Phát triển năng lực tự học tiếng Anh cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
Abstract: Self-learning competency is the ability to identify learning tasks in a self-conscious,
proactive way; set one’s own goals to require the effort to implement; implement effective learning
methods; adjust one’s own limitations when performing learning tasks. Developing English selflearning competency is to improve creative thinking competency for students, which is an
important task of education. The article provides an overview of self-learning competency, English
self-learning competency of students at the National University of Art Education; Since then, we
propose some measures to develop English self-learning competency for Art students to meet the
requirements of education innovation.
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển năng lực tự học tiếng Anh cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển năng lực tự học tiếng Anh cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 249-253 249 PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC TIẾNG ANH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Trịnh Thị Hà - Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương Ngày nhận bài: 13/02/2019; ngày sửa chữa: 27/02/2019; ngày duyệt đăng: 05/03/2019. Abstract: Self-learning competency is the ability to identify learning tasks in a self-conscious, proactive way; set one’s own goals to require the effort to implement; implement effective learning methods; adjust one’s own limitations when performing learning tasks. Developing English self- learning competency is to improve creative thinking competency for students, which is an important task of education. The article provides an overview of self-learning competency, English self-learning competency of students at the National University of Art Education; Since then, we propose some measures to develop English self-learning competency for Art students to meet the requirements of education innovation. Keywords: Art students, self-learning competency, goal, learning method. 1. Mở đầu Ngày nay xã hội ngày càng phát triển, vấn đề tự học trong các trường đại học, cao đẳng càng được quan tâm hơn bao giờ hết. Tự học cần phải trở thành một trong những năng lực quan trọng của mỗi cá nhân. Phát triển năng lực tự học (NLTH) cho sinh viên (SV) nhằm nâng cao năng lực của SV là nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục chuyên nghiệp nói chung và dạy học ở đại học, cao đẳng nói riêng; đồng thời, cũng là mục tiêu hướng tới của công cuộc đổi mới phương pháp dạy và học đang được đặt ra trong toàn ngành GD-ĐT. Trong nghiên cứu về việc áp dụng hệ thống quản lí chương trình tự học tiếng Anh tại Đại học King Mongkut Thonbury (Thái Lan), Sanprasert khẳng định giảng viên nhất thiết phải xây dựng được thái độ học tập ngoại ngữ tích cực cho SV, qua đó góp phần cải biến hành vi học ngoại ngữ - đặc biệt là quá trình tự học [1]. Bài viết phân tích khái quát về NLTH, tìm hiểu về NLTH tiếng Anh của SV Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương; từ đó đề xuất một số biện pháp phát triển NLTH tiếng Anh cho SV khối ngành Nghệ thuật. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái quát về năng lực tự học Trong lịch sử giáo dục, “tự học” là một khái niệm được đề cập rất sớm, thường được sử dụng với ý nghĩa là người học tự giác, chủ động thực hiện các hoạt động học tập của mình. Khái niệm “NLTH” là khả năng người học thực hiện các hoạt động tự học. Do vậy, khi nói đến tự học và NLTH, một số tác giả coi đó là hai khái niệm có chứa cùng một nội dung. Theo Phạm Minh Hạc, “năng lực” là một tổ hợp đặc điểm tâm lí của một người, tổ hợp này vận hành theo một mục đích nhất định tạo ra kết quả của một hoạt động nào đấy [2]. Theo Đặng Thành Hưng, năng lực được cấu thành từ các bộ phận như: tri thức về hoạt