Quá trình chuyển đổi các mô hình quản lý và quản trị trường đại học trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Bài viết phân tích những đặc trưng cơ bản của quá trình chuyển đổi các mô hình quản lý; các đặc trưng của nhà trường và quản trị nhà trường như là quản trị một tổ chức giáo

dục theo lý thuyết tổ chức trong bối cảnh cuộc cách mạng công

nghiệp 4.0. Đồng thời, giới thiệu và phân tích các xu hướng và

mô hình quản trị nhà trường đại học trên thế giới. Đây là vấn đề

đã được quan tâm, nghiên cứu hiện nay nhằm tạo cơ sở khoa học

quản lý để đổi mới nền giáo dục đại học Việt Nam.

pdf 7 trang yennguyen 5740
Bạn đang xem tài liệu "Quá trình chuyển đổi các mô hình quản lý và quản trị trường đại học trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quá trình chuyển đổi các mô hình quản lý và quản trị trường đại học trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Quá trình chuyển đổi các mô hình quản lý và quản trị trường đại học trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
45Volume 9, Issue 2
QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI CÁC MÔ HÌNH QUẢN LÝ VÀ 
QUẢN TRỊ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRONG BỐI CẢNH CUỘC 
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Trần Khánh Đức
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Email: kduc1954@yahoo.com
Ngày nhận bài: 20/5/2020
Ngày phản biện: 25/5/2020
Ngày tác giả sửa: 03/6/2020
Ngày duyệt đăng: 10/6/2020
Ngày phát hành: 21/6/2020
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/417
Bài viết phân tích những đặc trưng cơ bản của quá trình chuyển đổi các mô hình quản lý; các đặc trưng của nhà 
trường và quản trị nhà trường như là quản trị một tổ chức giáo 
dục theo lý thuyết tổ chức trong bối cảnh cuộc cách mạng công 
nghiệp 4.0. Đồng thời, giới thiệu và phân tích các xu hướng và 
mô hình quản trị nhà trường đại học trên thế giới. Đây là vấn đề 
đã được quan tâm, nghiên cứu hiện nay nhằm tạo cơ sở khoa học 
quản lý để đổi mới nền giáo dục đại học Việt Nam.
Từ khóa: Lý thuyết tổ chức; Nhà trường; Quản trị và quản trị 
nhà trường; Mô hình và mô hình quản trị trường đại học.
1. Mở đầu
Giáo dục là một loại hình hoạt động cơ bản của 
đời sống xã hội ở mỗi quốc gia nói riêng và trên 
thế giới nói chung. Các loại hình giáo dục từ buổi 
còn sơ khai với những người hay nhóm người làm 
giáo dục theo nhóm, lớp nhỏ lẻ, phân tán và những 
cơ sở chuyên làm công tác giáo dục, cho đến khi 
hình thành một hệ thống nhà trường đa dạng ở các 
quốc gia, trong đó có hệ thống các trường đại học 
đều luôn luôn có mối quan hệ tác động qua lại với 
các điều kiện, bối cảnh trình độ phát triển về chính 
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học-công nghệ... 
của các quốc gia nói riêng và trên toàn thế giới nói 
chung. Quá trình phát triển nhà trường nói chung và 
nhà trường đại học nói riêng luôn gắn liền với quá 
trình phát triển của một tổ chức (trong lĩnh vực giáo 
dục và đào tạo) và quản trị nhà trường theo các mô 
hình quản trị tổ chức giáo dục phù hợp với từng giai 
đoạn phát triển lịch sử cụ thể ở các quốc gia đặc biệt 
là trong giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0.
2. Tổng quan nghiên cứu 
Đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều 
tác giả về quản lý giáo dục nói chung và quản lý 
giáo dục đại học, quản trị trường đại học nói riêng, 
tiêu biểu là công trình của các tác giả: Nguyễn Thị 
Doan, Đỗ Minh Cương; Phạm Minh Hạc; Trần 
Hồng Quân; Đặng Quốc Bảo; Nguyễn Lộc; Trần 
Kiểm; Phạm Phụ; Phạm Đỗ Nhật Tiến; Lâm Quang 
Thiệp; Nguyễn Đức Chính; Nguyễn Thị Mỹ Lộc; 
Đặng Xuân Hải; Phạm Thị Ly Các nội dung 
nghiên cứu của các tác giả phần lớn tập trung giới 
thiệu các học thuyết, mô hình quản lý giáo dục; các 
mô hình, quan điểm, định hướng và các giải pháp 
đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý giáo dục và 
quản trị nhà trường trong bối cảnh chuyển đổi sang 
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa và hội nhập quốc tế; hoàn thiện tổ chức bộ 
máy và các chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước 
về giáo dục ở các cấp, đồng thời tăng cường phân 
cấp trong quản trị nhà trường, nâng cao tính tự chủ, 
tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục. 
