đến những lỗi sai khi viết 
bằng ngôn ngữ thứ hai, đặc biệt là khi 
ngƣời viết cần diễn đạt những khái niệm 
vƣợt lên trên năng lực ngôn ngữ hiện tại. 
2.5. Các dạng lỗi sai do ảnh hƣởng của 
ngôn ngữ thứ nhất 
Có rất nhiều nghiên cứu tập trung phân 
tích cấu trúc, hệ thống các lỗi sai khi viết 
do bị ảnh hƣởng của ngôn ngữ thứ nhất, và 
các nghiên cứu chỉ ra rằng ở mỗi ngôn ngữ 
khác nhau, với sự tƣơng tác khác nhau thì 
cấu trúc và hệ thống lỗi sai là khác nhau. 
Ví dụ, khi Bhela [2] quan sát các lỗi sai 
do ngƣời học đến từ các quốc gia khác 
nhau mắc phải, bao gồm Campuchia, Ý, 
Tây Ban Nha và Việt Nam. Khi viết đoạn 
văn kể chuyện dựa vào hình ảnh, ngƣời học 
mắc phải những lỗi sai nhiều nhất trong các 
lĩnh vực sau: (1) sở hữu cách, (2) dấu câu, 
(3) giới từ, (4) chính tả, (5) viết hoa chữ cái 
đầu, (6) thì hiện tại và quá khứ tiếp diễn, 
(7) đại từ, (8) từ vựng và (9) thể bị động và 
chủ động. Còn theo tác giả Chan [5], sinh 
viên Trung Quốc thƣờng sẽ mắc lỗi trong 5 
lĩnh vực sau: động từ kết nối („to be‟), vị trí 
trạng từ, sử dụng „there be‟, sử dụng mệnh 
đề quan hệ và cách sử dụng nội động từ và 
ngoại động từ. Một nghiên cứu của tác giả 
khác, Bennui [1], thì ngoài những ảnh 
hƣởng về cấu trúc câu và sử dụng từ vựng, 
sinh viên Thái còn chịu ảnh hƣởng về mặt 
phong cách viết và cách diễn đạt ý, ví dụ 
nhƣ cấu trúc đoạn văn, bài văn, văn phong 
và cách thức biểu đạt những ý niệm. 
Có thể thấy, có rất nhiều nghiên cứu 
khoa học về ảnh hƣởng của tiếng mẹ đẻ 
trong quá trình viết bằng ngôn ngữ thứ 2. 
Tuy nhiên, ở Việt Nam có rất ít các nghiên 
cứu cùng loại nhằm giúp giảng viên dự 
đoán những lỗi sai sinh viên có thể mắc 
phải trong quá trình viết luận. 
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu 
Đối tƣợng đƣợc lựa chọn cho nghiên 
cứu là 50 sinh viên năm 2 đang tham gia học 
phần Academic Writing thuộc Khoa Ngoại 
ngữ Trƣờng Đại học Văn Lang. Các sinh 
viên đƣợc chọn phải thỏa mãn điều kiện tiên 
quyết là sinh viên phải thi đạt 3 học phần 
viết cơ bản trƣớc đó. Tất cả sinh viên đƣợc 
chọn đều có ngôn ngữ thứ nhất là tiếng Việt. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
90 
3.2. Quy trình thu thập số liệu 
Sinh viên phải viết 3 bài luận học thuật 
liên quan đến 3 thể loại khác nhau, bao 
gồm: so sánh, nguyên nhân - kết quả và 
tranh luận, với số từ trong mỗi bài dao động 
từ 200 đến 250 từ. Đây là 3 dạng tiểu luận 
sinh viên phải hoàn thành trong học phần và 
đƣợc viết cách nhau 2 tuần. Ba chủ đề cho 
bài luận lần lƣợt là (1) Online learning vs. 
