Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường phổ thông dân tộc nội trú và phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0
Sau khi làm rõ các thuật ngữ: Năng lực, cán bộ quản lý giáo dục, năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý giáo dục và điều kiện bảo đảm có một quyết định quản lý đúng, người
viết muốn đề xuất các điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý
giáo dục trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra quan điểm khi áp dụng với cán bộ
quản lý ở các cơ sở giáo dục dành cho người dân tộc thiểu số.
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường phổ thông dân tộc nội trú và phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường phổ thông dân tộc nội trú và phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 57Ngày nhận bài: 13/1/2018; Ngày phản biện: 29/1/2018; Ngày duyệt đăng: 8/2/2018 (1) Học viện Quản lý Giáo dục, e-mail: sdtlam@yahoo.com.vn PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ Ở CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ VÀ PHỔ THÔNG DÂN TỘC BÁN TRÚ, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Ngô Viết Sơn(1) Sau khi làm rõ các thuật ngữ: Năng lực, cán bộ quản lý giáo dục, năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý giáo dục và điều kiện bảo đảm có một quyết định quản lý đúng, người viết muốn đề xuất các điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý giáo dục trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra quan điểm khi áp dụng với cán bộ quản lý ở các cơ sở giáo dục dành cho người dân tộc thiểu số. Từ khóa: Năng lực; cán bộ quản lý giáo dục; quyết định quản lý; dân tộc thiểu số. 1. Mở đầu Mục tiêu tổng quát trong công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam đã được xác định: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với đặc điểm là tận dụng triệt để sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin là thực trạng đang hiện hữu trong xã hội Việt Nam và trên thế giới hiện nay. Ngày 04/5/2017, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4, trong đó có khẳng định nhiệm vụ cụ thể đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Thúc đẩy triển khai giáo dục về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) trong chương trình giáo dục phổ thông; tổ chức thí điểm tại một số trường phổ thông ngay từ năm học 2017-2018. Nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học; tăng cường giáo dục những kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”. Để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trước bối cảnh của Việt Nam như đã trình bày ở trên, một yếu tố đột phá phải quan tâm đó là: Năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý giáo dục là gi? Với những điều kiện nào thì có thể phát triển được năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý giáo dục? 2. Năng lực của một người trước một nhiệm vụ Năng lực của một người trước một nhiệm vụ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan. Những yếu tố chủ quan thường được bàn đến là: Nhận thức (NT), kỹ năng (KN) và thái độ (TĐ) của người đó trước một nhiệm vụ được giao. Với cách hiểu từng khái niệm NT, KN và TĐ như sau: Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, bắt đầu từ việc sử dụng trực tiếp các giác quan để tìm hiểu sự vật hiện tượng đến việc tư duy lại để hình thành khái niệm, phán đoán và liên kết các phán đoán để rút ra kết luận mới, cuối cùng, kết luận mới đó được đem kiểm nghiệm và chứng minh trong thực tiễn. Trong ngôn ngữ thông thường khái niệm hiểu biết hay tri/kiến