Phát triển tài chính và bất bình đẳng thu nhập - Bằng chứng thực nghiệm tại Đông Nam Á

Tóm tắt

Khi bất bình đẳng thu nhập làm suy giảm sự gắn kết và niềm tin xã hội, thì một điều quan trọng

cần xem xét là trong các nền kinh tế đang phát triển như khu vực Đông Nam Á, phát triển tài chính

sẽ làm giảm hay làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng thông qua huy động và phân bổ tiết

kiệm vào đầu tư sản xuất. Bài viết sử dụng kỹ thuật ước lượng GMM cho dữ liệu bảng từ 8 quốc

gia trong giai đoạn 1992 – 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ hình chữ U thuận giữa

tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người và bất bình đẳng thu nhập, trong khi đó, giữa phát triển

tài chính và bất bình đẳng có mối quan hệ theo hình chữ U ngược. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn

nhân lực có tác động âm có ý nghĩa đến bất bình đẳng, tức có ý nghĩa quan trọng làm cho phân phối

thu nhập trở nên bình đẳng hơn. Các phát hiện này đưa đến một số hàm ý chính sách cho Chính phủ

các nước vùng Đông Nam Á.

pdf 12 trang yennguyen 9540
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển tài chính và bất bình đẳng thu nhập - Bằng chứng thực nghiệm tại Đông Nam Á", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển tài chính và bất bình đẳng thu nhập - Bằng chứng thực nghiệm tại Đông Nam Á

Phát triển tài chính và bất bình đẳng thu nhập - Bằng chứng thực nghiệm tại Đông Nam Á
38
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019
PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP - 
BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI ĐÔNG NAM Á
FINANCIAL DEVELOPMENT AND INCOME INEQUALITY - 
EVIDENCE FROM SOUTH EAST ASIAN COUNTRIES
Nguyễn Thị Mỹ Linh1 
Ngày nhận bài: 03/01/2019 Ngày chấp nhận đăng: 12/03/2019 Ngày đăng: 05/4/2019
Tóm tắt
Khi bất bình đẳng thu nhập làm suy giảm sự gắn kết và niềm tin xã hội, thì một điều quan trọng 
cần xem xét là trong các nền kinh tế đang phát triển như khu vực Đông Nam Á, phát triển tài chính 
sẽ làm giảm hay làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng thông qua huy động và phân bổ tiết 
kiệm vào đầu tư sản xuất. Bài viết sử dụng kỹ thuật ước lượng GMM cho dữ liệu bảng từ 8 quốc 
gia trong giai đoạn 1992 – 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ hình chữ U thuận giữa 
tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người và bất bình đẳng thu nhập, trong khi đó, giữa phát triển 
tài chính và bất bình đẳng có mối quan hệ theo hình chữ U ngược. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn 
nhân lực có tác động âm có ý nghĩa đến bất bình đẳng, tức có ý nghĩa quan trọng làm cho phân phối 
thu nhập trở nên bình đẳng hơn. Các phát hiện này đưa đến một số hàm ý chính sách cho Chính phủ 
các nước vùng Đông Nam Á.
Từ khóa: Bất bình đẳng, phát triển tài chính, GMM.
Abstract
As income inequality reduces cohension and belief of the society, it’s important to investigate 
whether, in a developing economy, financial sector development reduces or worsens income 
inequality by mobilising and allocating savings into productive investments. The objective of this 
study is to show how the financial development affects economic in South East Asian developing 
countries by employing Generalized Method of Moments (GMM) to analyse a panel data of 8 
countries spanning from 1992 to 2016. The regression results show an inverted U-shaped relationship 
between financial sector development and income inequality. Meanwhile, there’s no evidence 
supporting Kuznets curve of an inverted U-shaped relationship between economic development 
and inequality. The result also confirm that quality of human resource has significantly negative 
impact on inequality, that means it plays a significant role in making income distribution more 
equal. The results have several significant contributions to policy makers of these countries. 
Keywords: Inequality, financial development, GMM.
__________________________________________
1 Trường Đại Học Tài chính – Marketing; Email: nguyenhoalinh@gmail.com
39
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019
2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực 
nghiệm
2.1. Cơ sở lý thuyết
Mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập 
và phát triển kinh tế ban đầu được phát triển 
bởi Kuznets (1955), cho rằng bất bình đẳng thu 
nhập trở nên tồi tệ hơn trong giai đoạn đầu của 
kinh tế nhưng sau đó thu nhập sẽ được phân phối 
đều hơn. Mối quan hệ phi tuyến tính giữa phát 
triển kinh tế và bất bình đẳng thu nhập được gọi 
là đường cong Kuznets. Lập luận của Kuznets 
cho rằng khu vực nông thôn với thu nhập trung 
bình thấp hơn thì bình đẳng hơn thành thị trong 
giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. 