face-to-face learning, (2) Causes and effects 
of obesity among children, (3) Government 
investment in education. Mỗi bài luận sẽ 
đƣợc hoàn thành tại lớp trong 60 phút và 
sinh viên không đƣợc sử dụng bất cứ tự 
điển hay tài liệu gì. Tác giả sẽ thu thập bài 
viết và liệt kê các lỗi sai trong mỗi bài, phân 
nhóm và phân tích lỗi sai sử dụng phƣơng 
pháp EA. Quy trình thu thập số liệu đƣợc 
tóm tắt trong bảng sau: 
Hình 1. Quy trình thu thập dữ liệu 
3.3. Cách phân tích số liệu 
Bài luận của sinh viên đƣợc đọc và 
phân tích theo từng dòng nhằm phát hiện 
những lỗi sai theo quy trình EA. Các lỗi sai 
sẽ đƣợc thống kê và phân loại. Việc phân 
loại lỗi sai đƣợc tác giả tham khảo và hỏi ý 
kiến từ 2 giảng viên khác cùng dạy môn 
Viết luận học thuật. Thống kê mô tả sẽ dựa 
trên mô tả về tần suất xuất hiện, điểm trung 
bình và tỷ lệ phần trăm. 
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong 80 bài tiểu luận học thuật, có 14 
nhóm lỗi sai do ảnh hƣởng của tiếng Việt 
gây ra. Các nhóm lỗi sai bao gồm: danh từ 
số ít/nhiều, hình thức động từ, cách chọn 
từ, cấu trúc câu, mạo từ, giới từ, đại từ, từ 
nối, hòa hợp chủ từ - động từ, cấu trúc song 
song, cấu trúc so sánh, mệnh đề trạng ngữ, 
mệnh đề quan hệ, văn phong. Mặc dù 3 thể 
loại tiểu luận có cùng các nhóm lỗi, tần 
suất xuất hiện của mỗi loại trong mỗi dạng 
tiểu luận khá khác nhau, đƣợc thể hiện 
trong bảng dƣới đây. 
Bài luận so sánh 
Online learning vs 
face-to-face learning 
Bài luận nguyên nhân - kết quả 
Obesity 
Bài luận tranh luận 
Government investment in 
education 
PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH LỖI 
Phân loại các lỗi sai trong bài 
luận so sánh 
Phân loại các lỗi sai trong bài luận 
phân tích nguyên nhân – kết quả 
Phân loại các lỗi sai trong 
bài luận tranh luận 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thị Thùy Trang 
91 
Bảng 1. Lỗi sai của sinh viên trong bài luận so sánh 
Loại errors Tần suất Trung bình Tỷ lệ phần trăm 
Cấu trúc câu (SS) 
Cách chọn từ (WC) 
Danh từ số ít / nhiều (N) 
Hình thức động từ (VF) 
Mạo từ (A) 
Cấu trúc so sánh (CT) 
Giới từ (Pre) 
Đại từ (Pro) 
Mệnh đề quan hệ (RC) 
Văn phong (WS) 
Từ nối (L) 
Hòa hợp chủ từ - động từ (A) 
Cấu trúc song song (Pa) 
Mệnh đề trạng ngữ (AV) 
313 
257 
232 
164 
131 
121 
105 
90 
85 
83 
47 
40 
23 
10 
6.25 
5.15 
4.63 
3.28 
2.62 
2.42 
2.11 
1.80 
1.70 
1.65 
0.95 
0.80 
0.45 
0.20 
18.40 
15.10 
13.64 
9.64 
7.70 
7.11 
6.17 
5.29 
5.00 
4.88 
2.76 
2.35 
1.35 
0.59 
Tổng 1,701 34.02 100 
Theo bảng số liệu, lỗi sai về cấu trúc 
câu là loại lỗi chiếm đa số, với tỷ lệ 18.4%. 
