Phát huy hiệu lực của kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công

Theo thông lệ quốc tế, Kiểm toán nhà nước (KTNN) được xác định là “cơ quan kiểm toán tối cao” của nhà nước, với nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động kiểm toán là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Luật KTNN và các quy định cụ thể của hệ thống các quy phạm pháp luật về KTNN của Việt Nam đã tạo lập địa vị pháp lý, xác định chức năng, nguyên tắc hoạt động, tổ chức bộ máy để KTNN trở thành một công cụ mạnh trong hệ thống các công cụ kiểm soát quyền lực. Bài viết này tiếp cận vai trò của KTNN trên góc độ là một công cụ có hiệu lực của Nhà nước trong kiểm soát quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công

pdf 5 trang yennguyen 6020
Bạn đang xem tài liệu "Phát huy hiệu lực của kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát huy hiệu lực của kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công

Phát huy hiệu lực của kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công
19NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019
PHAÙT HUY HIEÄU LÖÏC CUÛA KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC 
TRONG KIEÅM SOAÙT QUYEÀN LÖÏC QUAÛN LYÙ, SÖÛ DUÏNG 
TAØI CHÍNH COÂNG, TAØI SAÛN COÂNG
PGS,TS. ĐINH TRọNG HANH*
* Chuyên gia
Theo thông lệ quốc tế, Kiểm toán nhà nước (KTNN) được xác định là “cơ quan kiểm toán tối cao” của nhà nước, với nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động kiểm toán là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Luật KTNN và các quy định cụ thể của hệ thống các quy phạm pháp luật về KTNN của Việt Nam đã tạo lập địa vị pháp lý, xác định chức năng, nguyên tắc 
hoạt động, tổ chức bộ máy để KTNN trở thành một công cụ mạnh trong hệ thống các công cụ kiểm soát 
quyền lực. Bài viết này tiếp cận vai trò của KTNN trên góc độ là một công cụ có hiệu lực của Nhà nước 
trong kiểm soát quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công.
Từ khóa: kiểm toán nhà nước, kiểm soát quyền lực.
Promoting effeciency of the state audit of Vietnam in power control, management and use of public 
finance and property 
According to international practice, the State Audit is defined as the state’s “supreme audit body”, with the 
basic principle of organization and audit activity being “act independently and obey the law only”. The State 
Audit Law and the specific provisions of the system of legal regulations on State Audit of Vietnam (SAV) 
have established legal status, defined functions, operational principles, organizational structure to become 
a strong tool in power control tools system. This article approaches the role of SAV in terms of being an 
effective tool of the State in controlling the power of managing and using public finance and public property.
keywords: State Audit, power control.
1. kiểm toán nhà nước, công cụ kiểm soát quyền 
lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công 
1.1. Khái niệm kiểm soát quyền lực
Từ góc độ quản lý, kiểm soát là chức năng quan 
trọng của nhà quản lý nhằm thu thập thông tin về 
các quá trình, hiện tượng đang diễn ra trong một 
tổ chức để có những biện pháp điều chỉnh phù hợp 
để thực hiện được mục tiêu hoạt động của tổ chức. 
Tính chất quan trọng của kiểm soát được thể hiện 
ở cả hai mặt: Một mặt, kiểm soát là công cụ quan 
trọng để nhà quản lý phát hiện ra những sai sót và 
có biện pháp điều chỉnh; mặt khác, thông qua kiểm 
soát, phát hiện những hạn chế, yếu kém để có biện 
pháp khắc phục, các hoạt động sẽ được thực hiện 
tốt hơn.
Khi đề cập đến quyền lực có nghĩa là nói đến 
việc phân giao quyền hạn và trách nhiệm cho một 
cơ quan, tổ chức nhất định. Quyền hạn và trách 
nhiệm giao cho một cơ quan, tổ chức phải có sự 
tương xứng và phù hợp với mục đích, nhiệm vụ 
của cơ quan, tổ chức đó. Kiểm soát quyền lực là 
sự kiểm soát của một chủ thể với một khách thể 
trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn, 
trách nhiệm nhằm đảm bảo cho khách thể thực 
hiện được mục tiêu của hoạt động. 
Quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài 
sản công là phần quan trọng của quyền lực kinh 
tế của Nhà nước. Quốc hội phân định quyền lực 
quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công cho 
hệ thống các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp 
và các tổ chức được sử dụng tài chính công, tài 
sản công.
Để đảm bảo hiệu lực của chức năng kiểm soát 
hoạt động kinh tế ngày càng phức tạp, thì mỗi tổ 
chức, mỗi hệ thống cần tổ chức thực hiện cả 2 loại 
hoạt động kiểm soát là nội kiểm và ngoại kiểm. Nội 
20
Kieåm toaùn nhaø nöôùc vôùi nhieäm vuï phoøng choáng tham nhuõng
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019
kiểm là hoạt động kiểm soát của chủ thể quản lý 
(là cơ quan, tổ chức hoặc một hệ thống tổ chức) 
đối với các khách thể quản lý là các bộ phận của 
cùng một hệ thống quản lý, được giao quản lý, sử 
dụng tài chính công, tài sản công; nội kiểm là hoạt 
động cần có, vốn có của một tổ chức. Ngoại kiểm 
là hoạt động kiểm soát từ chủ thể kiểm soát độc 
lập, từ bên ngoài đối với một hệ thống quản lý, sử 
dụng tài chính, tài sản công; ngoại kiểm là công cụ 
đảm bảo sự kiểm soát khách quan, giảm thiểu rủi 
ro kiểm soát.
1.2. Sự tha hóa quyền lực
Khi phân giao quyền hạn và trách nhiệm luôn 
tồn tại khả năng quyền lực bị tha hóa. Tha hóa 
quyền lực là việc thực hiện không đúng, không 
đầy đủ, không hết hoặc vượt quá quyền lực được 
trao trong quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ, 
quyền hạn của mình. Tha hóa quyền lực làm biến 
tướng bản chất, mục đích của quyền lực; quyền lực 
không được thực hiện vì mục đích chung, vì lợi ích 
chung, vì lợi ích của nhân dân, mà thực hiện vì mục 
đích của “nhóm lợi ích”, vì lợi ích của cá nhân. 
Trong quản lý tài chính công, tài sản công, sự 
tha hóa quyền lực sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng: 
Không thực hiện được mục tiêu của tổ chức, lãng 
phí, tham nhũng làm suy yếu quyền lực nhà nước 
và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhà nước sử 
dụng nhiều công cụ để kiểm soát quyền lực quản 
lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, trong đó có 
công cụ KTNN.
1.3. Cơ sở của hoạt động kiểm soát quyền lực 
trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công 
của Kiểm toán nhà nước
Địa vị pháp lý của KTNN
KTNN là cơ quan độc lập do Quốc hội thành 
lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 
Đây là thể hiện sự phân quyền trong hệ thống các 
cơ quan nhà nước. Để thực hiện được thẩm quyền 
của mình, KTNN phải được Nhà nước xác lập địa 
vị pháp lý thích hợp, đó là có vị trí độc lập với hệ 
thống các cơ quan có thẩm quyền quản lý, sử dụng 
tài chính công, tài sản công; trên cơ sở đó, KTNN 
được độc lập về tổ chức, tài chính, phương thức 
tổ chức hoạt động và phương pháp nghiệp vụ để 
đảm bảo thực hiện được mục đích, nhiệm vụ và 
vai trò của mình trong kiểm soát tài chính công, tài 
sản công. KTNN thực hiện kiểm soát (theo phương 
pháp kiểm toán) theo 2 nguyên tắc cơ bản: i) Độc 
lập và chỉ tuân theo pháp luật; ii) Trung thực, khách 
quan, công khai, minh bạch.
Chức năng và phạm vi và các công cụ, phương 
pháp kiểm soát của KTNN
KTNN thực hiện 3 chức năng cơ bản là: Kiểm 
tra; Đánh giá và xác nhận và Tư vấn đối với hoạt 
động quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản 
21NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019
công. Phạm vi hoạt động kiểm toán của KTNN 
là không giới hạn: Đối với mọi cơ quan, tổ chức 
và với mọi hoạt động quản lý, sử dụng tài chính 
công, tài sản công.