Do đó, cùng với quá trình đô thị hóa, xã hội 
trở nên bất bình đẳng hơn. Khi thế hệ người 
nghèo ở nông thôn chuyển đến các thành phố 
được sinh ra, họ có thể kiếm lợi từ các cơ hội 
ở thành thị. Khi tiền lương của các nhóm thu 
nhập thấp tăng lên thì bất bình đẳng thu nhập 
về tổng thể sẽ được thu hẹp. Một yếu tố ủng 
hộ lập luận của Kuznets về các cơ hội ở đô thị 
là phát triển tài chính. Trong đó, theo World 
Bank (2012), phát triển tài chính là sự cải tiến 
về chất lượng trong 5 chức năng của hệ thống 
tài chính bao gồm (i) cung cấp thông tin về các 
khoản đầu tư được dự kiến trước và phân bổ 
vốn; (ii) giám sát các khoản đầu tư và thực hiện 
quản trị doanh nghiệp sau tài trợ; (iii) tạo điều 
kiện cho giao dịch, đa dạng hóa và quản lý rủi 
ro; (iv) huy động và tập hợp tiết kiệm; (v) nới 
lỏng giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ. Về 
cơ bản, phát triển tài chính là sự khắc phục các 
chi phí phát sinh trong hệ thống tài chính. Tài 
chính sẽ phát triển khi các công cụ tài chính, 
thị trường và trung gian giảm bớt tác động 
của thông tin, đảm bảo tính thực thi và giảm 
chi phí giao dịch và do đó thực hiện chức năng 
tốt hơn cho nền kinh tế. Theo Kuznets (1955), 
1. Giới thiệu
Sau hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 
2008 – 2009, nhiều nhà bình luận công khai 
tranh luận về lợi ích và tác hại của khu vực tài 
chính đối với phần còn lại của xã hội. Cùng với 
việc gia tăng khoảng cách thu nhập và bất bình 
đẳng xã hội ở Hoa Kỳ, Anh, Đức, cách mạng 
Mùa xuân Ả rập năm 2011 hay các phong trào 
xã hội diễn ra ở nhiều quốc gia, câu hỏi về sự 
đóng góp của hệ thống tài chính cho nền kinh tế 
xã hội được đặt ra. Đối với khu vực Đông Nam 
Á, trong bối cảnh bất bình đẳng mở rộng, thì 
khu vực tài chính có vai trò ảnh hưởng như thế 
nào đến bất bình đẳng thu nhập. Bởi trong các 
lý thuyết kinh tế cũng như các nghiên cứu thực 
nghiệm, sự đóng góp của phát triển thị trường 
tài chính đến tăng trưởng kinh tế đã được xây 
dựng và làm sáng tỏ. Với một hệ thống tài chính 
phát triển, nó có thể phân bổ nguồn lực tài chính 
đến khu vực sản xuất một cách hiệu quả. Tuy 
nhiên, cải cách hay phát triển các khu vực tài 
chính có thể dẫn đến một sự tăng trưởng không 
đồng đều, từ đó tạo nên sự bất bình đẳng về thu 
nhập. Đây có thể là trường hợp khi mà việc tiếp 
cận tài chính bị giới hạn ở một nhóm người nhất 
định dựa trên mức thu nhập, địa phương cư trú 
và khả năng cung cấp tài sản đảm bảo cho các 
khoản vay của họ. Mục đích của bài viết này tập 
trung xem xét tác động của phát triển tài chính 
đối với bất bình đẳng dựa trên phân tích dữ liệu 
bảng thu thập cho các quốc gia đang phát triển 
tại Đông Nam Á giai đoạn 1992 – 2016. Nghiên 
cứu sử dụng phương pháp ước lượng dữ liệu 
bảng động để ước lượng mối quan hệ tuyến tính 
và phi tuyến của các biến trong mô hình. Trong 
đó, cả hai thước đo phát triển tài chính được sử 
dụng là tỷ lệ tín dụng nội địa được cung ứng 
bởi khu vực tài chính/GDP và tiền theo nghĩa 
rộng/GDP.
40
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019
phát triển tài chính cho phép người di cư nghèo 
trước đây lựa chọn đến trình độ giáo dục mà họ 
mong muốn hoặc xây dựng doanh nghiệp của 
riêng họ - bất kể sự giàu có được thừa hưởng 
hay không. Đây là lý do cơ bản tại sao các lý 
thuyết kinh tế dự đoán tác động nghịch chiều 
của phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu 
nhập. Phát triển tài chính thúc đẩy sự lựa chọn 
giáo dục và thành lập doanh nghiệp. Vì cả hai 
đều dẫn đến tăng trưởng và tăng trưởng gắn liền 
với nhiều việc làm hơn, thu nhập trung bình sẽ 
tăng và bất bình đẳng giảm. Lập luận này càng 
được củng cố bởi giả thuyết thu hẹp tài chính – 
bất bình đẳng (finance – inequality narrowing 
hypothesis) được phát triển bởi Galor và Zeira 
(1993), Banerjee và Newman (1993), cho rằng 
thị trường tài chính không hoàn hảo ngăn cản 
người nghèo vay mượn đủ để đầu tư vào vốn 
con người và vật chất, ngụ ý rằng phát triển tài 
chính giúp giảm bớt sự bất bình đẳng thu nhập. 