Điều này là do cấu trúc câu giữa tiếng Anh 
và tiếng Việt có rất ít điểm tƣơng đồng, 
trong đó điểm khác biệt nhiều nhất là ở trật 
tự từ, cụm từ hay trật tự các mệnh đề. Tiếp 
theo sau là các lỗi sai về cách chọn từ, danh 
từ số ít/nhiều, và hình thức động từ, với tỷ 
lệ phần trăm lần lƣợt là 15.10%, 13.64% và 
9.64%. Đặc biệt, trong khi ở 2 dạng còn lại, 
tỷ lệ sai đối với cấu trúc so sánh hầu nhƣ 
rất thấp, thì ở bài này, cấu trúc so sánh 
chiếm tỷ lệ cao hơn (7.11%). Điều này 
cũng khá dễ hiểu, do đối với dạng bài luận 
học thuật so sánh thì sinh viên phải viết 
một số cấu trúc so sánh đặc biệt và nâng 
cao. Ngoài ra, tuy tiếng Việt và tiếng Anh 
khá khác biệt về cách sử dụng từ nối, sự 
hòa hợp giữa chủ từ và động từ, nhƣng đối 
với sinh viên chuyên ngành tiếng Anh thì 
cấu trúc khác biệt không quá phức tạp nên 
tỷ lệ lỗi sai ở 2 phần này khá thấp (2.76% 
và 2.35%). 
Bảng 2. Lỗi sai của sinh viên trong bài luận phân tích nguyên nhân – kết quả 
Loại errors Tần suất Trung bình Tỷ lệ phần trăm 
Mệnh đề trạng ngữ 
Cấu trúc câu 
Cách chọn từ 
Mệnh đề quan hệ 
Hình thức động từ 
Danh từ số ít / nhiều 
Cấu trúc song song 
Mạo từ 
Giới từ 
Đại từ 
Văn phong 
290 
267 
230 
210 
131 
110 
95 
88 
79 
77 
70 
5.80 
5.34 
4.60 
4.20 
2.62 
2.20 
1.90 
1.76 
1.58 
1.54 
1.40 
17.04 
15.69 
13.51 
12.34 
7.70 
6.46 
5.58 
5.17 
4.64 
4.52 
4.11 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
92 
Loại errors Tần suất Trung bình Tỷ lệ phần trăm 
Hòa hợp chủ từ - động từ 
Từ nối 
Cấu trúc so sánh 
35 
15 
5 
0.70 
0.30 
0.10 
2.06 
0.88 
0.29 
Tổng 1,702 34.04 100 
Khác với dạng bài so sánh, trong dạng 
bài nguyên nhân - kết quả, thì dạng lỗi sai 
gặp nhiều nhất là mệnh đề trạng ngữ 
(17.04%), đồng thời sinh viên cũng gặp 
nhiều vấn đề khi diễn đạt ý bằng mệnh đề 
quan hệ (12.34%). Điều này có thể đƣợc lý 
giải là khi viết dạng bài nguyên nhân-kết 
quả, sinh viên phải sử dụng rất nhiều dạng 
mệnh đề khác nhau, phải biết rút gọn mệnh 
đề nhằm diễn đạt mối quan hệ nguyên nhân, 
hệ quả. Tuy nhiên, cũng giống nhƣ dạng bài 
trên, thì cấu trúc câu, cách chọn từ và cấu 
trúc động từ vẫn nằm trong số những lỗi sai 
nhiều nhất của sinh viên, với tỷ lệ mắc lỗi 
lần lƣợt là 15.64%, 13.51% và 7.70%. 