thức được sử dụng như từ đồng ng- hĩa với nhận thức– Điều này lý giải tại sao người ta hay dùng từ kiến thức thay vì phải dùng từ nhận thức. Kỹ năng của con người là khả năng vận dụng tri/ kiến thức (nhận thức trong ngôn ngữ thông thường) một cách thuần thục, do được lặp đi lặp lại sau một thời gian dài, một cách có ý thức hoặc vô ý thức, để giải quyết một nhiệm vụ cụ thể. Thái độ là một bộ phận hợp thành, một thuộc tính trọn vẹn của ý thức; qui định sẵn sàng hành động của con người đối với đối tượng theo một hướng nhất định, được bộc lộ ra bên ngoài thông qua hành vi, cử chỉ, nét mặt và lời nói của người đó trong những tình huống, điều kiện cụ thể. Để xem xét một cách toàn diện hơn về năng lực của một người trước một nhiệm vụ, người nghiên cứu cần phải bàn tới 2 yếu tố có liên quan đó là: Sức khỏe (SK) của người đó và môi trường (MT) trong quá trình người đó thực thi nhiệm vụ của mình. Trong đó, hiểu môi trường là: “Bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 58 Số 21 - Tháng 3 năm 2018 của con người và tự nhiên”. Tóm lại, năng lực của một con người trước một nhiệm vụ là toàn bộ khả năng của họ về mặt nhận thức, kỹ năng, thái độ và sức khỏe cũng như khả năng ứng xử của họ trước điều kiện môi trường nhằm đáp ứng theo một mức độ nhất định việc hoàn thành nhiệm vụ đó. Để khái quát cho dễ nhớ và để khẳng định năng lực của một người trước một nhiệm vụ luôn phụ thuộc vào sự biến động của 5 yếu tố, có thể mô phỏng “Năng lực” bởi “công thức”: y (NL) = f(NT, KN, TĐ, SK, MT) hay NL = f(NT, KN, TĐ, SK, MT) (với NL: Năng lực; NT: Nhận thức; KN: Kỹ năng; TĐ: Thái độ; SK: Sức khỏe; MT: Môi trường) Trong đó 3 yếu tố chính cần xem xét là: Nhận thức, kỹ năng và thái độ. 3. Cán bộ quản lý giáo dục Ta sẽ tiếp cận khái niệm cán bộ quản lý giáo dục theo góc độ: Hiểu khái niệm cán bộ lãnh đạo và khái niệm cán bộ quản lý ở góc độ chung sau đó đưa 2 khái niệm này vào ngành giáo dục để hiểu về khái niệm cán bộ quản lý giáo dục. Trong nhiều trường hợp, chức năng, nhiệm vụ của “cán bộ lãnh đạo” và “cán bộ quản lý” trùng lặp nhau. Sự phân biệt hai khái niệm này chỉ có tính chất tương đối. Tính chất tương đối giữa hai khái niệm “cán bộ lãnh đạo” và “cán bộ quản lý” có thể mô tả như sau: Khi người cán bộ quản lý (CBQL) thực hiện một quyết định của người cán bộ lãnh đạo (CBLĐ), đến lượt mình, người cán bộ quản lý này trước nhiệm vụ cụ thể mà họ đảm nhận họ lại có thể đóng vai trò là người CBLĐ. Nói một cách đơn giản: Trong tập thể này họ là người CBLĐ, nhưng trong một tập thể khác họ chỉ là CBQL. Có thể vắn tắt để phân biệt về mặt hình thức hai khái niệm này như sau: “ “Cán bộ lãnh đạo” là chỉ những người đứng đầu, phụ trách một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định”. “ “Cán bộ quản lý” là người mà hoạt động nghề nghiệp của họ hoàn toàn hay chủ yếu gắn với việc thực hiện chức năng quản lý; là người điều hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện những quyết định của cán bộ lãnh đạo”. Thực tế ta có thể hiểu: Một người trong một tập thể rất có thể trở thành người đứng đầu tập thể đó nếu xét về năng lực thực hiện nhiệm vụ, nói một cách khác, mọi người bình thường trong một tập thể đều có thể trở thành người CBLĐ tập thể đó. Và một điều đương nhiên nữa là: Một người bình thường khi nhận một nhiệm vụ và họ có một tập thể cùng hoạt động thì đương nhiên, họ là người CBLĐ trước nhiệm vụ đó hoặc khi một mình đảm nhận một nhiệm vụ cụ thể, người đó phải thể hiện được vai trò của người CBLĐ thì nhiệm vụ đó mới thành công. Như vậy, khái niệm CBLĐ chỉ xuất hiện và chỉ ứng với