Trong những năm qua cũng đã có rất nhiều 
công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo của các 
tác giả ngoài nước về quản lý giáo dục và quản 
trị nhà trường như: Tác phẩm của Harold Koonitz 
(2004) về “Những vấn đề cốt yếu của quản lý”; 
của Subir Chowdhury (2006) về “Quản lý trong 
thế kỷ 21”; của Fred .C Lunenburg and Allan C. 
Ornstein “Educational Administration - Concepts 
and Practices”...
Đặc biệt là thời gian gần đây có tác phẩm của 
Klaus Schwab (2018), giám đốc diễn đàn Kinh tế 
thế giới về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã 
nêu rõ các xu hướng, đặc điểm và tác động của cuộc 
các mạng công nghiệp 4.0 đến tất cả các mặt của 
đời sống kinh tế-xã hội (KT-XH) của các quốc gia 
trên thế giới. 
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu 
sâu về quá trình chuyển đổi của các mô hình quản 
lý trong các giai đoạn phát triển của đời sống xã hội 
và nhận diện các đặc trưng quản trị nhà trường nói 
chung và trường đại học nói riêng như là quản trị 
một tổ chức giáo dục theo lý thuyết tổ chức trong 
bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
3. Phương pháp nghiên cứu 
Bài viết được thực hiện chủ yếu bằng phương 
pháp hồi cứu tài liệu khoa học, phân tích- tổng hợp 
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 
46 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
và luận giải, đối sánh các mô hình quản lý trong quá 
trình chuyển đổi. Nhận dạng và phân tích các đặc 
trưng quản trị trường đại học theo lý thuyết tổ chức 
trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Quản lý và sự chuyển đổi của các mô hình 
quản lý 
Nghiên cứu về quản lý có rất nhiều quan niệm 
khác nhau, phản ánh những mặt, chức năng cơ bản 
của quá trình quản lý, nhưng về cơ bản các khái 
niệm đều khẳng định đến chủ thể, đối tượng quản lý 
và mục đích của quá trình quản lý. 
Quản lý là một hoạt động có chủ đích, có định 
hướng được tiến hành bởi một chủ thể quản lý nhằm 
tác động lên khách thể quản lý để thực hiện các mục 
tiêu xác định của công tác quản lý. Trong mỗi chu 
trình quản lý, chủ thể tiến hành những hoạt động 
theo các chức năng quản lý như xác định mục tiêu, 
các chủ trương, chính sách; hoạch định kế hoạch, 
tổ chức chỉ đạo thực hiện, phối hợp, kiểm tra, đánh 
giá và huy động, sử dụng các nguồn lực cơ bản như 
tài lực, vật lực, nhân lực để thực hiện các mục tiêu, 
mục đích mong muốn trong bối cảnh và thời gian 
nhất định 
Bảng 1. Đối chiếu quá trình chuyển đổi các 
mô hình quản lý 
Giai đoạn
Khía cạnh
Thế kỷ 19 Thế kỷ 20 Thế kỷ 21
Lý thuyết về 
vai trò con 
người
Con người 
“cơ bắp và 
năng lượng 
có thể trao 
đổi được”
Con người là cấp 
dưới phụ thuộc và 
hệ thống phân cấp
Con người 
là cá nhân tự 
chủ và
linh hoạt
Thông tin và 
kiến thức
Là lãnh địa 
riêng của 
quản lý
Bị nhà quản lý 
khống chế và hạn 
chế chia sẻ
Được phổ 
biến, chia sẻ 
rộng rãi
Mục đích 
của công 
việc
Để tồn tại
Để tích luỹ tài sản 
và địa vị xã hội
Là một phần 
của kế hoạch 
cuộc sống
Xác định 
danh tính cá 
nhân
Với hãng 
hoặc với 
giai cấp lao 
động
Theo nhóm xã hội 
hoặc với công ty
Danh tính cá 
nhân bị xoá 
bỏ
(cá nhân mang 
tính xã hội 
hơn )
Xung đột
Bị phá vỡ 
và né tránh
Được thoả hiệp và 
giải quyết thông 
qua thoả thuận của 
tập thể
Là một phần 