Bảng 3. Lỗi sai của sinh viên trong bài luận tranh luận 
Loại errors Tần suất Trung bình Tỷ lệ phần trăm 
Cách chọn từ 
Cấu trúc câu 
Mệnh đề trạng ngữ 
Văn phong 
Danh từ số ít / nhiều 
Đại từ 
Mệnh đề quan hệ 
Hình thức động từ 
Mạo từ 
Cấu trúc so sánh 
Từ nối 
Hòa hợp chủ từ - động từ 
Giới từ 
Cấu trúc song song 
395 
290 
225 
230 
195 
190 
185 
142 
90 
40 
35 
30 
25 
10 
7.9 
5.8 
4.5 
4.6 
3.9 
3.8 
3.7 
2.84 
1.8 
0.8 
0.7 
0.6 
0.5 
0.2 
18.97 
13.93 
10.81 
11.05 
9.37 
9.13 
8.89 
6.82 
4.32 
1.92 
1.68 
1.44 
1.2 
0.48 
Tổng 2,082 41.64 100 
Từ bảng số liệu có thể thấy cấu trúc lỗi 
sai của dạng bài này khá giống với dạng bài 
chỉ nguyên nhân - kết quả. Điểm khác biệt 
lớn nhất chính là ở văn phong. Trong khi ở 
2 dạng bài trƣớc, lỗi văn phong chiếm tỷ lệ 
không đáng kể, ở dạng bài so sánh là 
4.88% và nguyên nhân - kết quả là 4.11%, 
thì ở dạng bài này, văn phong là một trong 
5 lỗi sai chiếm tỷ lệ cao nhất, với 11.05%. 
Điều này có thể đƣợc lý giải vì sinh viên dễ 
nhầm lẫn dạng bài tranh luận với dạng bài 
nêu ý kiến cá nhân, nên khi viết sinh viên 
sử dụng rất nhiều đại từ “I”, “we”, những 
cụm từ nêu ý kiến cá nhân, và văn phong 
đƣợc viết theo kiểu đối thoại. Ngoài ra, đối 
với dạng bài này thì cách chọn từ cũng gây 
cho sinh viên rất nhiều vấn đề, với tỷ lệ lỗi 
sai cao nhất là 18.97%. Điều này cũng khá 
dễ hiểu vì đối với dạng bài tranh luận, sinh 
viên phải trình bày quan điểm và đƣa ra 
những luận cứ có tính logic cao để bác bỏ 
những luận cứ đối lập. Quá trình này đòi 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thị Thùy Trang 
93 
hỏi sinh viên phải tƣ duy và suy nghĩ để tìm 
ý khi viết, và do đó sẽ ít tập trung vào ngôn 
ngữ diễn đạt hơn. 
5. NHỮNG ỨNG DỤNG TRONG 
GIẢNG DẠY 
Nhƣ đã đề cập ở trên, kỹ năng viết học 
thuật là kỹ năng viết rất khó, kể cả đối với 
các bạn sinh viên chuyên ngữ. Từ sơ đồ 
hình 2 có thể thấy ở cả 3 thể loại, sinh viên 
đều gặp phải nhiều vấn đề liên quan đến 
cấu trúc câu, cách dùng từ và cấu trúc động 
từ. Tuy nhiên, ở mỗi loại, sẽ có một cấu 
trúc sai đặc trƣng và nổi bật. Điển hình là 
đối với dạng bài so sánh thì sinh viên sẽ 
gặp trở ngại với cấu trúc so sánh, đối với 
dạng bài nguyên nhân - kết quả đó là mệnh 
đề trạng ngữ và với dạng tranh luận là văn 
phong và cách chọn lựa từ phù hợp. 
Hình 2. So sánh cấu trúc lỗi sai của 3 dạng viết học thuật 
Dựa vào cấu trúc lỗi sai, có thể đƣa ra 
những đề xuất khi giảng dạy các dạng tiểu 
luận học thuật bậc đại học nhƣ sau: 
Trƣớc khi viết, giảng viên cần chuẩn bị 
cho sinh viên những phần ngôn ngữ cần 
thiết để có thể tránh đƣợc tối đa những lỗi 
sai khi viết. Nói cách khác, giảng viên cần 
ôn tập và hệ thống lại những cụm từ hay 
cấu trúc mà sinh viên hay mắc lỗi nhất đối 
với từng dạng bài; 
Khi giảng viên đánh giá bài viết, cũng 
cần tập trung vào những phạm trù ngôn ngữ 
mà sinh viên hay phạm lỗi và có phƣơng 
pháp sửa lỗi phù hợp để giúp sinh viên 
giảm thiểu những lỗi sai của mình trong bài 
viết kế tiếp; 
Trong quá trình giảng dạy, giảng viên 
có thể lồng ghép thực hành so sánh cấu trúc 
ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt có liên 
quan bằng các bài tập phù hợp, nhằm giúp 
sinh viên giảm thiểu đƣợc ảnh hƣởng của 
tiếng mẹ đẻ khi viết. 