Để thực hiện các chức năng của mình, KTNN 
phải sử dụng các công cụ nhất định, trong đó các 
công cụ chủ yếu gồm: i) Pháp luật; ii) Tổ chức - nhân 
sự; iii) Quản lý (kế hoạch, tổ chức, điều hành; kiểm 
tra - kiểm soát kiểm toán); iv) Kiểm soát độc lập. 
2. Vai trò của kiểm toán nhà nước trong kiểm 
soát quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, 
tài sản công
KTNN là công cụ ngoại kiểm nhằm kiểm soát 
quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản 
công của các cơ quan, tổ chức của Nhà nước. Như 
vậy, về phạm vi tác động, hoạt động kiểm toán của 
KTNN sẽ tác động đến hoạt động quản lý tài chính 
công, tài sản công ở cả phạm vi vĩ mô và vi mô. Vai 
trò kiểm soát quyền lực đối với các chủ thể quản 
lý, sử dụng tài chính công, tài sản công thể hiện ở 
những nội dung chính sau đây: 
2.1. Tác động đến sự đảm bảo hiệu lực quản lý, 
sử dụng tài chính công, tài sản công 
Đảm bảo hiệu lực quản lý luôn là mục tiêu 
xuyên suốt và quan trọng nhất của hoạt động kiểm 
toán của KTNN. Thông qua việc kiểm tra quá trình 
quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của 
các cơ quan, tổ chức, KTNN đánh giá tính hiệu lực 
của việc quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính, 
tài sản công theo từng lĩnh vực, tại các cấp chính 
quyền nhà nước, của đơn vị; từ đó, đánh giá về 
năng lực của bộ máy quản lý, đưa ra ý kiến tư vấn 
cho mỗi cấp chính quyền, mỗi đơn vị trong việc 
thực hiện các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện 
được mục tiêu hoạt động của cơ quan, tổ chức.
2.2. Cung cấp thông tin về quản lý, sử dụng 
tài chính công, tài sản công tin cậy, phục vụ cho 
quản lý 
Thông tin là điều kiện để đảm bảo việc đưa ra 
các quyết định quản lý tài chính công, tài sản công 
của các cơ quan, tổ chức của Nhà nước một cách 
đúng đắn. Thông tin kiểm toán không chỉ là số liệu 
về tài chính, kế toán mà còn gồm (quan trọng hơn) 
là những thông tin có cơ sở (bằng chứng kiểm toán) 
phân tích, đánh giá, tư vấn mang tính khách quan, 
chuyên nghiệp của KTNN để đánh giá các hoạt 
động tích cực, hiệu quả, các hoạt động hạn chế, yếu 
kém để có biện pháp khắc phục kịp thời. Thông tin 
kiểm toán của KTNN đảm bảo tính khách quan, 
trung thực và có tính chuyên nghiệp nên có giá trị 
tư vấn cao trong quản lý.
2.3. Góp phần đảm bảo sự tuân thủ pháp luật 
về quản lý tài chính công, tài sản công, chống tha 
hóa quyền lực 
Việc KTNN thông qua hoạt động kiểm toán tác 
động đến đảm bảo hiệu lực pháp luật trong quản lý, 
sử dụng tài chính công, tài sản công được thể hiện 
trên cả 2 mặt: i) Qua kết quả kiểm toán, phát hiện, 
đề xuất các giải pháp, biện pháp xử lý, ngăn chặn vi 
phạm pháp luật; ii) Qua phân tích, đánh giá hiệu 
lực của việc áp dụng pháp luật, phát hiện các quy 
định không còn hợp lý, thiếu hiệu lực thực tiễn... để 
kiến nghị với Nhà nước có sự điều chỉnh, thay đổi; 
từ đó, góp phần tăng cường hiệu lực của hệ thống 
pháp luật trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài 
sản công.
2.4. Tác động đến sự đảm bảo quản lý, sử dụng 
tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực tài chính công, tài 
sản công 
Qua hoạt động kiểm toán, KTNN phát hiện 
những khu vực, những bộ phận có vấn đề trong 
quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công không 
đảm bảo tính tiết kiệm, hiệu quả; phân tích các 
nguyên nhân; đánh giá hậu quả, đề xuất giải pháp 
khắc phục và nâng cao tính tiết kiệm, hiệu quả 
trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. 