động hay quan hệ đó; kĩ năng tiến hành hoạt động hay xúc tiến ứng xử với quan hệ đó; những điều kiện tâm lí để tổ chức và thực hiện tri thức và kĩ năng nào đó trong một cơ cấu thống nhất và theo một định hướng rõ ràng. Tương ứng là 3 dạng năng lực chuyên biệt: năng lực biết, năng lực làm, năng lực biểu cảm [3]. Nguyễn Cảnh Toàn đưa ra quan niệm về NLTH như sau: “NLTH được hiểu là một thuộc tính kĩ năng rất phức hợp. Nó bao gồm kĩ năng và kĩ xảo cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho người học có thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra” [4]. NLTH là sự bao hàm cả cách học, kĩ năng học và nội dung học: “NLTH là sự tích hợp tổng thể cách học và kĩ năng tác động đến nội dung trong hàng loạt tình huống - vấn đề khác nhau”[5]. NLTH là những thuộc tính tâm lí mà nhờ đó chúng ta giải quyết được các vấn đề đặt ra một cách hiệu quả nhất, nhằm biến kiến thức của nhân loại thành sở hữu của riêng mình. NLTH cũng là một khả năng, một phẩm chất “vốn có” của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, NLTH luôn luôn biến đổi tùy thuộc vào hoạt động của cá nhân trong môi trường văn hóa - xã hội. NLTH là khả năng “bẩm sinh” của mỗi người nhưng phải được đào tạo, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn thì nó mới bộc lộ được những ưu VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 249-253 250 điểm giúp cho cá nhân phát triển, nếu không sẽ mãi là khả năng tiềm ẩn. Như vậy, NLTH là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập một cách tự giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu thực hiện; thực hiện các phương pháp học tập hiệu quả; điều chỉnh những sai sót, hạn chế của bản thân khi thực hiện các nhiệm vụ học tập thông qua tự đánh giá hoặc lời góp ý của giáo viên, bạn bè; chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn trong học tập. NLTH là một khái niệm trừu tượng và bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố. Để xác định được sự thay đổi các yếu tố của NLTH sau một quá trình học tập, các nhà nghiên cứu đã tập trung mô phỏng, xác định những dấu hiệu của NLTH được bộc lộ ra ngoài. Candy đã liệt kê 12 biểu hiện của người có NLTH. Ông chia thành 2 nhóm để xác định nhóm yếu tố nào sẽ chịu tác động mạnh từ môi trường học tập (hình 1)[6]. - Nhóm đặc biệt bên ngoài: chính là phương pháp học, chứa đựng các kĩ năng học tập cần phải có của người học, chủ yếu được hình thành và phát triển trong quá trình học, do đó phương pháp dạy của giáo viên sẽ có tác động rất lớn đến phương pháp học của học trò, tạo điều kiện để hình thành, phát triển và duy trì NLTH. - Nhóm đặc điểm bên trong (tính cách) được hình thành và phát triển chủ yếu thông qua các hoạt động sống, trải nghiệm của bản thân và bị chi phối bới yếu tố tâm lí. Chính vì điều đó mà giáo viên nên tạo môi trường để người học được thử nghiệm và kiểm chứng bản thân, đôi khi chỉ cần phản ứng đúng sai trong nhận thức hoặc nhận được lời động viên, khích lệ cũng tạo ra được động lực để người học phấn đấu, cố gắng tự học. Taylor đã xác định NLTH có những biểu hiện sau (xem hình 2 trang bên) [7]: Taylor đã xác nhận người tự học là người có động cơ học tập, bền bỉ, có tính độc lập, kỉ luật, tự tin và biết định hướng mục tiêu, có kĩ năng hoạt động phù hợp. Thông qua mô hình trên, tác giả đã phân tích ra có 3 yếu tố cơ bản của người tự học, đó là thái độ, tính cách và kĩ năng. Có thể nhận thấy, sự phân định đó để nhằm xác định rõ ràng những biểu hiện tư duy của bản thân và khả năng hoạt động trong thực tế. Từ những tìm hiểu về biểu hiện NLTH, theo chúng tôi, NLTH là một bộ phận của năng lực chung; tuy nhiên, mức độ biểu hiện NLTH đến đâu còn phụ thuộc vào từng cá nhân. Bên cạnh đó chúng tôi cũng đưa ra và chú trọng đề cập NLTH tiếng Anh gồm 4 thành tố và 13 biểu hiện được cụ thể hóa như hình 3 (trang 252). Theo sơ đồ hình 3, tự học không những có vai