Giả thuyết này cho rằng các cá nhân được thừa 
hưởng các số tiền khác nhau, những người giàu 
có sẽ đầu tư vào giáo dục và nhận những công 
việc lành nghề. Trong khi đó, những người có 
tài sản ban đầu ít hơn phải cậy vào vay mượn để 
đầu tư vào vốn nhân lực. Trong một thị trường 
tài chính kém phát triển, chi phí vay mượn khá 
tốn kém, những người không có khả năng vay 
mượn vẫn sẽ không có kỹ năng và như vậy điều 
này cứ tiếp tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. 
Khi nền kinh tế mở rộng, thị trường tài chính 
phát triển sẽ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế với các 
dịch vụ tín dụng rộng mở, người nghèo có cơ 
hội vay mượn vốn đầu tư vào con người và nâng 
cao thu nhập tiềm năng. Vì vậy mà bất bình 
đẳng thu nhập bắt đầu giảm và giả thuyết này 
kết luận rằng sự phát triển của khu vực tài chính 
có tương quan nghịch với bất bình đẳng thu 
nhập. Trái ngược với giả thuyết trên, giả thuyết 
mở rộng tài chính – bất bình đẳng (finance – 
inequality widening hypothesis) cho rằng phát 
triển tài chính chỉ có thể mang lại lợi ích cho 
các cá nhân giàu có trong môi trường mà chất 
lượng thể chế yếu (Clarke và cộng sự, 2006), 
khi người giàu có sự tín nhiệm đối với các ngân 
hàng. Trong khi đó, những người nghèo tụt hậu 
về xã hội và kinh tế lại thiếu sự tin cậy tương đối 
và không có tài sản thế chấp đủ, do đó gặp khó 
khăn khi tiếp cận các dịch vụ tài chính trong các 
tổ chức tài chính. Cũng từ tình trạng này, người 
nghèo chỉ được phổ cập giáo dục tiểu học và 
gia nhập thị trường lao động giản đơn với mức 
lương thấp hơn. Kết hợp những điều này, phát 
triển tài chính làm trầm trọng thêm tình trạng 
bất bình đẳng thu nhập. 
Trong khi có hai giả thuyết trái ngược nhau 
về tác động của phát triển tài chính đến bất 
bình đẳng như trên thì giả thuyết thứ ba của 
Greenwood và Jovanovic (1990) lại cho rằng 
mối quan hệ giữa phát triển tài chính và bất 
bình đẳng thu nhập có hình dạng chữ U ngược. 
Nói cách khác, trong giai đoạn đầu phát triển 
tài chính - khi chỉ có một phần nhỏ xã hội được 
hưởng lợi từ sự phát triển này - bất bình đẳng 
thu nhập tăng lên. Nhưng sau khi đạt đến một 
giai đoạn phát triển tài chính và kinh tế nhất 
định, phát triển tài chính bắt đầu làm giảm bất 
bình đẳng thu nhập. 
Trong sự tồn tại giả định khác nhau đằng 
sau mỗi cơ chế kinh tế cụ thể, thì lý do chính 
của việc thị trường tài chính phát triển hơn – ít 
nhất là sau một giai đoạn – làm giảm bất bình 
đẳng thu nhập chính là thông qua tín dụng, cho 
phép các hộ gia đình lựa chọn và quyết định 
để đạt tính kinh tế tối ưu. Theo Greenwood và 
Jovanovic (1990) các hộ gia đình lựa chọn danh 
mục đầu tư trong đó sử dụng các trung gian tài 
chính nói chung giúp cải thiện thu nhập với chi 
phí cố định thấp. Ban đầu, các hộ nghèo không 
41
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019
đủ khả năng sử dụng ngân hàng để tiết kiệm và 
do đó, bất bình đẳng gia tăng cùng với sự phát 
triển tài chính vì chỉ những hộ gia đình giàu 
có mới có thể sử dụng nguồn tài trợ của ngân 
hàng. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển và 
tăng trưởng theo thời gian, các hộ nghèo trở nên 
giàu hơn và cũng có thể bắt đầu sử dụng vốn tín 
dụng ngân hàng. Do đó, bất bình đẳng sau một 
số điểm rơi sẽ được cải thiện cùng với phát triển 
tài chính và kinh tế.
Hơn nữa, mối quan hệ giữa phát triển tài 
chính và giảm bất bình đẳng thu nhập vừa là 
mối tương quan, vừa là nguyên nhân - kết quả 
của nhau và quan hệ nhân quả này có thể ở cả 
hai chiều. Chẳng hạn khi tỷ lệ thu nhập nắm 
giữ bởi người nghèo tăng lên, nhu cầu về các 
dịch vụ tài chính của họ có thể tăng lên, điều 
này có thể thúc đẩy mối liên hệ tích cực giữa tài 
chính và tăng trưởng. Mặt khác khi kinh tế tăng 
trưởng, tài chính sẽ góp phần làm tăng thu nhập 
của người nghèo.
