Phong tục cưới hỏi của người Sán Dìu ở huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên và những vấn đề đặt ra hiện nay
TÓM TẮT
Cưới xin là việc hệ trọng trong cuộc đời mỗi người. Phong tục cưới xin truyền thống của người
Sán Dìu ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên chứa đựng những giá trị nhân văn, văn hóa tốt đẹp
của tộc người. Những giá trị truyền thống ấy biến đổi theo thời gian, không gian. Qua sự biến đổi
ấy, nó đã tự “gạn đục khơi trong” để phù hợp với thời đại con người đang sống và khẳng định sức
sống trường tồn. Tuy nhiên, có những thay đổi theo trào lưu, đang trượt dài theo quan niệm mới
của con người làm xói mòn các giá trị truyền thống. Nguy cơ mất dần những giá trị văn hóa truyền
thống đang là vấn đề đặt ra đối với phong tục cưới xin của người Sán Dìu ở huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên hiện nay
Bạn đang xem tài liệu "Phong tục cưới hỏi của người Sán Dìu ở huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên và những vấn đề đặt ra hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phong tục cưới hỏi của người Sán Dìu ở huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên và những vấn đề đặt ra hiện nay
Dương Thùy Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 175 - 179 175 PHONG TỤC CƯỚI HỎI CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN PHÚ BÌNH TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY Dương Thùy Linh* Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Cưới xin là việc hệ trọng trong cuộc đời mỗi người. Phong tục cưới xin truyền thống của người Sán Dìu ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên chứa đựng những giá trị nhân văn, văn hóa tốt đẹp của tộc người. Những giá trị truyền thống ấy biến đổi theo thời gian, không gian. Qua sự biến đổi ấy, nó đã tự “gạn đục khơi trong” để phù hợp với thời đại con người đang sống và khẳng định sức sống trường tồn. Tuy nhiên, có những thay đổi theo trào lưu, đang trượt dài theo quan niệm mới của con người làm xói mòn các giá trị truyền thống. Nguy cơ mất dần những giá trị văn hóa truyền thống đang là vấn đề đặt ra đối với phong tục cưới xin của người Sán Dìu ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên hiện nay. Từ khóa: Sán Dìu, cưới xin, phong tục, nghi lễ, văn hóa dân tộc. Phú Bình là huyện có các dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay, Dao, Hmông và người dân tộc Hoa sinh sống. Dân số của huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên theo điều tra dân số 01/04/2009 là 134.150 người, trong đó người Sán Dìu là 3.115 người, chiếm 2,3% dân số toàn huyện. Quá trình định cư và phát triển của người Sán Dìu ở Phú Bình đã hình thành cho tộc người những đặc trưng văn hóa riêng. Đồng thời, chính sự cộng cư, xen kẽ và tiếp thu văn hóa các dân tộc khác càng góp phần khẳng định giá trị văn hóa của tộc người, tạo nên một bản sắc văn hóa tộc người Sán Dìu khu biệt. Theo phong tục của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, đám cưới truyền thống của họ trải qua những nghi lễ chính sau:* Lễ xin lá số (loổng nén sang): Hôn nhân truyền thống của người Sán Dìu do cha mẹ quyết định và phụ thuộc nhiều vào số mệnh của đôi trai gái. Các đôi thanh niên nam nữ muốn nên vợ nên chồng đều phải so tuổi vì họ tin rằng hợp tuổi nhau thì sẽ hoà thuận, ăn nên làm ra, nếu