Tuy nhiên, KTNN không có mục tiêu phát hiện ra 
mọi hạn chế, yếu kém trong quản lý tại mọi đơn vị 
được kiểm toán mà lựa chọn, phát hiện ra những 
hạn chế, yếu kém “trọng yếu” hoặc phổ biến để 
kiến nghị với các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng 
tài chính công, tài sản công thực hiện giải pháp 
khắc phục.
2.5. Tư vấn cho các cơ quan, tổ chức hoàn thiện 
hệ thống kiểm toán nội bộ để nâng cao hiệu lực 
quản lý 
Hoạt động kiểm toán của KTNN không chỉ 
nhằm phát hiện ra những sai phạm, yếu kém trong 
quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công tại các 
22
Kieåm toaùn nhaø nöôùc vôùi nhieäm vuï phoøng choáng tham nhuõng
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019
cơ quan, tổ chức của Nhà nước, mà hơn nữa, công 
việc có tầm quan trọng, lâu dài hơn, đó là phát hiện 
những sai phạm, yếu kém, hạn chế của hệ thống 
kiểm soát nội bộ của đơn vị để đưa ra ý kiến tư vấn 
cho đơn vị nhằm không ngừng hoàn thiện, nâng 
cao hiệu quả, hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội 
bộ của đơn vị; từ đó, nâng cao hiệu lực quản lý, sử 
dụng tài chính công, tài sản công tại từng đơn vị 
được kiểm toán.
Như vậy, về tổng quan, KTNN là công cụ của 
Nhà nước để thực hiện kiểm tra việc quản lý, sử 
dụng tài chính công, tài sản công; với vị trí là cơ 
quan kiểm tra độc lập, “ngoại kiểm”, tác động toàn 
diện, cả ở phạm vi quản lý tài chính công vĩ mô và 
vi mô, KTNN là công cụ rất quan trọng của Nhà 
nước trong kiểm soát quyền lực quản lý, sử dụng tài 
chính công, tài sản công.
3. Những vấn đề và giải pháp tăng cường hiệu 
lực của kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền 
lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công
Với gần 25 năm hình thành và phát triển, 
KTNN đã dần khẳng định được vai trò của mình 
trong kiểm soát quyền lực quản lý, sử dụng tài 
chính công, tài sản công. Vị trí pháp lý của KTNN 
ngày càng độc lập; pháp luật về KTNN ngày càng 
phù hợp với yêu cầu của hoạt động và phát triển 
của KTNN; năng lực về tổ chức và hoạt động của 
KTNN ngày càng phát triển, chuyên nghiệp hóa. 
Tuy nhiên, với sự phát triển của quản lý kinh tế 
ngày càng phức tạp, yêu cầu của hoạt động kiểm 
soát quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, 
tài sản công ngày càng cao... cùng với những hạn 
chế còn tiềm ẩn trong quá trình phát triển, đòi hỏi 
KTNN cần nhận diện rõ những vấn đề còn hạn chế 
để có giải pháp cho sự phát triển.
3.1. Kiểm toán sự phân bổ nguồn lực tài chính 
công, tài sản công
Phân bổ nguồn lực là một chức năng cơ bản, 
quan trọng nhất của tài chính công, đặc biệt là trong 
quản lý tài chính vĩ mô; song, trong thực tiễn, đây 
là một trong những chức năng quản lý tài chính 
công còn nhiều yếu kém. Việc hướng đến đảm bảo 
phân bổ nguồn lực tài chính công, tài sản công tốt 
nhất cũng chính là mục tiêu cần được ưu tiên của 
hoạt động kiểm toán của KTNN. Tuy nhiên, đây 
cũng là một trong những “khoảng trống” trong 
hoạt động của KTNN. 