Như vậy các giả thuyết đã cho thấy chiều 
hướng tác động khác nhau của phát triển tài 
chính đến bất bình đẳng thu nhập, một là quan 
hệ tuyến tính hai là quan hệ phi tuyến có dạng 
chữ U ngược. Bên cạnh đó, cũng tồn tại một tác 
động ngược trở lại của bất bình đẳng đến phát 
triển tài chính. Đồng thời, các nghiên cứu thực 
nghiệm cũng cung cấp những bằng chứng khác 
nhau về mối quan hệ này. 
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm
Piketty và Saez (2003) phát hiện ra từ những 
năm 1970, bất bình đẳng thu nhập đã trở nên rõ 
rệt hơn ở Hoa Kỳ. Hơn nữa, Tổ chức Hợp tác và 
Phát triển kinh tế (OECD) năm 2008 cũng cho 
rằng bất bình đẳng thu nhập đang trở nên tồi tệ ở 
hầu hết các nước tiên tiến, nơi được cho rằng thu 
nhập sẽ tăng. Điều này cho thấy các lực lượng 
thị trường một mình không thể giảm thiểu vấn 
đề bất bình đẳng thu nhập khi một nền kinh tế 
ngày càng trở nên giàu hơn. Điều này giải thích 
tại sao Chính phủ của nhiều quốc gia, đặc biệt 
là trong OECD, đã sử dụng mạnh mẽ chính sách 
tài khóa để giải quyết bất bình đẳng. Các nghiên 
cứu cho thấy chi tiêu công có hiệu quả hơn các 
chính sách thuế trong việc giải quyết bất bình 
đẳng. Chi tiêu công cho giáo dục là một ví dụ 
quan trọng. Theo Goldin và Katz (2008), việc 
mở rộng giáo dục làm giảm bất bình đẳng thu 
nhập bằng cách mở rộng nguồn cung ứng công 
nhân lành nghề. Ở một cấp độ rộng hơn, phổ 
cập giáo dục làm cho giáo dục phụ thuộc vào 
hoàn cảnh cá nhân và xã hội ít hơn và làm cân 
bằng sự tích lũy vốn nhân lực giữa người nghèo 
và người giàu do đó làm giảm bất bình đẳng 
thu nhập.
Enowbi Batuo và cộng sự (2010) đưa ra 
bằng chứng về ảnh hưởng của phát triển tài 
chính đến phân phối thu nhập bằng cách sử 
dụng ước lượng GMM cho dữ liệu bảng của 22 
quốc gia Châu Phi giai đoạn 1990 – 2004. Kết 
quả chỉ ra rằng bất bình đẳng thu nhập giảm 
xuống khi nền kinh tế có sự phát triển tài chính. 
Đồng thời, giáo dục đóng một vai trò quan trọng 
giúp phân phối thu nhập trở nên cân bằng hơn 
và đặc biệt, khi kiểm định về mối quan hệ phi 
tuyến giữa phát triển khu vực tài chính và bất 
bình đẳng, nghiên cứu phát hiện về mối quan hệ 
có hình dạng chữ U ngược.
Jaunch và Watzka (2012) phân tích mối 
quan hệ giữa phát triển tài chính và bất bình 
đẳng thu nhập từ dữ liệu bảng cho 138 quốc gia 
đang phát triển và phát triển giai đoạn 1960 – 
2008. Bằng cách sử dụng mô hình hiệu ứng cố 
định nghiên cứu cho thấy phát triển tài chính có 
tác động dương đến bất bình đẳng thu nhập, trái 
với các lý thuyết dự đoán về tác động âm của 
phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập. 
Một sự phát triển hơn của thị trường tài chính 
42
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019
dẫn đến bất bình đẳng thu nhập cao hơn, tuy 
nhiên độ lớn của tác động này là không đáng kể 
khi việc gia tăng cung cấp tín dụng tăng 10% thì 
hệ số Gini tăng 0.23. 
Cũng sử dụng dữ liệu bảng, Park và Shin 
(2015) nghiên cứu thực nghiệm nhằm xem xét 
tác động của phát triển kinh tế và phát triển tài 
chính đến bất bình đẳng thu nhập trường hợp 
162 quốc gia, bao gồm nhiều quốc gia đang phát 
triển tại châu Á với khoảng thời gian nghiên 
cứu kéo dài từ 1960 đến 2011. Nghiên cứu đã 
tìm thấy mối quan hệ hình chữ U ngược giữa 
thu nhập bình quân đầu người và bất bình đẳng 
thu nhập lên đến một mức thu nhập bình quân 
đầu người nhất định theo đường cong Kuznets. 