một người khi đề cập tới một tập thể người cùng thực hiện một nhiệm vụ theo mục tiêu và nguyên tắc đã được thống nhất, những người còn lại trong tập thể đó, một cách khái quát, không kể đến mức độ ảnh hưởng, họ đều thực thi những quyết định quản lý của CBLĐ, có nghĩa là, một cách khái quát, ta có thể coi họ là những CBQL. Ta có thể thấy: Nhìn vào một tập thể/đơn vị/ tổ chức được xã hội công nhận, ngoài một người được gọi là CBLĐ, thì các CBQL được chia làm hai nhóm: - Nhóm được hưởng “phụ cấp chức vụ lãnh đạo”. - Nhóm không được hưởng “phụ cấp chức vụ lãnh đạo”. Nhóm được hưởng “phụ cấp chức vụ lãnh đạo” không nhiều, bao gồm: Cấp phó của người đứng đầu; Người đứng đầu và cấp phó của họ trong một tập thể/đơn vị/tổ chức trực thuộc hay trong một tổ chức chính trị/tổ chức chính trị-xã hội/tổ chức xã hội đồng cấp hoặc trực thuộc. Tuy nhiên, hiện nay có sự không trùng khớp trong nhận thức giữa lý luận và thực tế về khái niệm CBQL. Trong thực tế, vẫn có người nghĩ, CBQL là những người được hưởng “phụ cấp chức vụ lãnh đạo” và nói đến CBQL là muốn ám chỉ người đứng đầu. CBQL giáo dục đề cập trong bài viết này được dẫn xuất từ cách hiểu thế nào là CBLĐ, thế nào là CBQL như đã trình bày ở trên. Tức là, khi đề cập đến CBQL giáo dục là đề cập đến CBLĐ hoặc CBQL hay cả hai khái niệm này đối với các cá nhân đang thực thi một nhiệm vụ cụ thể trong vai trò của một người lãnh đạo hay quản lý trong lĩnh vực giáo dục. CBQL giáo dục có các đặc điểm riêng đó là: Họ chủ yếu đối diện với các nhiệm vụ giáo dục và thường xuyên ở trong môi trường giáo dục. 4. Năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý giáo dục Năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của một CBLĐ/CBQL trước một nhiệm vụ cụ thể hay một đơn vị cụ thể, là năng lực đưa ra các quyết định quản lý (QĐQL) đúng khi tác động trực tiếp đến đối tượng quản lý thông qua bốn quá trình (còn được gọi là 4 chức năng quản lý): Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra một cách có hướng đích, không vi phạm nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu đã được tập thể thống nhất. Như vậy năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục, cũng như năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBLĐ/CBQL nói chung, đó là năng lực đưa ra các quyết định quản lý đúng khi tác động trực tiếp đến đối tượng quản lý thông qua bốn quá trình: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra một cách có hướng đích, không vi phạm nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu đã được tập thể thống nhất về các nội dung nhằm bảo đảm thực hiện đúng bản chất của giáo dục và trong một môi trường giáo dục, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 59Số 21 - Tháng 3 năm 2018 Trong đó, cần rõ một số thuật ngữ khi mô tả năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục như sau: Bản chất của giáo dục: Là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử-xã hội của các thế hệ loài người, với ý nghĩa giúp các thế hệ nối tiếp nhau kế thừa, bổ sung và phát triển các tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại (người thầy khơi gợi người học phát hiện và đánh thức các tiềm năng sẵn có trong họ, tiếp đó là quá trình làm thay đổi các phẩm chất ấy). Môi trường giáo dục: Từ khái niệm môi trường và bản chất của giáo dục, môi trường giáo dục được hiểu như sau, bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử-xã hội của các thế hệ loài người, với ý nghĩa giúp các thế hệ nối tiếp nhau kế thừa, bổ sung và phát triển các tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, nhằm