trò mang ý nghĩa quyết định quan trọng đối với sự thành đạt của mỗi người, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập mà còn phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo trong việc lĩnh hội tri thức khoa học. Trong quá trình tự học, SV luôn tự chủ, năng động và sáng tạo, biết học hỏi và đánh giá, biết so sánh và đối chiếu, biết kiểm nghiệm và xử lí tình huống. Quan trọng hơn là SV phải biết tự tìm cho mình một cách tự chiếm lĩnh tài liệu. Với môn Tiếng Anh, tự học sẽ giúp SV phát triển được kĩ năng nghe - nói - đọc - viết. Đây cũng là cơ hội giúp các bạn SV có thể giao tiếp được bằng tiếng Anh theo đáp ứng nhu cầu xã hội. Tự học giúp SV có tính chủ động học tập, xác định được nhiệm vụ học, đặt ra mục tiêu cho môn học, đưa ra kế hoạch học tập, hình thành tính cách, đưa ra phương pháp học, tự tìm hiểu nguồn tài liệu học để Hình 1. Sơ đồ biểu hiện NLTH theo Candy VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 249-253 251 phát huy tích cực tính tự học và trách nhiệm trong việc học của mình. Đó là con đường dẫn đến sáng tạo, khơi nguồn lòng đam mê, tìm tòi những điều mới lạ. 2.2. Đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển năng lực tự học tiếng Anh của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương đang thực hiện lộ trình đào tạo theo hệ thống chế tín chỉ trên cơ sở Quy chế 43 của Bộ GD-ĐT. Một trong những nội dung quan trọng của quy chế học tín chỉ như Điều 3, mục 3 đã quy định “Đối với học phần lí thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ, SV phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân” [8]. SV có thể thực hiện 30 giờ chuẩn bị cá nhân (giờ tự học) tại thư viện, tại nhà hay bất kì nơi nào mà họ thích, có thể tự lựa chọn phương pháp tự học thích hợp (học nhóm, học cá nhân,...). Tiếng Anh là một môn học có tính thực hành cao. Theo xu hướng hiện nay, việc học Tiếng Anh luôn yêu cầu người học luôn phải cố gắng vận động theo hướng tích cực, chủ động tìm tòi và tích luỹ kiến thức, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ này. Thực tế cho thấy, NLTH môn Tiếng Anh của SV Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương còn rất hạn chế. Trình độ SV không đồng đều nên khả năng học tập tiếp thu môn Tiếng Anh là khác nhau. SV cũng không có động lực hay hứng thú học môn Tiếng Anh. Phần lớn SV khối ngành Nghệ thuật chưa quan tâm đến môn Tiếng Anh, hầu hết SV chỉ học trên trường, có rất ít SV học ở trung tâm, học ở nhà và học trên mạng, thời gian SV dành cho môn học tiếng Anh rất ít, mà tiếng Anh là ngôn ngữ cần phải có nhiều thời gian học tập và thường xuyên luyện tập thực hành. Đa số SV không tự đánh giá và điều chỉnh kế hoạch học tập trong quá trình học cũng như sau quá trình học. Vì vậy, SV không chủ động và cũng không biết được trình độ và lượng kiến thức, năng lực mình đạt ở ngưỡng nào. Đây là một trong những yếu tố gây ảnh hưởng tới chất lượng môn học còn thấp, chưa đạt được yêu cầu của nhà trường đặt ra và chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục. Để khắc phục phần nào hạn chế trên, chúng tôi đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển NLTH tiếng Anh của SV Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương. 2.2.1. “Động cơ hóa” hoạt động tự học tiếng Anh của sinh viên “Động cơ hoá” có vai trò tích cực đối với hiệu quả hoạt động tự học của SV, làm tăng cường hứng thú học tập của SV, là hành trang cần thiết cho mỗi SV vững bước trên con đường học tập nói chung và tự học ngoại ngữ nói riêng. Họ cần có động cơ để phát triển NLTH tiếng Anh thông qua việc kiên trì tự học một cách khoa học và kỉ luật. Trong quá trình đó, giảng viên tích cực tham gia xây dựng động cơ, mục tiêu cho SV bằng những hoạt động dạy học cụ thể như hướng dẫn chiến lược tự học rõ ràng và giám sát việc tự học ngoài giờ của họ, thường xuyên hỗ trợ cá nhân tại lớp và phản hồi trực tuyến. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 249-253 252 Cần để SV ý thức được là họ phải học, thấy được rằng mình thực sự đang thiếu tri thức mới. Cảm nhận được sự thiếu hụt sẽ là một yếu tố kích thích SV tìm kiếm một sự cân đối mới, thỏa mãn nhu cầu tri thức của mình. Để làm như vậy, việc đánh giá giờ tự học của SV cần được thay thế và bổ sung bằng nhiều hình thức đánh giá khác nhau, nhằm đảm bảo đánh giá chính xác và toàn diện hơn. Các hình thức này có thể bao gồm: chấm điểm hồ sơ học tập điện tử, kiểm tra bài tập nhóm lớn, chấm điểm tần suất tương tác nhóm hay phản hồi với GV. Nhằm tạo động cơ tự học rõ ràng cho SV, các lượt đánh giá này cần được phân bổ đều vào đầu, giữa và cuối mỗi học phần. Song song với hoạt động lên lớp, GV cũng có thể khuyến khích SV tham gia các hoạt động nhóm, sinh hoạt định kì Câu lạc bộ Ngoại ngữ của nhà trường hay giao lưu với người nước ngoài vào cuối tuần sẽ góp phần biến kiến thức sách vở của SV thành tri thức và kĩ năng sống thực tiễn và hiệu quả. Cùng với việc định hình và rèn luyện các kĩ năng, các hoạt động này sẽ giúp SV duy trì hứng thú và động cơ học tiếng Anh. 2.2.2. Tăng hứng thú học tập ở sinh viên bằng các phương pháp, hình thức dạy học tích cực Đổi mới phương pháp giảng dạy cần tập trung dạy cách học, phương pháp học tập, phương pháp tự học. SV phải được học thông qua hoạt động, vui chơi và tăng cường học từ thực tiễn. Giảng viên (GV) cần sử dụng tối đa các nguồn lực dạy học và tạo không gian hoạt động đa dạng, dễ thay đổi, nâng cao khả năng hợp tác giữa GV với SV, giữa SV với SV. Ví dụ: - Tổ chức các hoạt động học tập cho SV làm việc theo nhóm kết hợp với thảo luận nhằm bảo đảm quá trình học tập diễn ra tích cực và hiệu quả, đồng thời việc học của SV trở nên linh hoạt, không máy móc, rập khuôn. Thông qua môi trường học tập hợp tác, SV không chỉ học được tri thức, kinh nghiệm, thái độ mà còn học được các kĩ năng thực hành, kĩ năng hợp tác, cộng tác, học cách tương tác. Qua việc hợp tác giữa các SV mà kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ. Đồng thời, SV học được cách trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe, có phê phán ý kiến của bạn, từ đó SV dễ hòa nhập, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập. Ngoài ra, học tập theo nhóm kết hợp với thảo luận toàn lớp còn giúp SV phát triển ý thức, trí tuệ tập thể, phát huy tính tích cực học tập, NLTH, năng lực tổ chức, quản lí, tự quản của SV. - Khuyến khích và khơi gợi SV tự tìm hiểu, tự khám phá kiến thức thông qua các phương pháp dạy học tích cực như học theo dự án, nêu vấn đề, theo tình huống. - Tạo ra được tình huống thực tế có ý nghĩa với SV, khơi dậy ở người học hứng thú, làm cho SV muốn tự mình tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề. Ngày nay, nhu VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 249-253 253 cầu học tập, tìm hiểu và nhận thức cái mới của SV cũng rất cao, việc sử dụng phương pháp này cũng không phải là khó. Điều quan trọng là GV phải tạo ra những nội dung mới, đột ngột, bất ngờ, những yếu tố chứa đựng mâu thuẫn liên quan đến quyền lợi và hứng thú của các em. - Sử dụng các công cụ đa phương tiện thu thập những nguồn tư liệu phong phú. Nếu người dạy chỉ sử dụng các số liệu trong tài liệu giảng dạy mà thiếu thông tin mới sẽ không thuyết phục được người học, do đó phải biết kết hợp với những kiến thức bổ trợ khác. Ngày nay, các điều kiện thông tin rất thuận lợi, nếu biết tận dụng, khai thác sẽ là nguồn tư liệu phong phú và quý giá phục vụ cho quá trình dạy học. Trong giờ dạy, việc sử dụng phương tiện nghe nhìn sẽ giúp cho bài dạy sôi động và thu hút được SV. Các phương tiện dạy học hiện đại sẽ tạo điều kiện để SV tham gia vào các hoạt động một cách thuận lợi, dễ dàng. Tùy vào bài học cụ thể, GV khuyến khích, giao cho SV thu thập tài liệu, tình huống liên quan đến nội dung bài học. Những tư liệu