bình thường 
của cuộc sống
Phân công 
lao động
Nhà quản lý 
quyết định 
người làm 
công thực 
hiện
Nhà quản lý quyết 
định người làm 
công suy nghĩ và 
thực hiện
Nhà quản lý 
và người làm 
công cùng 
quyết định và 
thực hiện
Quyền lực
Tập trung ở 
cấp trên
Bị giới hạn, có sự 
chia sẻ chức năng/
trao quyền cho cấp 
dưới
Phân tán và 
được chia sẻ
Nguồn: Subir Chowdhury (2006), Quản lý trong 
thế kỷ 21 (tr. 308)
Hình 1. Sự phát triển của các mô hình quản lý
4.2. Hệ thống nhà trường và các đặc trưng nhà 
trường
Hệ thống giáo dục nói chung và nhà trường nói 
riêng ở các nước được hình thành và phát triển trước 
hết xuất phát từ trình độ và nhu cầu phát triển KT-
XH của các quốc gia. Thông qua quá trình tổ chức 
giáo dục có hệ thống những thế hệ kế tiếp bằng nhiều 
hình thức, nhiều loại hình trường, hệ thống giáo dục 
góp phần mở mang dân trí, đào tạo nhân lực và bồi 
dưỡng nhân tài đáp ứng nhu cầu KT-XH của các 
quốc gia. Một mặt, trình độ và nhu cầu phát triển 
KT-XH tạo điều kiện, nguồn lực cho việc hình thành 
và phát triển hệ thống giáo dục, mặt khác trình độ 
phát triển KT-XH là nhân tố thúc đẩy sự hình thành 
và phát triển của các loại hình trường, lớp trong hệ 
thống giáo dục (xem hình 2)
Hình 2. Các nhân tố tác động đến hệ thống nhà trường
Tiếp nối sự ra đời của các cơ sở nhà trường giáo 
dục phổ thông, sự ra đời và phát triển mạnh của các 
trường đại học ở châu Âu từ các thế kỷ 14-15, vừa là 
con đẻ của cuộc cách mạng khoa học thế kỷ 15, vừa 
là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hình thành và phát 
triển các cuộc cách mạng kỹ thuật thế kỷ 17-18 và 
cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại ngày nay. 
Hệ thống giáo dục đại học và kỹ thuật- nghề nghiệp 
ra đời do nhu cầu tăng nhanh qui mô đào tạo nhân 
lực kỹ thuật ở các nước tiến hành cuộc cách mạng 
kỹ thuật và bước vào thời kỳ công nghiệp hoá từ thế 
kỷ 18-19 như Anh, Đức, Pháp và trở thành nhân tố 
quan trọng của quá trình phát triển theo hướng công 
nghiệp hoá của các nước trước kia cũng như hiện 
nay như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Trong 
giai đoạn hiện nay, phần lớn các nước có hệ thống 
giáo dục được xem là tốt nhất trên thế giới đều là 
những nước có trình độ phát triển KT-XH và chỉ số 
phát triển con người HDI ở mức cao như các nước 
Mỹ, Anh, Na uy, Canada, Australia, Hàn Quốc. Đây 
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
47Volume 9, Issue 2
là những nước có trình độ phổ cập giáo dục cao và 
có hệ thống giáo dục hiện đại. Sự phát triển mạnh 
mẽ của nền kinh tế theo cơ chế thị trường dẫn đến 
xu hướng thị trường chi phối mạnh sự phát triển 
hệ thống giáo dục như ở Mỹ và một số nước khác. 
Định chế Nhà nước liên bang với sự phân quyền 
mạnh cho các bang của Cộng hòa Liên bang Đức 
đưa đến mô hình hệ thống nhà trường đa dạng và có 
nhiều khác biệt ở từng bang.
 Hệ thống nhà trường và các hoạt động giáo dục 
ở các nước đều dựa trên nền tảng văn hoá của mỗi 
quốc gia. Do đó, hệ thống giáo dục các nước chịu 
sự chi phối và cũng đồng thời phản ánh những đặc 
trưng, tính chất truyền thống và hiện đại của nền 
văn hoá các quốc gia-dân tộc, đặc biệt là trong việc 
hình thành hệ thống các loại hình trường, trong nội 
dung giáo dục và quản trị nhà trường.