cải thiện tốt hơn đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và tự nhiên. Quá trình lập kế hoạch: Là quá trình từ các thông tin, ta dự đoán tình hình rồi xác định các nhiệm vụ cụ thể và các mục tiêu tương ứng, cuối cùng là hoạch định kế hoạch hành động nhằm thực hiện mục tiêu chung đã thống nhất. Với vai trò: Là điểm xuất phát là sự định hướng và là căn cứ cho các hoạt động thuộc các chức năng quản lý khác. Nội dung cụ thể là: i. Phân tích bối cảnh để xác định các nhiệm vụ cụ thể và các mục tiêu tương ứng (Dùng SWOT). ii. Xây dựng cấu trúc bản kế hoạch (Dùng ma trận cấp 2). iii. Viết nội dung bản kế hoạch (Dùng từ cốt lõi để ghi vào các ô của ma trận). iv. Kiểm tra lại nội dung bản kế hoạch trước khi ban hành chính thức. Quá trình tổ chức: Là quá trình tiếp nhận và hiện thực hóa các mục tiêu cụ thể từ bản kế hoạch đã được ban hành gồm: Thiết lập hệ thống tổ chức trong đơn vị mình; tập hợp các nguồn lực và tạo ra sức mạnh mới của tổ chức. Với vai trò: Là chỗ dựa để các chức năng khác phát huy tác dụng. Nội dung cụ thể là: i. Từ nội dung bản kế hoạch, lập cơ cấu tổ chức phù hợp với thực tế trong từng nhiệm vụ cụ thể (Dựa vào trải nghiệm của bản thân hay kinh nghiệm ở nơi khác). ii. Xây dựng chức năng, nhiệm vụ tương ứng với cơ cấu tổ chức đã thiết lập. iii. Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận (Biểu thị nó qua sơ đồ Găng). iv. Kiểm tra lại ba bước trên trước khi ban hành chính thức. Quá trình chỉ đạo: Là quá trình tác động làm ảnh hưởng tới hành vi và thái độ của những người khác nhằm thực hiện hóa các mục tiêu cụ thể; Giúp tạo ra động lực lao động tích cực của các thành viên trong đơn vị; Bảo đảm cho hoạt động của đơn vị trước sau như một, vận hành trên một quĩ đạo định trước nhằm đạt mục tiêu như đã dự kiến. Với vai trò: Là sự “khởi động” và bảo đảm cho các bộ phận trong đơn vị “vận hành” tốt; Bảo đảm các bộ phận có thể thiết lập được một mối liên hệ hợp lý nhằm phục vụ một yêu cầu thống nhất chung; Nhằm phòng ngừa và ngăn chặn các sai phạm có thể xảy ra. Nội dung cụ thể là: i. Giao việc, hướng dẫn và bảo đảm các điều kiện để vận hành. ii. Bảo đảm thông suốt cho các mối liên hệ giữa các bộ phận. iii. Xây dựng cơ chế động viên, khuyến khích nhằm tạo động lực. iv. Giám sát, đôn đốc (Phải thường xuyên trừ một số ít nhiệm vụ hoặc người thực hiện nhiệm vụ đặc biệt). v. Điều chỉnh nguồn lực và thời gian hoàn thành từng nhiệm vụ cụ thể nhằm đạt thời gian chung (Phải chú ý tới các hoạt động tuyển dụng/mua sắm/ huy động; Sử dụng; Bồi dưỡng/bổ sung; Đánh giá). Quá trinh kiểm tra: Là quá trình đánh giá và rút ra bài học cho một chu kỳ quản lý khác. Với vai trò: Bảo đảm có minh chứng chính xác cho quá trình đánh giá. Nội dung cụ thể là: i. Điều chỉnh tiêu chuẩn (mục tiêu) nếu thấy cần. ii. Kiểm tra thực trạng. iii. So sánh với chuẩn đã thống nhất. iv. Xử lý (Khen, chê, điều chỉnh lại kế hoạch). Quyết định quản lý: Quyết định quản lý của chủ thể quản lý (CBLĐ trước một nhiệm vụ cụ thể hay trước một đơn vị cụ thể) chính là hành vi của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung, từ đơn giản đến phức tạp, bao gồm: Ở mức độ thấp, gồm các hành động tương tác có ý thức như: ánh mắt, lời nói, ngôn ngữ cơ thể hoặc phối hợp cả ba hành động trong cùng một lúc của chủ thể quản lý. Ở mức độ cao: gồm các hành động tạo nên sự nêu gương của chủ thể quản lý hoặc các văn bản do chủ thể quản lý ban hành. Có thể khái quát ý tưởng về mức độ hành vi của chủ thể quản lý bằng hình 1.1 sau Hình 1.1: Mức độ hành vi của chủ thể quản lý Tác động có hướng đích: Là sự điều chỉnh