Tuy nhiên, khi GDP bình quân đầu người tiếp 
tục tăng, bất bình đẳng thu nhập bắt đầu tăng 
trở lại. Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và 
bất bình đẳng là có dạng chữ U thuận, phát triển 
tài chính làm giảm bất bình đẳng ở một mức độ 
nhất định, song khi phát triển tài chính xa hơn, 
nó làm gia tăng bất bình đẳng. Bên cạnh đó, tỷ 
lệ giáo dục tiểu học gia tăng và khi luật lệ và trật 
tự được cải thiện, phát triển tài chính trở nên 
hiệu quả hơn trong việc làm giảm bất bình đẳng 
Seven và Coskun (2016) kiểm tra việc đóng 
góp của khu vực ngân hàng và thị trường cổ 
phiếu trong việc giảm bất bình đẳng thu nhập 
và nghèo đói với mẫu bao gồm 45 quốc gia 
đang phát triển giai đoạn 1987 – 2011 ... ủa Đại học United 
Nations, kế thừa từ cơ sở dữ liệu của Deininger 
và Squire (1996), dữ liệu từ Các nghiên cứu thu 
nhập Luxembourg (LIS), dữ liệu về phân phối 
thu nhập toàn cầu của Branko Milanovic, cơ sở 
dữ liệu kinh tế – xã hội của châu Mỹ Latinh 
và thống kê thu nhập và chi tiêu hộ gia đình 
của ILO. Nguồn dữ liệu về bất bình đẳng thu 
nhập này cũng được sử dụng trong nghiên cứu 
của Jaunch và Watzka (2012). Đối với biến phát 
triển tài chính, do tính chất sẵn có của dữ liệu, 
chỉ tiêu tín dụng nội địa được cung ứng bởi khu 
vực tài chính/GDP và tỷ lệ tiền theo nghĩa rộng/
GDP được sử dụng. Đây cũng là thước đo được 
sử dụng khá rộng rãi trong các nghiên cứu để đo 
lường mức độ phát triển tài chính của các quốc 
gia như nghiên cứu của Enowbi Batuo và cộng 
sự (2010), Jaunch và Watzka (2012). 
3.2. Phương pháp ước lượng
Bài viết sử dụng phương pháp ước lượng 
GMM do một số vấn đề sau đây có thể phát sinh 
và dẫn đến các kết quả ước lượng phương trình 
(3.1) bị chệch:
(i) Do tính chất các biến nghiên cứu đều là 
các biến số kinh tế vĩ mô nên chúng thường có 
tác động hai chiều, như biến FD có thể là biến 
nội sinh khi nó tác động tới IE và ngược lại IE 
cũng tác động tới FD. Do vậy việc hồi qui các 
biến này có thể dẫn đến sự tương quan với sai 
số và một số biến khác có những thuộc tính 
tương tự.
(ii) Các đặc tính quốc gia bất biến theo thời 
gian như địa lý, văn hóa và nhân chủng học có 
thể tương quan với các biến giải thích (các tác 
động cố định). Các tác động cố định này hiện 
diện trong đại lượng sai số của các phương trình 
thực nghiệm.
(iii) Sự hiện diện của biến trễ của biến phụ 
thuộc IE
it-1
 đưa đến khả năng tự tương quan cao.
Các vấn đề nêu trên có thể khiến hồi qui 
OLS không nhất quán và ước lượng bị chệch, 
hay vấn đề nội sinh của các biến chưa thể xử lý 
triệt để bằng các phương pháp như FEM, REM 
hay 2SLS. Phương pháp hồi qui GMM sai phân 
được phát triển bởi Arellano và Bond (1991) có 
thể xử lý tốt hơn các vấn đề trên. Tính phù hợp 
của các biến công cụ trong ước lượng GMM 
sai phân dữ liệu bảng được đánh giá thông qua 
thống kê Sargan và thống kê Arellano-Bond. 
Kiểm định Sargan với giả thuyết H
0
: biến công 
cụ có tính ngoại sinh, nghĩa là nó không tương 
quan với sai số. Vì thế P-value của thống kê 
Sargan càng lớn càng tốt. Kiểm định Arellano-
Bond được dùng để phát hiện tự tương quan 
chuỗi ở sai phân bậc 1. Vì thế, kết quả kiểm 
định tương quan chuỗi bậc một AR(1) không 
cần quan tâm, trong khi tự tương quan chuỗi 
bậc hai AR(2) được kiểm định dựa trên chuỗi 
sai phân bậc 1 của sai số để phát hiện hiện 
tượng tự tương quan bậc một của nó.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Thống kê mô tả
45
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019
Bảng 2 thể hiện giá trị các biến trong mô 
hình nghiên cứu, hệ số GINI trung bình của 
các quốc gia trong mẫu gần 40%, sai số chuẩn 
gần 4%. Nhìn chung, bất bình đẳng thu nhập 
chậm thay đổi theo thời gian. Tốc độ tăng 
trưởng GDP bình quân đầu người trong khu 
vực trung bình hơn 4%. Phát triển tài chính đo 
lường thông qua hai tỷ lệ tín dụng nội địa/GDP 
và tiền theo nghĩa rộng/GDP có sự tương đồng 
về giá trị trung bình, ở mức trên 60%. Chỉ số 
phát triển con người ở mức khá có giá trị trung 
bình 0.6 mặc dù nền kinh tế khu vực còn đang 
phát triển. Bảng 3 cho thấy mối tương quan 
nghịch chiều giữa GINI và GDPpc, CPI. Trong 
khi đó giữa GINI và các biến còn lại đều tương 
quan thuận chiều.