Trong quá trình phát triển của các nước, hệ 
thống giáo dục chịu sự tác động qua lại của quá 
trình giao lưu hợp tác khoa học, văn hoá, giáo dục, 
kinh tế, phát triển nhân lực giữa các quốc gia trong 
từng khu vực và trong phạm vi toàn thế giới, đặc 
biệt là quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra sôi động 
hiện nay. Nhiều mô hình hệ thống giáo dục đại học 
như mô hình Anh, Mỹ, Đức, mô hình Liên xô (cũ)... 
cũng như nhiều loại hình, nhiều chuẩn mực trong 
giáo dục về trình độ, về văn bằng chứng chỉ quốc tế 
đã chi phối và có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống 
giáo dục của các nước nói riêng và trong từng nhóm 
nước nói chung như nhóm các nước ASEAN, NICs, 
Liên minh Châu Âu (EU), khu vực APEC.
Nhà trường là một tổ chức, một thiết chế đặc biệt 
của Nhà nước - xã hội nhằm thực hiện các nhiệm 
vụ, chức năng giáo dục và đào tạo cho cộng đồng 
dân cư của xã hội đó. Nhà trường được hình thành 
nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng cơ bản 
nói trên và qua đó đạt được các mục tiêu và yêu cầu 
của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Mô 
hình nhà trường là sự phản ánh khái quát các chức 
năng cơ bản của nhà trường và các yếu tố cấu thành 
tổ chức và các hoạt động cơ bản nhà trường (mô 
hình cấu trúc - chức năng)
Trong thực tế có nhiều loại hình nhà trường khác 
nhau có các đặc thù riêng, nhưng nhìn chung có các 
đặc trưng cơ bản sau: 
Sứ mệnh: Phản ảnh vai trò, vị trí và lý do ra đời, 
tồn tại của một nhà trường trong đời sống xã hội 
nói chung và trong từ lĩnh vực hoạt động nói riêng 
như chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục). Tuỳ theo 
tính chất, loại hình nhà trường (phổ thông, chuyên 
nghiệp, đại học) mà sứ mệnh của nhà trường có thể 
do được áp đặt từ bên ngoài hoặc ở cấp trên (trong 
cơ chế quản lý tập trung, hành chính quan liêu) hoặc 
do chính tổ chức xác định và thực hiện theo nhu cầu 
xã hội (cơ chế thị trường).
Mục tiêu phát triển: Sự hình thành và phát triển 
của nhà trường luôn luôn hướng đến các mục tiêu 
phát triển (ngắn hạn-trung hạn và dài hạn). Mục tiêu 
phát triển chi phối mọi hoạt động của nhà trường để 
thực hiện sứ mệnh của mình. Mục tiêu phát triển 
không chỉ là định hướng cho hoạt động của nhà 
trường, mà đồng thời còn tạo động lực hoạt động 
cho mọi thành viên của nhà trường (cán bộ quản lý, 
giáo viên/giảng viên, học sinh/sinh viên).
Cơ cấu tổ chức: Bất kỳ một loại hình nhà trường 
nào đều có một cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận 
có các chức năng, nhiệm vụ, quy mô, cơ cấu riêng 
biệt và giữa chúng có các mối quan hệ chi phối, 
ràng buộc lẫn nhau thông qua các định chế, luật lệ 
của nhà trường. Cơ cấu tổ chức tạo nên diện mạo và 
sức mạnh của nhà trường (hơn hẳn các thành phần 
riêng rẽ) do các mối quan hệ chi phối, hỗ trợ lẫn 
nhau trong quá trình tác nghiệp thực hiện các chức 
năng, nhiệm vụ của nhà trường. Số lượng và cơ cấu 
nhân sự của tổ chức luôn gắn liền với cơ cấu tổ chức
Văn hoá tổ chức: Nhà trường là một cộng đồng 
xã hội thu nhỏ mang trong nó các thuộc tính riêng 
về văn hoá - văn hoá tổ chức. Triết lý hoạt động của 
nhà lãnh đạo, quản lý tổ chức và tập hợp đội ngũ 
cán bộ quản lý, giáo viên (định hướng giá trị, niềm 
tin, ý thức, thái độ phong cánh sống và làm việc) 
hình thành nên văn hoá nhà trường.
Có thể nói, hệ thống nhà trường các nước trên 
thế giới vừa là sản phẩm của quá trình phát triển 
chính trị, KT-XH, văn hoá của mỗi nước trong mối 
quan hệ, giao lưu hợp tác quốc tế, vừa là nhân tố 
quan trọng góp phần thúc đẩy và phát triển đời sống 
xã hội và trình độ phát triển KT-XH của các quốc 
gia. 