không hợp tuổi thì sẽ gặp phải nhiều đau khổ, bất hạnh. Việc xin lá số do ông mối (moi nhin) đảm nhận - người này phải là người tháo vát, kinh tế khá giả, được mọi người trong làng bản kính trọng. Đặc biệt, phải là người thông hiểu về phong tục * Tel: 0979 919609, Email: thuylinh030986@gmail.com tập quán của dân tộc và có tài ứng đối. Ông mối không chỉ chịu trách nhiệm tiến hành các nghi lễ trong cưới xin còn chịu trách nhiệm với đôi vợ chồng trẻ và con cháu của họ trong suốt cuộc đời, coi như con cái trong gia đình. Đôi vợ chồng trẻ vì thế cũng phải sống có lễ, chết để tang đối với ông bà mối như cha mẹ mình“sống Tết, chết giỗ”. Việc xin lá số của người Sán Dìu có nét độc đáo ở chỗ: Nếu nhà gái có hai người con gái đến tuổi lấy chồng thì ông mối sẽ xin lá số của cả hai người về so ai hợp với tuổi của chú rể thì hỏi người đó. Nếu cả hai cùng hợp tuổi, nhà trai sẽ tìm hiểu tính nết, cách ăn ở của cô gái để chọn một người. Điều này thể hiện rất rõ vai trò của bố mẹ trong việc quyết định hôn nhân của con cái. Sau khi có lá số, nhà trai nhờ thầy cúng thông thạo tử vi để so tuổi, xem số mệnh của đôi trai gái có hợp nhau không, phép xem tuổi căn cứ vào ngày tháng năm sinh của đôi nam nữ. Trong đó ngày tháng năm sinh đều được quy về mệnh thuộc ngũ hành để xem xét sự tương sinh, tương khắc của hai lá số. Nếu so tuổi thấy hợp, ông mối sẽ báo cho nhà gái biết việc xem lá số đã thành công bằng một lễ nhỏ gồm nải chuối, 10 lá trầu, 10 quả cau. Sau mười ngày nếu nhà gái không đồng ý sẽ đem lễ vật đến trả nhà trai, nếu đồng ý sẽ tiến hành lễ ăn hỏi. Dương Thùy Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 175 - 179 176 Lễ ăn hỏi (hỵ mun nghén cạ): Nhà trai chuẩn bị thực hiện nghi lễ ăn hỏi với các lễ vật gồm trầu: 10 – 20 lá, cau: 10 – 20 quả, rượu, kẹo bánh để mang sang nhà gái. Trong lễ ăn hỏi, hai họ cùng nhau bàn đến những thứ sính lễ mà nhà trai phải nộp trong ngày cưới. Người Sán Dìu coi trọng hôn nhân "môn đăng hộ đối" và lễ vật thách cưới thể hiện giá trị của cô gái. Theo quan niệm của đồng bào, con gái lấy chồng là “mai nhúy”, tức là bán con gái. Gia đình có con gái đi lấy chồng cũng có nghĩa là gia đình ấy mất đi một lao động. Để bù đắp lại sự mất mát ấy, nhà trai phải trả cho nhà gái một số của cải tương ứng, do đó đồ thách cưới thường cao. Đồ thách cưới được nhà gái viết ra giấy đỏ cho ông mối mang về. Thông thường, đồ thách cưới buộc phải có trầu cau, lợn 80 -100 cân, rượu 80 – 100 lít, gà 4 – 8 đôi, một đôi vòng tay bạc, một đôi hoa tai bạc hoặc vàng, đồ tư trang, y phục cô dâu. Lễ sang bạc (Hỵ cô nghén): Sau khi hai bên gia đình nhất trí về số lễ vật thách cưới, nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, chuẩn bị trầu cau, rượu, bánh kẹo và có lời mời ông mối đi sang bàn bạc với nhà gái. Ông mối sắp đồ lễ gồm tiền thách cưới, vòng tay, hoa tai, trầu cau, rượu, bánh vào mâm đặt lên bàn thờ tổ tiên nhà gái. Gia chủ thắp hương báo cho tổ tiên biết về việc nhà trai sắm lễ sang bạc. Cũng có trường hợp, trong ngày này nhà trai mới chỉ đưa 2/3 lễ vật, còn lại 1/3 khất đến lễ báo ngày cưới sẽ trao nốt cho nhà gái. Lễ gánh gà (tam cay bạo nhít): Nhà trai chọn quan lang trưởng - là người có tài hát soọng cô, giỏi đối đáp, vợ chồng song toàn, con cháu đầy đủ. Quan lang trưởng được mời đến từ ngày hôm trước để đan lồng gà với mong ước chú