mối quan hệ giữa con người và con người trong hoạt động tập thể hướng tới mục tiêu chung của tập thể (Mục tiêu chung của tập thể là những kỳ vọng được thống nhất của tập thể đó trong một giai đoạn xác định nào đó). Mức độ cao Mức độ thấp Hành động tạo nên sự nêu gương của chủ thể quản lý hoặc các văn bản do chủ thể quản lý ban hành Ánh mắt, lời nói, ngôn ngữ cơ thể của chủ thể quản lý Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 60 Số 21 - Tháng 3 năm 2018 5. Điều kiện để bảo đảm có quyết định quản lý đúng Để có quyết định quản lý đúng, chủ thể quản lý phải thường xuyên rèn luyện các thao tác tư duy khi thực hiện chức năng quản lý của mình. Thao tác tư duy của chủ thể quản lý khi thực hiện chức năng quản lý của mình được hiểu là: Chủ thể quản lý phải cân nhắc bốn điều kiện, đó là, Thông tin có xác thực không? Trong những điều kiện cụ thể nào? Phương pháp nào sẽ được áp dụng? Hành động sẽ thực hiện có vi phạm nguyên tắc không? (có thể nói vắn tắt, 4 điều kiện là: “Thông, Điều, Phương, Nguyên“). Trong đó o Thông tin xác thực: Được hiểu là những thông tin đã được chứng minh thông qua những kết quả, những hành động cụ thể đã có. o Điều kiện cụ thể: Phải xem xét trên cả hai mặt. Một là, mục tiêu của chủ thể quản lý lúc đó là gì; Hai là, môi trường cụ thể lúc đó ra sao. o Phương pháp phù hợp: Trong quản lý, có rất nhiều phương pháp. Bằng cách khái quát vĩ mô, có 3 phương pháp cơ bản: Phương pháp tổ chức, hành chính; Phương pháp tâm lý, xã hội và phương pháp kinh tế. Tuy nhiên, phương pháp phù hợp được áp dụng để xử lý trong những tình huống cụ thể khi chủ thể quản lý thực thi các chức năng quản lý lại phụ thuộc phần lớn vào sự từng trải của chủ thể quản lý... o Không vi phạm nguyên tắc: Được hiểu là không vi phạm các quy định còn có hiệu lực đã được công bố chính thức của người có thẩm quyền. Nói tóm lại, nếu chủ thể quản lý đưa ra một quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chức năng quản lý của mình bị vi phạm một trong bốn điều kiện cần “Thông, Điều, Phương, Nguyên“ trong thao tác tư duy thì quyết định quản lý đó không đáp ứng được mục tiêu chung và quyết định quản lý đó không được đời sống thực tế chấp nhận. 6. Điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý giáo dục trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam Tìm điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục chính là việc tìm điều kiện để phát triển năng lực đưa ra các quyết định quản lý đúng, kịp thời trước những tình huống cụ thể, khi bản thân người CBQL giáo dục đang đóng vai trò là một CBLĐ đối với tình huống đó. Xuất phát từ khái niệm năng lực của một con người trước một nhiệm vụ, trong bối cảnh mục tiêu tổng quát của công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam đã được xác định và yêu cầu tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4, để phát triển năng lực của CBQL giáo dục, cần phải có tối thiểu các điều sau: i. Thống nhất và công bố công khai các chuẩn đối với từng cấp, bậc học; chuẩn đối với từng cấp quản lý trong hệ thống giáo dục (Chính các chuẩn này kết hợp với các Điều lệ tương ứng đã có sẽ định hướng cho CBQL giáo dục phấn đấu để bảo đảm yếu tố thứ nhất: Yếu tố nhận thức). ii. Tuân thủ đúng các yêu cầu khi bổ nhiệm người đứng đầu một đơn vị/tổ chức hay khi giao trách nhiệm cho một người trước một nhiệm vụ cụ thể. Một yêu cầu trọng yếu trong điều kiện thứ 2 này là: Người được giao nhiệm vụ đã thành công khi đóng vai trò là CBLĐ trong quá khứ chưa? Nói một cách khác, sự từng trải của họ trong lĩnh vực mà cấp có thẩm quyền định giao cho họ cụ thể ra sao? (Chính yêu cầu này sẽ khuyến khích và định hướng cho CBQL giáo dục tự rèn luyện khả năng của bản thân để những khả năng sẵn có trong họ hoặc họ tiếp nhận được trong thực tế cuộc sống trở thành kỹ năng của bản thân. Rèn luyện các thao tác tư duy trước khi đưa ra một quyết định quản lý chính là điều kiện tiên quyết để trở thành một CBQL/CBLĐ thành công). iii. Thái độ khi thực hiện nhiệm vụ của người sẽ được giao nhiệm vụ là một thách thức đối với các cấp có thẩm quyền. Đây là một điều kiện quan trọng nhưng khó nhận dạng chính xác ngay được; Hơn nữa, để phát triển được thái độ tích cực của một con người phải là một quá trình, không thể trong một thời gian ngắn. Từ khái niệm thái độ, có thể hình dung việc đánh giá về thái độ của một người trước một nhiệm vụ cụ thể là sự sẵn sàng của người đó trước nhiệm vụ theo một hướng nhất định trong một quá trình thực thi nhiệm vụ đó, nó được bộc lộ ra bên ngoài thông qua hành vi, cử chỉ, nét mặt và lời nói của người đó trong những tình huống, điều kiện cụ thể (Đó chính là những biểu hiện cấp thấp của quyết định quản lý). iv. Một điều hiển nhiên, điều kiện không thể thiếu để phát triển năng lực thực hiện một nhiệm vụ là sức khỏe của người được trao nhiệm vụ trước các sức ép về kinh tế, xã hội, tâm lý trong quá trình thực thi nhiệm vụ. v. Điều kiện tối thiểu cuối cùng là phải có môi trường phù hợp. Thực tế đã cho thấy, để có một môi trường phù hợp không giản đơn và yếu tố này đang là điểm yếu trong thực tế ở Việt Nam. Môi trường phù hợp có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thành công một nhiệm vụ. Làm sao có thể thành công khi bất ngờ gặp “thiên tai, địch họa”? Làm sao thể hiện được khả năng trước một nhiệm vụ nếu thường xuyên chỉ “ở hàng dự bị”? Làm sao thể hiện được khả năng giảng dạy hay quản lý một cách nhanh chóng, hợp lý trong hoàn cảnh phải tận dụng triệt để sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin khi mà các điều kiện về cơ sở vật chất thiếu thốn, khi ta không có đủ lượng thông tin cần thiết? Làm sao thực hiện được nhiệm vụ khi quá trình thực hiện không có nguyên tắc hay nguyên tắc đưa ra một cách tùy tiện?... 7. Kết luận Muốn hoàn thành một nhiệm vụ và phát triển Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 61Số 21 - Tháng 3 năm 2018 năng lực này trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, mỗi CBQL giáo dục phải nhận dạng đúng các yếu tố tạo nên năng lực thực hiện nhiệm vụ và phải hiểu rõ vai trò của một người CBQL giáo dục để từ đó có định hướng cho mình trong quá trình hoàn thiện bản thân. Năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục chính là năng lực đưa ra các quyết định quản lý đúng khi tác động trực tiếp đến đối tượng quản lý thông qua bốn quá trình (còn được gọi là 4 chức năng quản lý): Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra một cách có hướng đích, không vi phạm nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu đã được tập thể thống nhất về các nội dung nhằm bảo đảm thực hiện đúng bản chất của giáo dục và trong một môi trường giáo dục. Để có những QĐQL đúng, mỗi CBQL giáo dục phải hiểu rõ các biểu hiện của QĐQL, nó bao gồm cả các hành động tương tác có ý thức, các hành động tạo nên sự nêu gương của bản thân hoặc các văn bản do mình ban hành. Một điều vô cùng quan trọng là: Mỗi CBQL phải thường xuyên rèn luyện các thao tác tư duy trước khi bản thân đưa ra một QĐQL nào đó. Những điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam đã đề cập là những điều kiện tối thiểu để phát huy tốt được 5 yếu tố (NT, KN, TĐ, SK và MT) cấu