Bảng 2. Thống kê mô tả giá trị của các biến trong mô hình
Các biến Obs Mean Std.Dev. Min Max
GINI 200 39.96112 3.908192 31 46.5
GDPpc 200 4.389336 4.494601 -37.00225 12.68542
DOC 200 62.47399 48.8389 4.941679 173.9225
BRM 200 61.25384 40.51298 4.290184 151.0947
TO 200 93.51671 52.60738 .1674176 220.4073
HDI 200 .590925 .1070768 .373 .799
CPI 200 8.410066 13.62141 -1.710337 125.2721
MSV 200 58.44852 20.68602 4.00084 83.25021
GOE 200 9.364855 3.703537 3.08576 21.38435
Nguồn: Tính từ phần mềm Stata 12.0.
Bảng 3. Ma trận tương quan các biến trong mô hình nghiên cứu
GINI GDPpc DOC BRM TO HDI CPI MSV GOE
GINI 1.0000
GDPpc -0.3069 1.0000
DOC 0.6041 -0.1837 1.0000
BRM 0.5932 -0.1552 0.9587 1.0000
TO 0.5665 -0.1702 0.6544 0.7492 1.0000
HDI 0.6896 -0.1414 0.7928 0.8526 0.6177 1.0000
CPI -0.3928 0.0186 -0.2575 -0.2873 -0.2990 -0.3586 1.0000
MSV 0.8377 -0.3186 0.5837 0.5847 0.6370 0.7164 -0.3698 1.0000
GOE 0.4926 -0.0779 0.5350 0.5097 0.2107 0.6168 -0.2937 0.3652 1.0000
Nguồn: Tính từ phần mềm Stata 12.0.
46
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019
Bảng 4. Kết quả ước lượng GMM
Mô hình 1 Mô hình 2
GINI(-1) 0.387*** 0.357*
(0.085) (0.195)
GDPpc -0.042* -0.108*
(0.024) (0.059)
GDPpc2 0.003* 0.014*
(0.002) (0.008)
DOC 0.049***
(0.019)
DOC2 -0.0002**
(0.000)
BRM 0.093**
(0.040)
BRM2 -0.0004**
(0.000)
TOP 0.002 0.002
(0.004) (0.005)
HDI -5.646** -9.230***
(2.430) (2.999)
CPI -0.004 0.015
(0.007) (0.017)
MSV -0.006 0.003
(0.020) (0.022)
GOE -0.102 0.070
(0.086) (0.089)
Sargan test 0.64 0.86
AR(2) test 0.94 0.40
*, **, *** có các mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 
10%, 5%, 1%; số liệu trong () là sai số chuẩn.
Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata.
Kết quả ước lượng tại Bảng 4 kết quả thực 
nghiệm của mô hình tuyến tính (phương trình 
3.1) bằng phương pháp tiếp cận dữ liệu bảng 
động GMM, với các mô hình 1 và 2 lần lượt 
từng biến DOC và BRM được đưa vào làm dẫn 
xuất cho phát triển tài chính. Tuy nhiên kết quả 
cuả chúng có sự tương đồng. Biến trễ phụ thuộc 
GINI(-1) có ý nghĩa thống kê, ngụ ý rằng GMM 
là một phương pháp ước lượng thích hợp và có 
thể dựa vào kết quả thực nghiệm để thực hiện 
suy luận thống kê. Song kết quả ước lượng về 
tác động của GDP bình quân đầu người đến bất 
bình đẳng trái ngược với giả thuyết hình chữ U 
ngược của Kuznets. Bất bình đẳng thu nhập ban 
đầu giảm khi thu nhập bình quân đầu người tăng 
và tăng sau khi tốc độ tăng GDP bình quân đầu 
người vượt qua ngưỡng khoảng 7% trong mô 
hình 1 và 4% trong mô hình 2. Điều này có thể 
giải thích bởi phạm vi và thời gian nghiên cứu 
của Kuznets là giai đoạn thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 
20 cho các quốc gia công nghiệp hóa. Trong khi 
đó giai đoạn nghiên cứu của bài viết từ 1992 – 
2016 cho phạm vi các quốc gia đang phát triển 
khu vực Đông Nam Á. Hơn nữa, theo Kuznets, 
U ngược không là mối quan hệ khả dĩ duy nhất 
mà chỉ là xu hướng. Theo Bowman (1993), 
ý tưởng Kuznets về “điểm ngoặt” không phù 
hợp vì khác biệt lớn giữa các nước và không áp 
dụng được mô thức khái quát nào cho mối quan 
hệ giữa mức phát triển và bất bình đẳng. Bối 
cảnh kinh tế, thể chế và chính trị ở mỗi nước sẽ 
tác động lên kết quả. 