Nguyên nhân hạn chế đó là KTNN hầu như 
chưa thực hiện phương thức “tiền kiểm”. Việc chưa 
thực hiện tiền kiểm đã hạn chế vai trò của KTNN 
đối với việc phân bổ nguồn lực tài chính công, tài 
sản công. Vấn đề này cần sớm được giải quyết với 
các biện pháp: i) Hoàn thiện các quy định pháp 
luật về “tiền kiểm” là cơ sở pháp lý cho các hoạt 
động kiểm toán việc phân bổ các nguồn lực tài 
chính công, tài sản công; ii) Xây dựng các mô hình, 
phương thức, phương pháp “tiền kiểm”... để đảm 
bảo chất lượng công tác “tiền kiểm” của KTNN. 
3.2. Kiểm toán hiệu lực thực hiện các chính 
sách tài chính - tiền tệ và các chính sách liên quan 
đến tài chính - tiền tệ của Nhà nước
Một trong những công cụ quan trọng nhất của 
Nhà nước trong quản lý tài chính công là các chính 
sách tài chính - tiền tệ. Hiệu lực của quản lý tài 
chính công, tài sản công chịu sự chi phối, quyết 
định của hiệu lực thực hiện của các chính sách tài 
chính - tiền tệ; đây cũng là một lĩnh vực có nhiều 
“vấn đề” (bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, đầu 
tư công). KTNN có quyền hạn và trách nhiệm 
trong việc kiểm toán, đánh giá hiệu lực thực hiện 
các chính sách tài chính - tiền tệ; song, đây cũng là 
một khâu còn yếu trong hoạt động của KTNN. 
Những giải pháp cần thực hiện để khắc phục 
hạn chế náy gồm: i) Đổi mới hoạt động quản trị 
kiểm toán theo kế hoạch kiểm toán trung hạn để 
phù hơp với “tầm” của việc thực hiện kiểm toán 
việc thực hiện các chính sách; ii) Hoàn thiện mô 
hình, phương thức tổ chức kiểm toán theo “chương 
trình kiểm toán” phù hợp với hoạt động đánh giá 
hiệu lực thực hiện các chính sách...
3.3. Tăng cường hiệu lực trong việc thực hiện 
kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước
Việc đảm bảo hiệu lực trong thực hiện kiến 
nghị kiểm toán của KTNN là phản ánh hiệu lực 
của công cụ KTNN đối với hoạt động quản lý, sử 
dụng tài chính công, tài sản công. Kiến nghị kiểm 
toán của KTNN đối với các đơn vị được kiểm toán 
được thể hiện ở 2 loại: i) Kiến nghị xử lý những 
sai phạm về quản lý tài chính công, tài sản công; 
ii) Kiến nghị về các biện pháp khắc phục những 
23NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019
hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý tài chính 
công, tài sản công. Thực tế, việc thực hiện kiến nghị 
thuộc nhóm (i) có hiệu lực khá, song, vẫn còn khá 
xa so với yêu cầu kiểm toán; việc thực hiện kiến 
nghị thuộc nhóm (ii) rất hạn chế hoặc đơn vị chưa 
quan tâm đến việc thực hiện. 
Việc nâng cao hiệu lực thực hiện kiến nghị kiểm 
toán cần giải quyết các vấn đề: i) Tăng cường pháp 
chế trong hoạt động kiểm toán của KTNN, đặc 
biệt, cần có công cụ “cưỡng chế” thực hiện các kiến 
nghị kiểm toán thuộc nhóm (i) ở trên; ii) Nâng cao 
chất lượng kiến nghị kiểm toán của KTNN thông 
qua “nâng tầm” năng lực của Kiểm toán viên, đặc 
biệt đối với các kiến nghị về quản lý tài chính công, 
tài sản công thuộc nhóm (ii) ở trên.
3.4. Đổi mới, hiện đại hóa công tác quản lý 
hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước
Công tác quản lý kiểm toán của KTNN đến nay 
đã bộc lộ những hạn chế nhất định, tác động đến 
chất lượng hoạt động kiểm toán; cụ thể là 2 hoạt 
động: i) Công tác quản lý kiểm toán dựa trên kế 
hoạch kiểm toán hàng năm là hạn chế tầm nhìn, 
hiệu lực kiểm toán của KTNN, đặc biệt là đối với 
các cuộc kiểm toán chương trình toàn ngành, kiểm 
toán hoạt động; ii) Việc phân cấp quản lý kiểm toán 
giữa cấp Tổng KTNN và cấp Kiểm toán trưởng 
mang nặng tính “tập quyền” làm hạn chế tiềm năng 
trong hoạt động kiểm toán của các KTNN khu 
vực, KTNN chuyên ngành, đặc biệt là đối với nội 
dung kiểm toán hoạt động và sự năng động trong 
tổ chức, quản lý các cuộc kiểm toán.