rể sau này được vía như quan lang trưởng. Tre đan lồng gà được chọn là cây tre cao, có ngọn dài, không được dùng tre cụt ngọn vì như thế sẽ ảnh hưởng đến hậu thế, không sinh được con... Đến nơi nhà gái cử người nhận lễ, đón cất gà để làm lễ cúng tổ tiên. Đồng bào quan niệm rằng “cắt cổ gà là thành vợ thành chồng”. Nghĩa là từ nghi lễ này, đôi nam nữ được bố mẹ hai gia đình coi là vợ chồng, coi như con cái trong nhà. Lễ nộp cheo (nạp cheo): Trước ngày cưới một tháng, nhà trai phải chuẩn bị gánh lễ vật nộp cho Khán trại (người đứng đầu một thôn xóm) để cúng ở đình làng. Lễ vật gồm có 20 quả cau, 20 lá trầu, 2 đôi gà thiến, 4 đồng bạc trắng được dâng cúng Thành hoàng làng. Nghi lễ này là hình thức công nhận các cuộc hôn nhân (trước khi có những quy định về pháp luật). Lễ cưới (sếnh ca chíu): Đồng bào xem ngày cưới dựa vào tháng sinh của người con gái. Ví dụ như cô dâu sinh vào tháng Giêng không tổ chức cưới vào tháng tư, tháng năm; cô dâu sinh tháng ba, tháng năm thì không tổ chức cưới vào tháng tám, tháng chín. Về ngày cưới thì tránh những ngày kỵ ra, như tháng Giêng kỵ cưới ngày Bính Tý, Kỷ Mão, Tân Mão, Đinh Tỵ Xem ngày cưới phải tránh những ngày “không phòng” (sợ không có con), tránh những ngày mà bố mẹ nhà trai hay bố mẹ nhà gái không được ở nhà tổ chức cưới cho con do tuổi không hợp... Lễ cưới ở nhà gái: Khi hai nhà bắt đầu dựng rạp cũng là lúc đoàn nhà trai mang đồ thách cưới sang nhà gái. Tất cả đồ lễ đều được dán giấy đỏ vì đồng bào quan niệm: màu đỏ là màu của hạnh phúc, sự đủ đầy. Ông mối và đoàn đưa lễ ngủ lại nhà gái đêm thứ nhất. Ngày thứ hai ở nhà gái là ngày chính đám. Một điều đặc biệt thú vị ở người Sán Dìu là cô dâu thức dậy khóc than từ sáng sớm tinh mơ. Lời khóc của cô dâu kể về công lao nuôi dưỡng của cha mẹ, phận làm gái không được ở nhà chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, thờ cúng tổ tiên. Nếu không khóc, sẽ bị mọi người chê bai, cho là cô thích đi lấy chồng. Đoàn nhà trai dẫn lễ và đến đón dâu sẽ phải vượt qua những chặng chăng dây của nhà gái. Đại diện nhà gái hát, nhà trai phải hát đối lại, nếu được thì nhà gái để cho nhà trai vào nhà, nếu không hát đối được, phải nộp một ít tiền nhỏ và ít trầu cau mới được vào nhà. Vào nhà, quan lang trưởng làm lễ trình báo với tổ tiên nhà gái. Sau bữa cơm tối là lễ “Khai hoa tửu”, đây là nghi lễ không thể thiếu trong đám cưới và là đặc trưng văn hóa của Dương Thùy Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 175 - 179 177 người Sán Dìu. Lễ vật do nhà trai chuẩn bị trước gồm có hai quả trứng luộc, hai sợi chỉ xanh, đỏ xuyên qua quả trứng và mỗi bên buộc hai đồng tiền xu, đặt trên chiếc đĩa có giấy trắng, giấy đỏ cắt hình hoa. Đặt bên cạnh là bình rượu đã mở nút sẵn. Lọ rượu này có ý nghĩa rằng đôi vợ chồng này có cưới, có hỏi, có cheo làng, có ông mối xe duyên, số tiền trong lọ là để trả công ơn cha mẹ sinh thành giáo dưỡng, họ hàng bảo ban. Vị đại diện nhà gái bắt đầu bài diễn ca mừng tổ tiên. Nội dung bài diễn ca kính báo tổ tiên về lễ cưới, ca ngợi công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, căn dặn đôi vợ chồng trẻ về nết ăn, nết ở... Sau cùng hai quả trứng luộc được bóc vỏ, lấy lòng đỏ hoà rượu mời mọi người dự cưới uống. Theo quan niệm của đồng bào nơi đây, trong quả trứng có lòng trắng, lòng đỏ, lòng trắng là bạc, lòng đỏ là vàng. Lòng đỏ còn là sự hòa thuận, sinh sôi, nảy nở, phát triển. Lòng trắng là âm, tượng trưng cho nữ, lòng đỏ là dương, tượng trưng cho nam. Hai hợp làm một, quả trứng tròn trịa, âm dương kết hợp, nam nữ kết hôn. Vì vậy, quả trứng được dâng lên tổ tiên là nhằm cầu chúc cho đôi vợ chồng trẻ sinh sống đến đầu bạc răng long, làm ra nhiều của cải, con cái đề huề. Tiếp theo, đại diện người già họ nhà gái lên hát đố về chữ. Sau lễ “Khai hoa tửu”, mọi người hân hoan hát chúc mừng cô dâu chú rể hạnh phúc. Trai gái vui hát Soọng cô suốt đêm, đoàn nhà trai ở lại để hôm sau đưa cô dâu về nhà chồng. Lễ cưới ở nhà trai: Đoàn nhà trai đem lễ đi theo con đường nào, thì lúc đón dâu về, vẫn phải đi đúng con đường ấy để tránh cho đôi vợ chồng trẻ sau này làm ăn khỏi nhầm đường, lạc lối; tránh đi đường tắt, đường gập gềnh, khó đi để mong cho đôi vợ chồng làm ăn được thuận lợi, không gặp khó khăn. Đoàn quan lang nhà trai đi đón dâu đi số lẻ về số chẵn. Khác với một số dân tộc khác, coi số lẻ là số sinh, số có thể thêm vào, với mong muốn sự sinh sôi, nảy nở thì ở đồng bào Sán Dìu thường dùng số chẵn trong ngày cưới. Đồng bào quan niệm số chẵn là số tốt đẹp, là con số sinh, thể hiện mong muốn sự sinh sôi, nảy nở về đường con cái và vật chất. Điều này thể hiện rõ qua các lễ vật dẫn cưới, đều có đôi, có cặp, kiêng lẻ. Cô dâu bước ra khỏi nhà, ông trưởng đoàn nhà trai sẽ cầm ô che cho cô dâu khi đi qua giọt gianh. Theo quan niệm của đồng bào che như vậy để nước ở trên mái gianh không rớt xuống đầu cô dâu, nếu chẳng may để nước rơi vào người cô dâu thì sau này sẽ làm ăn khó khăn. Nhưng điều quan trọng hơn là khi cô dâu ra khỏi giọt gianh chiếc ô được cụp lại, có nghĩa là linh hồn của cô dâu đã được gói gọn trong chiếc ô. Chiếc ô được trao lại cho tánh cả giữ, đến khi cô dâu vào nhà chồng thì trao ô cho chủ nhà cất đi. Khác với các dân tộc khác, con gái người Sán Dìu đi lấy chồng, thường được bố mẹ cho của hồi môn là con trâu làm vốn làm ăn. Con trâu sẽ được dán giấy đỏ hai bên sừng và được người nhà cô dâu dắt về nhà chồng trong lễ tiễn dâu. Trên đường đi đưa dâu, nếu đi qua sông suối, đoàn đưa dâu phải thả tiền hoặc trầu cau xuống để thần sông thần núi phù hộ cho cô dâu chú rể và cho cuộc sống lứa đôi sau này được hạnh phúc. Người Sán Dìu rất kị hai đám cưới gặp nhau trên đường đi. Đồng bào cho rằng, hai đám cưới mà gặp nhau trên đường đi thì sẽ có một người được hạnh phúc, một người sẽ gặp rủi ro. Vậy nên nếu gặp nhau hai cô dâu sẽ trao đổi khăn tay hoặc khăn mặt cho nhau với mong muốn niềm vui, niềm hạnh phúc sẽ đến với cả hai người. Đoàn đón dâu về đến nhà trai, trưởng họ nhà trai thắp hương báo với tổ tiên rằng hôm nay là ngày lành tháng tốt, đưa dâu về nhà, mong tổ tiên kết phúc cho cả gia đình, cho cô dâu được nhập vào dòng họ, coi như con cháu trong nhà. Khi cô dâu làm lễ nhận tổ tiên, đại diện hai gia đình cất lên những làn điệu soọng cô chúc mừng, chúc phúc. Cuộc vui soọng cô kéo dài suốt đêm, thậm chí còn đến sáng ngày hôm sau. Sáng hôm sau, cô dâu được sự chỉ dẫn bảo ban của các bà bá hoặc cô dì lần lượt đi nhận mặt họ hàng. Em gái của chú rể phải chuẩn bị cho cô dâu một thau nước và khăn mặt để cô dâu bưng đến chào mọi người họ hàng bề trên của nhà trai. Mỗi chậu có một khăn mặt mới, Dương Thùy Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 175 - 179 178 ai rửa mặt xong thì