thành năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của một người bình thường. Khi là một CBQL giáo dục trong bối cảnh hiện nay, 5 điều kiện trên càng trở nên quan trọng đối với các cấp có thẩm quyền và đối với mỗi cá nhân thực hiện các nhiệm vụ giáo dục. Điều kiện thứ nhất và thứ hai phụ thuộc phần lớn vào vai trò, trách nhiệm của các cấp quản lý giáo dục có thẩm quyền. Điều kiện thứ ba và thứ tư lại phụ thuộc phần lớn vào vai trò, trách nhiệm của cá nhân khi nhận một nhiệm vụ giáo dục nào đó. Để có được điều kiện thứ năm thì không phải trách nhiệm của riêng ai với sự dẫn dắt, gương mẫu từ các CBLĐ/CBQL các cấp. Trong khuôn khổ bài viết này, người viết đã đưa cách tiếp cận dưới góc độ quản lý về năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục, với hy vọng: Không những gián tiếp chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập khi thực hiện việc giao trách nhiệm cụ thể về lĩnh vực giáo dục cho một cá nhân ở Việt Nam, mà hơn nữa, người viết muốn chỉ ra vai trò, trách nhiệm của các cá nhân/tập thể trong việc tạo ra các điều kiện tối thiểu để phát triển được năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam. Điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL ở các cơ sở giáo dục dành cho người dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 cũng chính là các điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục nói chung đã được đề cập trong mục 6 ở trên nhưng với cách tiếp cận “vừa sức và phù hợp với thực tiễn”, trong đó phải đề cao tính minh bạch khi thực hiện một hoạt động nào đó và sự trải ng- hiệm của cá nhân khi được giao một nhiệm vụ. Tài liệu tham khảo [1] Ban chấp hành Trung ương, (2013), Nghị quyết TW8, ĐH XI, về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo. NQ số 29-NQTW; [2] Chính phủ, (2017), Về việc tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4. Chỉ thị 16-CT/TTg, ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ; [3] Vũ Hữu Ngoạn, (2001), Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện đại hội IX của Đảng, NXB. Chính trị Quốc gia; [4] Ngô Viết Sơn, (2013), Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên Học viện Quản lý giáo dục. Báo cáo tổng kết đề tài KH&CN cấp Bộ, mã số B2009 -29.36; [5] Ngô Viết Sơn, (2014), Dùng định nghĩa thao tác để tìm hiểu khái niệm quản lý và lợi ích khi sử dụng cách định nghĩa này, Tạp chí Giáo dục, số 374, kỳ 1, tháng 12-2014; [6] Ngô Viết Sơn, (2015), Một cách tiếp cận để tìm bản chất của quản lý giáo dục. Tạp chí Khoa học Quản lý Giáo dục. Số 4, tháng 8-2015; [7] Từ điển thuật ngữ lý luận và phương pháp dạy học. Đại học giáo dục. Dự án KHCN đặc biệt của Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001. Chủ nhiệm Dự án: GS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc. DEVELOPING CAPACITY OF EDUCATION MANAGERS IN ETHNIC MINORITY BOARDING SCHOOL MEETING THE INDUSTRIAL NETWORK REQUIREMENTS 4.0 Ngo Viet Son Abstract: After clarifying the terms: Capacity, educational administrators, the ability to perform the primary task of education administrators and assurance conditions have a correct management decision, the writer would like to propose The conditions for developing the capacity to perform the main task of educational administrators in the current context in Vietnam are based on that point of view when applied to management staff at educational institutions. for ethnic minorities. Keyword: Capacity; education managers; management decisions; ethnic minorities.
File đính kèm:
- phat_trien_nang_luc_cua_can_bo_quan_ly_o_cac_truong_pho_thon.pdf