Việc khắc phục những hạn chế trong công tác 
quản lý hoạt động kiểm toán trên cần được coi là 
nhiệm vụ “cấp thiết” cần được giải quyết để tạo bước 
phát triển mới về quản lý kiểm toán; những giải 
pháp chủ yếu gồm: i) Triển khai quản trị hoạt động 
kiểm toán theo Kế hoạch kiểm toán trung hạn, coi 
đây là công cụ cơ bản trong quản lý hoạt động kiểm 
toán của KTNN; ii) Đẩy mạnh việc phân cấp quản 
lý hoạt động kiểm toán cho cấp Kiểm toán trưởng, 
coi đây là cơ sở, sự đổi mới cơ bản về cơ chế quản 
lý hoạt động kiểm toán của KTNN phù hợp với yêu 
cầu thực tiễn và thông lệ quốc tế.
3.5. Tăng cường năng lực và hiện đại hóa hoạt 
động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước
Năng lực kiểm toán của KTNN đòi hỏi luôn 
được phát triển, đổi mới. Trong giai đoạn hiện nay, 
có 2 vấn đề cần được giải quyết là: i) Phát triển các 
kỹ năng kiểm toán của Kiểm toán viên ở những 
lĩnh vực kiểm toán mới: Hoạt động “tiền kiểm”; 
kiểm toán hiệu lực thực hiện các chính sách tài 
chính - tiền tệ và các chính sách có liên quan; kiểm 
toán hoạt động; ii) Phát triển mạnh ứng dụng công 
nghệ thông tin trong hoạt động kiểm toán, đặc biệt 
là trong việc xây dựng những chương trình (phần 
mềm) hỗ trợ hoạt động kiểm toán (đây là lĩnh vực 
hoạt động mà KTNN còn phát triển quá chậm). 
Hai lĩnh vực hoạt động kiểm toán trên là 2 vấn đề 
mà KTNN “lạc hậu” so với yêu cầu của thực tiễn.
Những giải pháp chủ yếu tạo sự phát triển hoạt 
động kiểm toán ở 2 lĩnh vực trên gồm: i) Tạo sự 
chuyển biến mạnh trong triển khai các hoạt động 
kiểm toán thuộc lĩnh vực “mới” thông qua việc xây 
dựng các quy trình, phương pháp kiểm toán tương 
ứng; đồng thời, hình thành các chương trình kiểm 
toán “mới” trong kế hoạch kiểm toán trung hạn để 
đảm bảo tính khả thi; ii) Thành lập một tổ chức 
tập hợp nhiều chuyên gia giỏi về các lĩnh vực kiểm 
toán và các chuyên gia tin học của KTNN để tập 
trung xây dựng bước đầu hệ thống những chương 
trình tin học hỗ trợ hoạt động kiểm toán. Đây là cơ 
sở, “cú hích” tạo đà cho sự phát triển “bền vững” 
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động 
kiểm toán của KTNN.
kết luận
Nâng cao hiệu lực kiểm soát quyền lực quản lý, 
sử dụng tài chính công, tài sản công là “sứ mệnh” 
của KTNN; đồng thời, cũng là nhiệm vụ chính trị 
quan trọng của KTNN trong thời kỳ hệ thống chính 
trị tập trung cao độ cho công cuộc “chống tham 
nhũng”. Nhiệm vụ chính trị đó đặt ra cho KTNN 
trách nhiệm và cơ hội trong việc tạo bước đổi mới 
mạnh mẽ về quản lý, về phương thức tổ chức và 
hiện đại hóa hoạt động kiểm toán của KTNN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Kiểm toán nhà nước 2015;
2. Các văn bản quy định hiện hành của Kiểm 
toán nhà nước.

File đính kèm:

  • pdfphat_huy_hieu_luc_cua_kiem_toan_nha_nuoc_trong_kiem_soat_quy.pdf