6. KẾT LUẬN 
Nhƣ vậy, mặc dù kỹ năng viết tiểu luận 
học thuật là một kỹ năng vô cùng thách 
thức đối với sinh viên, giảng viên có thể 
giúp sinh viên giảm thiểu những lỗi sai cần 
thiết bằng một số phƣơng pháp giảng dạy 
phù hợp. Trong đó, việc dự đoán đƣợc cấu 
trúc lỗi sai và nguyên nhân dẫn đến lỗi sai 
đối với từng dạng bài tiểu luận đóng vai trò 
rất quan trọng. Kết quả của bài nghiên cứu 
này cho thấy, tiếng Việt có ảnh hƣởng rất 
lớn đối với chất lƣợng của bài tiểu luận viết 
bằng tiếng Anh của sinh viên chuyên ngữ. 
Những ảnh hƣởng này thể hiện rất rõ ở 
những cấu trúc lỗi sai cả về mặt cấu trúc 
ngôn ngữ và về mặt sử dụng ngữ vựng. 
Hơn nữa, ở mỗi dạng bài tiểu luận khác 
nhau, sinh viên gặp khó khăn lớn nhất ở 
những khía cạnh ngôn ngữ khác nhau. Phát 
hiện này sẽ có đóng góp lớn đối với việc 
thiết kế các tài liệu và hoạt động giảng dạy 
của giảng viên trong lớp học. 
0
100
200
300
400
500
S
S
W
C N
V
F A
C
T
P
re
P
ro
R
C
W
S L A P
a
A
V
So sánh NN-KQ Tranh luận 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
94 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bennui, P. (2008), A study of L1 interference in the writing of Thai EFL students, 
Malaysian Journal of ELT Research, 4. 
[2] Bhela, B. (1999), Native language interference in learning a second language: 
Exploratory case studies of native language inference with target language usage, 
International Education Journal, 1(1). 
[3] Brown, H. D. (1994), Principles of Language Learning and Teaching (3
rd
 ed.), 
Prentice Hall. 
[4] Camilleri, G. (2004), Negative Transfer in Maltese Students' Writing in English, 
Journal of Maltese Education Research, 2(1). 
[5] Chan, A. Y. W. (2004), Syntactic transfer: Evidence from the interlanguage of Hong 
Kong Chinese ESL learners, The Modern Language Journal, 88(1). 
[6] Dai, W. Y., & Shu, D. F. (1994), Some research issues in contrastive analysis, error 
analysis and interlanguage, Journal of Foreign Languages, 5. 
[7] Hyland, K., & Anan, E. (2006), Teachers' perceptions of error: The effects of first 
language and experience, System, 34,  
[8] Jenwitheesuk, T. (2009), A study of persisted syntactic errors in writing of the 3rd year 
students of English for international communication program, Paper presented at the The 
Role of Universities in Hands-on Education. 
[9] Mitchell, R., & Myles, F. (2004), Second Language Learning Theories (2
nd
 ed.), 
London: Edward Arnold. 
[10] Norwegian learners of English, System, 27,  
[11] Olsen, S. (1999), Errors and compensatory strategies: a study of grammar and 
vocabulary in texts written by Norwegian learners of English, System, 27, 
[12] Weigle, S. C. (2002), Assessing Writing, Cambridge: Cambridge University Press, 
Ngày nhận bài: 08-4-2018. Ngày biên tập xong: 20-3-2018. Duyệt đăng: 23-7-2018 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_loi_sai_cua_sinh_vien_viet_nam_khi_viet_cac_the_lo.pdf