giữ lấy chiếc khăn và tặng cho cô dâu ít tiền làm vốn. Lễ lại mặt (choọp thạp kioóc chiéc): Thường được tiến hành vào ngày thứ năm trong lễ cưới. Đây là dịp để nhắc nhở đạo hiếu của con cái. Đồng thời cũng là dịp thắt chặt mối quan hệ thông gia. Đoàn đi lễ lại mặt phải về trước khi trời tối bởi theo quan niệm của đồng bào nếu về nhà sau khi mặt trời lặn sẽ gặp khó khăn trong làm ăn. Lọ rượu tình (chíu sếnh ang) được nhà trai mang sang thực hiện lễ khai hoa tửu thì ngày lại mặt người mẹ trao cho con gái mang về nhà chồng. Trong lọ có các hạt giống như lúa ,ngô, lạc, đỗvới ý muốn cô dâu chăm lo việc làm nông nghiệp, thể hiện sự cấp phát giống cho con gái về nhà chồng. Sau lễ lại mặt, cô dâu và chú rể mới được động phòng. Qua nghiên cứu đám cưới truyền thống của người Sán Dìu cho thấy rất rõ sự ảnh hưởng của văn hóa Hán đến các quan niệm, các phong tục, tập quán của đồng bào như quan niệm ngũ hành, tương sinh tương khắc, màu đỏ là màu hạnh phúc Trên đây là những nghi lễ được thực hiện trong phong tục cưới hỏi truyền thống của đồng bào Sán Dìu ở Phú Bình, Thái Nguyên. Hiện nay, việc thực hiện phong trào toàn dân xây dựng nếp sống văn hóa mới của Đảng và Nhà nước đã làm cho phong tục cưới xin của người Sán Dìu ở Phú Bình, Thái Nguyên có những thay đổi đáng kể. Nhìn chung, đám cưới của người Sán Dìu hiện nay đã có những thay đổi khá tích cực, đáng ghi nhận như giảm bớt nghi lễ rườm rà, thách cưới cao... Nhưng bên cạnh đó, một vấn đề đặt ra chính là sự xói mòn, mất dần các giá trị văn hóa truyền thống. Một sự biến đổi đậm nét trong cưới xin của đồng bào Sán Dìu huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên là sự thay đổi về trang phục ngày cưới. Đồng bào không còn diện bộ trang phục truyền thống của dân tộc mà thay vào đó là váy cưới, comple tân thời. Không ai còn thích mặc bộ trang phục truyền thống. Họ cho rằng như thế không đẹp, không hợp thời, lạc hậu. Đó là do họ chưa hiểu hết được giá trị văn hóa dân tộc mình trong bộ trang phục truyền thống. Sự mai một này dần dần sẽ kéo theo những thay đổi khác trong ý thức tộc người và là căn nguyên dẫn đến những biến đổi văn hóa truyền thống. Nghi lễ ăn hỏi, dẫn cưới không còn là những buổi gánh gà, gánh lợn, trầu cau, chè thuốc, bánh kẹo cùng bạc trắng sang nhà gái để chuẩn bị cho ngày ăn hỏi, ngày báo cưới nữa mà được gói gọn lại bằng một khoản tiền mặt tùy theo thỏa thuận giữa hai gia đình. Thậm chí đồ lễ dẫn đám ăn hỏi hiện nay đều là những đồ lễ sắp sẵn được đặt tại những cửa hàng cho thuê dịch vụ cưới hỏi. Đây có thể là sự tiện lợi trong nếp sống mới, không phải rườm rà, cầu kì trong chuẩn bị đồ lễ, chọn người gánh lễ nhưng thực sự làm mất đi giá trị truyền thống trong những nghi lễ quan trọng, mang đậm dấu ấn tộc người như lễ sang bạc, lễ gánh gà... Giao thoa văn hóa giữa các dân tộc xảy ra mạnh mẽ đặc biệt là văn hóa của người Kinh, hôn nhân của người Sán Dìu hầu như chỉ còn có 3 nghi lễ chính: lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi và lễ cưới. Một số nghi lễ mang đậm giá trị văn hóa truyền thống và là đặc trưng của tộc người dần bị xóa bỏ như không còn nghi lễ khai hoa tửu, bố mẹ cho con trâu làm của hồi môn, đôi vòng bạc làm vốn làm ăn khi về nhà chồng, lễ bưng chậu nước rửa mặt, rửa chân cho quan lang trưởng, ông mối, những làn điệu soọng cô mang đậm dấu ấn tộc người cũng