Về tác động của phát triển tài chính đến bất 
bình đẳng, hệ số của các biến phát triển tài chính 
và bình phương của nó lần lượt là dương và âm, 
điều này cho thấy tồn tại một mối quan hệ hình 
chữ U ngược về phát triển tài chính và bất bình 
đẳng, tương đồng với nghiên cứu của Jaunch 
và Watzka (2012) khi thực hiện nghiên cứu cho 
mẫu các quốc gia có thu nhập trung bình. Kết 
quả thực nghiệm đã thể hiện mối quan hệ giữa 
phát triển tài chính và bất bình đẳng thu nhập có 
hình dạng chữ U ngược, phù hợp giả thuyết thứ 
3 của Greenwood và Jovanovic (1990). Trong 
giai đoạn đầu, khi khu vực tài chính kém phát 
triển, bất bình đẳng gia tăng cùng với sự phát 
47
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019
triển của thị trường tài chính nhưng khi tỷ lệ 
tín dụng nội địa được cung ứng bởi khu vực tài 
chính/GDP và tỷ lệ tiền theo nghĩa rộng/GDP 
vượt qua giá trị ngưỡng lần lượt là 245% và 
116% thì nó sẽ có tác động làm giảm bất bình 
đẳng, khi có nhiều chủ thể được tiếp cận với các 
trung gian tài chính. 
Trong các biến kiểm soát được đưa vào trong 
mô hình, chỉ có biến HDI mang tác động âm có 
ý nghĩa thống kê đến bất bình đẳng. Khi chất 
lượng nguồn nhân lực được cải thiện khoảng 
cách phân phối thu nhập sẽ được thu hẹp. Các 
kết quả thu được như trên mang ý nghĩa thống 
kê và kinh tế nhất định khi các kiểm định tính 
nội sinh và tương quan bậc hai được đảm bảo, 
với cả hai dẫn xuất cho phát triển tài chính. 
5. Kết luận và hàm ý chính sách
Tại Đông Nam Á, nơi có một số nền kinh tế 
phát triển nhanh nhất thế giới, với tổng quy mô 
nền kinh tế hiện nay khoảng 2,6 nghìn tỷ USD, 
tương đương với quy mô nền kinh tế của Anh 
Quốc. Tuy nhiên, khoảng cách giữa người giàu 
và người nghèo đang ngày càng được nới rộng 
trong khu vực. Báo cáo của UNESCAP cho 
rằng “Đông Nam Á là tiểu vùng có nhiều tiến 
bộ nhất trong tiến trình hướng tới Mục tiêu 9 
trong các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) 
tập trung vào công nghiệp, đổi mới và cơ sở 
hạ tầng. Khu vực này cũng đạt một số tiến bộ 
hướng tới Mục tiêu 8 tập trung vào công việc 
và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, Đông Nam 
Á đang chứng kiến sự bất bình đẳng mở rộng, 
một trở ngại để đạt được Mục tiêu 10 giảm bất 
bình đẳng trong và giữa các quốc gia. Nếu tình 
trạng bất bình đẳng về thu nhập không tăng lên 
trong thập kỷ qua, gần 140 triệu người nữa có 
thể đã thoát khỏi đói nghèo. Nhiều phụ nữ hơn 
sẽ có cơ hội được đi học và hoàn thành chương 
trình giáo dục trung học. Cũng sẽ có thêm nhiều 
người được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc 
sức khỏe, vệ sinh cơ bản hoặc thậm chí có tài 
khoản ngân hàng hơn. Số người chết vì bệnh 
tật theo đó có thể cũng sẽ giảm xuống. Do đó, 
việc thu hẹp khoảng cách thu nhập được đặt ra 
cho các quốc gia trong khu vực. Trong phạm 
vi bài viết này, kết quả thực nghiệm cho thấy 
mối quan hệ hình chữ U thuận giữa tăng trưởng 
GDP bình quân đầu người với bất bình đẳng thu 
nhập. Trong khi đó, giữa phát triển tài chính với 
bất bình đẳng có dạng hình chữ U ngược với 
cả hai dẫn xuất là tỷ lệ tín dụng nội địa được 
cung ứng bởi khu vực tài chính/GDP và tỷ lệ 
cung tiền/GDP trường hợp các quốc gia đang 
phát triển khu vực Đông Nam Á. Qua đó cho 
thấy phát triển tài chính, đặc biệt ở khu vực 
nông thôn, nơi tập trung một bộ phận lớn những 
người nghèo, cùng với tăng cường mở rộng tín 
dụng và cung tiền sẽ mang đến tác động có lợi 
cho việc làm giảm bất bình đẳng thu nhập trong 
xã hội. Riêng tại Việt Nam, trong bối cảnh thị 
trường tín dụng đen thâm nhập khá mạnh mẽ 
khu vực nông thôn nên cách thức khả thi nhằm 
cải thiện khả năng tiếp cận nguồn tài trợ của 
người nghèo là hoàn thiện cơ sở hạ tầng tài 
chính, thúc đẩy hoạt động của tổ chức tài chính 
vi mô và ngân hàng hợp tác phát triển.