4.3. Quản trị và quản trị nhà trường 
Khái niệm quản trị có nhiều nghĩa và cấp độ. Đối 
với các tổ chức quyền lực quốc gia như Nhà nước, 
quản trị có nghĩa rộng gắn với các chức năng, quyền 
lực, thẩm quyền của các cấp quản lý Nhà nước (lập 
pháp; hành pháp; tư pháp). Còn trong quản lý có 
các hoạt động tác nghiệp cụ thể của một tổ chức nói 
chung (kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục...) thì được 
gọi là quản trị. Khái niệm quản trị của một tổ chức 
được hiểu là: “Những hoạt động phát sinh từ sự tập 
hợp của nhiều người một cách có ý thức để nhằm 
hoàn thành những mục tiêu chung”. Sự tập hợp con 
người thành tổ chức là môi trường và đối tượng của 
công việc quản trị. Như vậy, bất kỳ một tổ chức nào: 
Văn hoá, xã hội, giáo dục, quân sự, hành chính... 
đều cần có sự quản lý nói chung và quản trị cụ thể 
trong đó có nhiều chức năng, nhiệm vụ cần được 
vạch ra cụ thể và có sự điều hành, phân công, phân 
nhiệm cho từng bộ phận, từng thành viên trong tổ 
chức. Như vậy, khái niệm quản trị có thể hiểu là một 
khâu, một thành phần của quản lý gắn cụ thể với 
một tổ chức và nặng về thừa hành, tác nghiệp, điều 
hành có hiệu quả các hoạt động cụ thể của một tổ 
chức để đạt được các mục tiêu mong đợi.
Có thể hiểu: Quản trị một tổ chức là quá trình 
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 
48 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
điều hành tổ chức bằng phương thức hoạch định các 
hoạt động; huy động, cung ứng đầy đủ, kịp thời và 
có chất lượng các nguồn lực (nhân lực, tài lực và vật 
lực), các phương tiện và điều kiện tất yếu cho mọi 
hoạt động của tổ chức để tổ chức vận hành đạt được 
hiệu quả các mục tiêu đã định trong môi trường 
luôn luôn biến động và với phạm vi nguồn lực huy 
động được. Trong quản trị một tổ chức còn có vai 
trò người đứng đầu (Thủ lĩnh/Chủ tịch Hội đồng 
quản trị) hoặc nhóm người có vai trò định hướng, 
chỉ đạo mọi hoạt động của tổ chức (Hội đồng quản 
trị). Lãnh đạo một tổ chức là việc người đứng đầu 
hoặc nhóm người lãnh đạo đề ra chủ ... ự
c. Quản trị các lĩnh vực hoạt động của nhà 
trường theo chức năng, nhiệm vụ được giao (đào 
tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ xã hội; quan hệ 
quốc tế...
d. Quản trị tài chính và các nguồn lực (cơ sở vật 
chất, trang thiết bị)
e. Quản trị dịch vụ sinh viên
Như vậy, có thể hiểu: Quản trị nhà trường là một 
quá trình tác động hợp lý (có mục đích, tự giác, hệ 
thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức - sư phạm 
của chủ thể quản lý đến tập thể người dạy và người 
học, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài 
nhà trường nhằm huy động, tổ chức các lực lượng 
giáo dục cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi 
hoạt động của nhà trường nhằm làm cho quá trình 
này vận hành tối ưu, hiệu quả hướng tới hoàn thành 
những mục tiêu giáo dục của nhà trường trong từng 
giai đọan phát triển 
4.4. Các mô hình quản trị trường đại học trên 
thế giới
4.4.1. Một số quan điểm, xu hướng về đại học và 
quản trị đại học 
Có khá nhiều quan điểm, xu hướng khác nhau về 
đại học và quản trị đại học. Giống như các tổ chức 
Nhà nước và tư nhân, trường đại học không thể 
đứng ngoài những thay đổi lớn của xã hội (Bargh 
và cộng sự, 1996). Các tác động bên ngoài như sự 
chuyển hướng từ đào tạo tinh hoa sang đại trà, sự 
gia tăng nhanh số lượng của sinh viên, việc khan 
hiếm các nguồn lực tài chính và các biến đổi trong 
môi trường chính trị đó làm bản thân Nhà nước và 
các trường đứng trước sự lựa chọn hoặc chấp nhận 
thay đổi hoặc là chết (Becher và Kogan, 1992).