không còn nữa... Thực tế điền dã cho thấy từ khoảng những năm 1990, việc cưới hỏi của người Sán Dìu ở đây cơ bản không còn được thực hiện theo những nghi lễ đó nữa. Văn hóa “phong bì” hiện nay trong đám cưới của người Sán Dìu ở Phú Bình cũng rất được coi trọng. Việc cưới hỏi không đơn thuần là niềm vui lớn của gia đình, dòng họ, làng xóm. Các thành viên của tộc người đi dự đám cưới không phải là đến uống chén rượu mừng, góp vui bằng những câu hát, lời đối đáp hóm hỉnh vừa để thử tài, vừa để chúc phúc cho đôi vợ chồng mới, cho hai họ mà việc đi ăn cưới hiện nay còn là việc ngoại giao, quan hệ, đi ăn cưới “trả nợ”, đến ăn cỗ rồi về, còn đâu những buổi tối giao lưu soọng cô với những lời ca điệu hát sâu lắng tình người, đậm tình Dương Thùy Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 175 - 179 179 yêu quê hương đất nước. Vẫn biết đây là sự ảnh hưởng của lối sống hiện đại nhưng có giản tiện mà mất đi sự gắn kết giữa các thành viên trong những sinh hoạt văn hóa chung của tộc người thì lại là điều phải bàn đến. Bởi con người không chỉ là chủ thể mà còn là khách thể của các giá trị văn hóa. Những nét đẹp văn hóa ấy chỉ có thể tồn tại và phát huy một cách tốt nhất trong chính môi trường đã sản sinh ra nó. Việc mất đi những nghi lễ cưới xin truyền thống ấy có ảnh hưởng không nhỏ đến giáo dục văn hóa dân tộc cho giới trẻ người Sán Dìu – thế hệ trao truyền và phát huy những giá trị văn hóa của tộc người. Thiết nghĩ rằng, lịch sử có thay đổi, điều kiện kinh tế – xã hội khác trước, văn hóa biến đổi là tất yếu nhưng những phong tục tập quán truyền thống tạo nên sự khu biệt, đặc trưng cho văn hóa tộc người thì cần được giữ gìn và phát huy. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), Nxb Khoa học xã hội, 1978. [2]. Diệp Thanh Bình, Dân ca Sán Dìu, Nxb Văn hóa dân tộc, 1987. [3]. Diệp Trung Bình, Phong tục và chu kỳ đời người của người Sán Dìu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2005. [4]. Đỗ Thúy Bình, Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994. [5]. Ma Khánh Bằng, Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983. [6]. Nguyễn Ngọc Thanh, Văn hóa truyền thống dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang, Nxb Khoa học xã hội, 2011. [7]. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, 2008. SUMMARY TRADITIONAL WEDDING CUSTOMS OF SAN DIU ETHNIC MINORITY IN PHU BINH DISTRICT, THAI NGUYEN PROVINCE AND PROBLEMS RAISED TODAY Duong Thuy Linh* College of Sciences – TNU Wedding is an important event in one’s life. Traditional wedding customs of San Diu people in Phu Binh district, Thai Nguyen province contain beautiful humane and cultural values. These traditional values vary by time and place. Through the variations, they are selected to be the most suitable to life and self-affirm their immortal existence and development. However, there are changes following new tendencies which are unsuitable and cause traditional values to be eroded and fainted. The risk of losing the traditional cultural values in wedding customs is being raised seriously to the San Diu people in Phu Binh district - Thai Nguyen province. Key words: San Diu, wedding, customs, rituals, national cultures. * Tel: 0979 919609, Email: thuylinh030986@gmail.com
File đính kèm:
- phong_tuc_cuoi_hoi_cua_nguoi_san_diu_o_huyen_phu_binh_tinh_t.pdf