Ngoài ra, chất lượng nhân lực tốt thể hiện 
qua trình độ, sức khỏe của người lao động, nó 
được hình thành từ quá trình tích lũy về giáo 
dục và y tế của mỗi người. Khi những yếu tố 
này được cải thiện sẽ giúp thu hẹp khoảng cách 
thu nhập. Tại các quốc gia đang phát triển Đông 
Nam Á, việc đầu tư vào giáo dục, nâng cao tay 
nghề sẽ góp phần làm giảm bất bình đẳng. Tuy 
nhiên cần chú ý về kênh gián tiếp mà phát triển 
tài chính tác động đến bất bình đẳng thu nhập 
bằng cách thay đổi nhu cầu thành phần lao động. 
Demirguc-Kunt và Levine (2009) cho rằng nếu 
các dịch vụ tài chính mở rộng thúc đẩy nhu cầu 
48
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019
về người lao động có tay nghề thấp, tiền lương 
của những người lao động đó sẽ góp phần làm 
giảm bất bình đẳng. Mặt khác, nếu các dịch vụ 
tài chính gia tăng làm tăng nhu cầu về lao động 
có tay nghề cao và do đó mức lương tương đối 
của họ, bất bình đẳng thu nhập có thể trở nên 
lớn hơn.
Như vậy bài viết đã cho thấy mối quan hệ 
tài chính – bất bình đẳng trên cả phương diện lý 
thuyết lẫn thực tiễn. Tuy nhiên, do có nhiều chỉ 
số phản ánh mức độ phát triển tài chính, trong 
đó tỷ lệ tiền có tính thanh khoản (M3)/GDP hay 
chỉ số phát triển tài chính tích hợp chưa được 
sử dụng như nghiên cứu của Enowbi Batuo và 
cộng sự (2010). Hơn nữa, theo Amir-ud-Din và 
cộng sự (2008), khi dân chủ được cải thiện sẽ 
củng cố các thể chế và giúp hiện thực hóa lý 
tưởng công bằng trong xã hội. Do đó, hướng 
mở rộng lý tưởng cho nghiên cứu là bổ sung 
thêm một số các chỉ tiêu đánh giá phát triển tài 
chính và biến kiểm soát là chất lượng thể chế 
vào trong mô hình để làm sáng tỏ thêm bằng 
chứng thực nghiệm.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Lê Quốc Hội & Lê Văn Chiên. Phát triển thị trường tín dụng và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam. 
Tạp chí Kinh tế và phát triển, 238, 13 – 21.
Trang web:  
tang-a59481.html, truy cập ngày 31/12/2018.
Tiếng Anh
Arellano, M., & Bond, S. (1991). Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence 
and an application to employment equations. The review of economic studies, 58(2), 277-297.
Amir-ud-Din, R., Rashid, A., & Ahmad, S. (2008). Democracy, Inequality and Economic 
Development: The Case of Pakistan.
Banerjee, A. V., & Newman, A. F. (1993). Occupational choice and the process of development. Journal 
of political economy, 101(2), 274-298.
Bowman, K. S. (1997). Should the Kuznets effect be relied on to induce equalizing growth: evidence 
from post-1950 development. World Development, 25(1), 127-143.
Clarke, G. R., Xu, L. C., & Zou, H. F. (2006). Finance and income inequality: what do the data tell 
us?. Southern economic journal, 578-596.
Demirguc-Kunt, A., & Levine, R. (2009). Finance and inequality: Theory and evidence. Annu. Rev. 
Financ. Econ., 1(1), 287-318.
Enowbi Batuo, M., Guidi, F., & Mlambo, K. (2010). Financial development and income inequality: 
Evidence from African Countries.
Galor, O., & Zeira, J. (1993). Income distribution and macroeconomics. The review of economic 
studies, 60(1), 35-52.
Greenwood, J., & Jovanovic, B. (1990). Financial development, growth, and the distribution of 
income. Journal of political Economy, 98(5, Part 1), 1076-1107.
Goldin, C., & Katz, L. F. (2008). Transitions: Career and family life cycles of the educational 
elite. American Economic Review, 98(2), 363-69.
49
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 50, 04/2019
Jauch, S., & Watzka, S. (2016). Financial development and income inequality: a panel data 
approach. Empirical Economics, 51(1), 291-314.
Kuznets, S. (1955). Economic growth and income inequality. The American economic review, 45(1), 
1-28.
Law, S. H., & Tan, H. B. (2009). The role of financial development on income inequality in 
Malaysia. Journal of Economic Development, 34(2), 153.
Masih, A. (2018). Is the relationship between financial development and income inequality 
symmetric or asymmetric? new evidence from South Africa based on NARDL. University 
Library of Munich, Germany.
Ortiz, I., & Cummins, M. (2011). Global inequality: beyond the bottom billion–a rapid review of 
income distribution in 141 countries.
Piketty, T., & Saez, E. (2003). Income inequality in the United States, 1913–1998. The Quarterly 
journal of economics, 118(1), 1-41.
Seven, U., & Coskun, Y. (2016). Does financial development reduce income inequality and poverty? 
Evidence from emerging countries. Emerging Markets Review, 26, 34-63.
World Bank. 2012. Global Financial Development Report 2013: Rethinking the Role of the State 
in Finance. World Bank, Washington, DC.

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_tai_chinh_va_bat_binh_dang_thu_nhap_bang_chung_th.pdf