Ở Australia, việc thay đổi này thể hiện vai trò 
điều phối sâu hơn của Nhà nước. Ở Canada đang có 
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
49Volume 9, Issue 2
xu hướng gia tăng sự điều phối của Nhà nước đối 
với hệ thống giáo dục đại học, đồng thời gia tăng 
yêu cầu, trách nhiệm xã hội và giải trình đối với các 
trường. Ở Mỹ, chứng kiến sự mở rộng các khung 
pháp lý về trách nhiệm thể chế. Ở Anh, hiện đang có 
sự điều tiết tập trung trong việc quản trị hệ thống đại 
học của Nhà nước. Riêng ở Hà Lan lại có xu hướng 
ngược lại (Goedegeburre và Hayden, 2007). 
Thứ hai là xu hướng ảnh hưởng của yếu tố thị 
trường. Braun và Merrien (1999) nhấn mạnh tầm 
quan trọng của một “thị trường hoàn chỉnh” và đề 
xuất các trường cần phải tập trung vào khía cạnh 
thị trường. Một số học giả khác lại cho rằng yếu tố 
thị trường không phải là ý tưởng hoàn hảo bởi vì 
sẽ không thể có một “thị trường hoàn hảo” (perfect 
market) trong giáo dục đại học mà là một “cận thị 
trường” (Amaral và Magalhaes).
Theo Dill (1997), cần xác lập và ứng dụng xu 
hướng “cận thị trường” thay vì “thị trường hoàn 
hảo” trong giáo dục nhằm quản lý nhà trường một 
cách có hiệu quả. Theo đó, cơ quan nhà nước Trung 
ương có thể hành động như một cơ quan đại diện 
cho nhu cầu và lợi ích của khách hàng, đồng thời 
thay mặt khách hàng ký hợp đồng với các cơ sở 
giáo dục đại học để cung cấp các sản phẩm. Điều 
này cho thấy giáo dục là một sản phẩm hàng hóa 
đặc biệt chứ không phải là một loại hàng hóa thông 
thường để có thể thương mại hóa theo dạng “thị 
trường hoàn hảo”. Vai trò của Nhà nước là hỗ trợ và 
điều tiết theo hướng “cận thị trường” để mục tiêu 
của giáo dục không bị bóp méo và hiểu sai lệch. 
Trên quan điểm này, Marginson (2002) nhấn mạnh: 
“Các trường đại học không phải là các công ty, tổ 
chức tư nhân sản xuất ra các loại hàng hóa dịch vụ 
thông thường. Mặc dù mức độ hỗ trợ tài chính của 
Chính phủ ở từng giai đoạn có thể khác nhau nhưng 
cũng không thể xem trường đại học là nơi mua bán 
hàng hóa”.
Trường đại học được thành lập và hoạt động 
trong khuôn khổ pháp lý qui định nhằm sản xuất ra 
nhiều loại hàng hóa công và tư với chức năng chính 
của nó là giảng dạy và nghiên cứu. Vì vậy, trường 
đại học là một phần quan trọng của hệ thống cơ sở 
hạ tầng quốc gia với trách nhiệm chính là tạo ra 
những sản phẩm công phục vụ xã hội. 
Một vấn đề tiếp theo đối với quản trị đại học là 
hình thức “quản trị chia sẻ” từ giới học thuật. “Quản 
trị chia sẻ” hay cũng được gọi là “quản trị tập thể” 
chiếm vị trí quan trọng bởi trường đại học là một tập 
thể phức hợp được cấu thành chủ yếu từ các giáo sư, 
cán bộ giảng dạy và sinh viên.
Trong những thập niên vừa qua, tiếng nói của 
các nhóm đối tượng trên là quan trọng. Tuy nhiên, 
vai trò của nhóm học thuật này ngày nay có vẻ yếu 
đi vì họ có xu hướng chống lại các thay đổi, đặc biệt 
là sự chuyển hướng từ “quản trị chia sẻ” sang quản 
trị theo mô hình công mới, nơi quyền lực thường 
tập trung vào Hội đồng quản trị và giám đốc điều 
hành.