mà SV tìm được sẽ là minh chứng sống động làm cho giờ học trở nên thực tế hơn. Hơn nữa, SV sẽ phấn khởi, tự tin khi kiến thức mà mình thu thập được thầy cô ứng dụng vào bài học. 2.2.3. Đổi mới cách thức tổ chức giờ tự học tiếng Anh Giờ tự học tiếng Anh cần tích hợp vào chương trình học tiếng Anh chính khoá. Mỗi SV cần thực hiện ít nhất 1 giờ tự học tại phòng LAB mỗi tuần và cài đặt chương trình theo dõi quá trình đăng nhập - học tập tiếng Anh của SV trong giờ hành chính cũng như vào buổi tối. Với module tự học này, SV có thể tự lựa chọn các chương trình, trang web học tiếng Anh lưu trên máy tính hoặc trên trang web thư viện của nhà trường; có thể lựa chọn nâng cao kiến thức ngữ pháp, thực hành các kĩ năng nghe - nói - đọc - viết một cách riêng lẻ hay kết hợp những kiến thức và kĩ năng này vào hoạt động giao tiếp trong các tình huống thường gặp trong cuộc sống. Ngoài ra, GV có thể tư vấn cho SV nhiều chương trình học tiếng Anh hay trò chơi trên nền tảng máy tính/điện thoại thông minh giúp việc tự học trở nên phong phú, đa dạng và thú vị hơn dạng bài tập in trên giấy truyền thống. Việc SV sở hữu thiết bị thông minh phổ biến (trên 90%) cùng với Wi-fi phủ sóng toàn bộ khuôn viên nhà trường chính là điều kiện lí tưởng để hiện thực hoá quá trình tự học tiếng Anh trên nền tảng công nghệ. Tuy nhiên, những hoạt động tự học này cần được tiến hành dưới sự hướng dẫn và quản lí của GV hay cán bộ kĩ thuật của thư viện nhằm đảm bảo hiệu quả và đúng hướng. Sau các giờ tự học, SV cần ghi chép lại vào hồ sơ học tập điện tử (e-portfolio) những thu hoạch của mình, khó khăn gặp phải hay những câu hỏi cần GV giải đáp. 3. Kết luận Phát triển NLTH tiếng Anh cho SV là hình thành cho các em lòng say mê học hỏi, năng lực độc lập suy nghĩ, tư duy sáng tạo, bồi dưỡng cho SV ý thức tự giác, thái độ tích cực trong học tập; giúp các em tự tạo ra cho mình nhu cầu, động cơ, hứng thú trong học tập, nâng cao ý chí và huy động sức lực vượt qua những khó khăn để tiếp thu tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo; và điều cốt yếu là rèn luyện cho các em thói quen làm việc độc lập. Thói quen này sẽ giúp SV khi rời giảng đường vẫn có khả năng tự học tập suốt đời để không ngừng nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn cho mình. Để thực hiện được điều đó, GV không chỉ cung cấp kiến thức cho SV trong giờ học, mà GV cần phải cố gắng tạo cho SV một ý thức tự giác học tập, một phương pháp tự học, tự củng cố, phát triển kiến thức trước và sau giờ học. Bằng cách này, qua bài học, GV có thể hình thành cho SV một số kĩ năng tự học như kĩ năng thu thập tư liệu, hình ảnh minh họa, kĩ năng ứng dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Tài liệu tham khảo [1] Sanprasert, N. (2010). The application of a course management system to enhance autonomy in learning English as a foreign language. System, Vol. 38, pp. 109-123. An International Journal of Educational Technology and Applied Linguistics. [2] Phạm Minh Hạc (1992). Một số vấn đề về tâm lí học. NXB Giáo dục. [3] Đặng Thành Hưng (2004). Hệ thống kĩ năng học tập hiện đại. Tạp chí Giáo dục, số 78, tr 25-27. [4] Nguyễn Cảnh Toàn (2001). Học và dạy cách học. NXB Giáo dục. [5] Nguyễn Cảnh Toàn (1999). Luận bàn kinh nghiệm về tự học. NXB Giáo dục. [6] Philip Candy (1991). Self-direction for lifelong Learning: A comprehensive guide to theory and practice. San Francisco, CA: Jossey-Bass Publishers. [7] Taylor, B. (1995). Self-Directed Learning: Revisiting an Idea Most Appropriate for Middle School Students. Paper presented at the Combined Meeting of the Great Lakes and Southeast International Reading Association, Nashville, TN, Nov 11-15. [8] Bộ GD-ĐT (2007). Quyết định số 43/2007/QĐ- BGDĐT ngày 15/08/2007 ban hành Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ.
File đính kèm:
- phat_trien_nang_luc_tu_hoc_tieng_anh_cho_sinh_vien_truong_da.pdf