Trong bối cảnh đó, quyền lực của của Hội đồng 
trường (đối với trường công) và hội đồng quản trị 
(đối với trường tư) và giám đốc điều hành (tức hiệu 
trưởng) ngày càng tăng cao nhằm đối phó với những 
biến động của xã hội, khan hiếm các nguồn kinh phí 
và trước hết là thích ứng với kinh tế thị trường. Hầu 
hết các học giả về quản trị đại học tiên tiến trên thế 
giới đồng ý rằng xu hướng trường đại học hoạt động 
như một doanh nghiệp/công ty (để đảm bảo hiệu 
quả đầu tư) kết hợp với hương vị “cận thị trường” 
(để thích ứng với nền kinh tế thị trường nhưng tránh 
thương mại hóa) dưới sự hỗ trợ, giám sát và điều 
tiết của Nhà nước là mô hình hoạt động tối ưu nhất 
của các trường đại học trên thế giới hiện nay. 
Một vấn đề khác của quản trị trong việc ra quyết 
định là mối quan hệ giữa tam giác quyền lực: Giám 
đốc điều hành/hiệu trưởng, Hội đồng quản trị và 
Hội đồng khoa học.
Hội đồng quản trị được xem như cơ quan quyền 
lực cao nhất của trường - “người gác đền” - quyết 
định các chính sách, qui hoạch chiến lược, định 
hướng và đầu tư lớn của trường. Vai trò của hội 
đồng quản trị giống như một cơ quan “đệm” nhằm 
giám sát các hoạt động của trường và thay mặt nhà 
trường làm việc với các đối tác bên ngoài. Điều này 
có nghĩa là hội đồng trường chịu trách nhiệm trước 
Nhà nước và xã hội về các hoạt động của trường 
chứ không phải là Ban giám hiệu như ở Việt Nam.
Trong khi đó, vai trò của giám đốc điều hành/
hiệu trưởng là điều hành/quản lý công việc hàng 
ngày và thực thi các chính sách, định hướng do hội 
đồng quản trị thông qua. Đối với Hội đồng khoa 
học, vai trò của nó là đảm bảo cao nhất chất lượng 
học thuật và nghiên cứu của nhà trường dưới sự 
quản lý của giám đốc điều hành/hiệu trưởng. 
Ở các nước, thành phần của Hội đồng trường 
là khá đa dạng, chủ yếu là đại diện từ giới công 
nghiệp, Chính phủ, nhà khoa học có uy tín, giáo sư, 
cán bộ, sinh viên, chính quyền địa phương... Theo 
đó, tỉ lệ của người từ ngoài trường thường chiếm 
khoảng 60-70%. Thông thường, số thành viên 
trung bình của hội đồng quản trị các trường đại học 
Úc vào khoảng 19-30 trong khi ở Mỹ dao động từ 
25 đến 35. Ở một số nước châu Âu, hội đồng trường 
chủ yếu được chỉ định bởi chính quyền thành phố, 
tiểu bang hoặc liên bang (tiêu biểu là trường đại học 
Kỹ thuật Delft, Hà Lan). Điều đặc biệt quan trọng 
là trong thành phần của Hội đồng trường cần phải 
có một số chuyên gia về kinh tế, tài chính và pháp 
luật để có thể giúp trường tính toán hiệu quả chi phí 
đầu tư cũng như hoạt động trong khuôn khổ luật 
pháp qui định.
Hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống giáo 
dục đại học nói riêng hình thành và phát triển trong 
quá trình phát triển của đời sống xã hội với nhiều 
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 
50 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
phương thức quản lý đa dạng tùy thuộc vào thể chế 
chính trị-Nhà nước; trình độ phát triển xã hội và 
truyền thống văn hóa Vì vậy, tổ chức quản lý 
phân quyền trong giáo dục đại học ở các nước nói 
chung không giống nhau. Thường có 4 kiểu phân 
quyền ra quyết định của các cấp: Chính phủ, Bộ; 
Trường đại học, Bộ môn
Kiểu 1. Điển hình là châu Âu lục địa, phân 
quyền theo thứ tự: Bộ môn; Chính phủ/Bộ; Trường 
đại học.
Kiểu 2. Điển hình là Anh, phân quyền theo thứ 
tự: Bộ môn, Trường đại học; Chính phủ/Bộ.
Kiểu 3. Điển hình là Mĩ phân quyền theo thứ 
tự: Trường đại học; Bộ môn ; Chính phủ/Bộ.
Kiểu 4. Điển hình là Liên xô (cũ) và Việt Nam, 
Đông Âu và Bắc Âu (Phần Lan, Na Uy)... phân 
quyền theo thứ tự: Chính phủ; Trường đại học; Bộ 
môn
Cấp (I) (II) (III) (IV)
Chính 
phủ/Bộ
Trường đại 
học
Bộ môn
Châu Âu Anh Mỹ Liên Xô (cũ)
4.4.2. Các mô hình trong quản trị trường đại học 
a. Kiểu “hiệp hội” truyền thống
Một số trường đại học lớn có truyền thống như 
là những “lâu đài nguy nga” về học thuât, là nguyên 
mẫu về quản lý đại học theo thông lệ. Phần lớn làm 
nhiệm vụ nghiên cứu khám phá tri thức mới nhiều 
hơn là đào tạo giảng dạy
b. Kiểu kiểm soát hành chính
Kiểu kiểm soát hành chính thường có ở các nước 
có cơ chế quản lý hành chính tập trung hoặc là các 
quốc gia có an sinh xã hội tốt, giáo dục đại học gần 
như được miễn phí.
Kiểu quản lý kiểm soát hành chính chặt chẽ cũng 
có thể nảy sinh trong bối cảnh một số hiệu trưởng 
mạnh, có biện pháp tăng được sinh viên, tăng nguồn 
lực và bắt đầu dần dần chuyển sang quản lý kiểu chỉ 
huy kiểm soát.
c. Kiểu công ty cổ phần 
Quyền sở hữu và trách nhiệm đỡ đầu là rất khác 
nhau từ chính quyền, tôn giáo, công ty, quân đội 
đến tổ chức chính trị xã hội,... đã đến việc liên kết, 
chia sẻ trách nhiệm, quyền hạn về chuyên môn, 
quản lý và từ đó hình thành nên các trường đại học 
kiểu công ty cổ phần. Viện Đại học Oxford như một 
công ty cổ phần của một số trường đại học lâu đời.
d. Kiểu doanh nghiệp tự quản 
Trong xu hướng phát triển, đặc biệt sự phát triển 
đột biến về quy mô, trước các yêu cầu bảo đảm chất 
lượng và yêu cầu huy động, sử dụng nguồn lực tài 
chính một cách có hiệu quả, nhiều trường đại học 
đã sử dụng kiểu quản lý công ty cho quản lý một 
trường đại học như ở Mỹ, Nhật Bản... Trong mô 
hình quản lý này, các trường đại học coi sinh viên 
như là khách hàng, họ hướng đến sinh viên như 
hướng đến khách hàng, vai trò quản lý của Hiệu 
trưởng được thực hiện gần giống với một giám đốc 
điều hành.
Trong công cuộc cải cách giáo dục đại học, Nhật 
Bản đang hướng đến mô hình này thể hiện qua việc 
“giao tư cách pháp nhân cho trường đại học” sử 
dụng các phương pháp quản lý doanh nghiệp trong 
các trường đại học mà thực chất là giao quyền tự 
chủ và trách nhiệm xã hội lớn hơn cho các trường 
đại học. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng quản trị 
“kiểu doanh nghiệp tự quản” không phải là công ty 
hoá hay cổ phần hoá trường đại học
Hình 3. Các mô hình trong quản trị trường đại học 
5. Thảo luận
1. Quá trình chuyển đổi các mô hình quản lý 
phản ánh sự biến đổi về nhu cầu của thực tiễn quản 
lý trong đời sống KT-XH, đồng thời cũng thể hiện 
sự phát triển ngày càng đầy đủ hơn về lý luận và 
tư duy của khoa học quản lý hiện đại. Các mô hình 
quản lý tuy có sự khác biệt về cách tiếp cận, về quan 
điểm và nội dung, song chúng không phủ định lẫn 
nhau mà góp phần bổ sung, hoàn thiện các cơ sở 
khoa học quản lý và tạo cơ sở ứng dụng cách tiếp 
cận phức hợp trong khoa học quản lý hiện đại. Phải 
chăng mô hình quản lý hiện đại là kết quả của sự 
chọn lọc, tích hợp các thành tố phù hợp và tiến bộ 
của các mô hình quản lý ở các giai đoạn phát triển 
khác nhau?
2. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường 
trong bối cảnh toàn cầu hóa, cuộc cách mạng công 
nghiệp 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi 
mặt của đời sống KT-XH nói chung và đến quản lý 
giáo dục, quản trị nhà trường nói riêng. Việc nhận 
diện các xu hướng, đặc trưng, các mô hình quản trị 
nhà trường nói chung và trường đại học nói riêng 
đã và đang là vấn đề cần được tiếp tục quan tâm 
nghiên cứu hiện nay và những năm tới, nhằm tạo cơ 
sở khoa học quản lý để đổi mới căn bản và toàn diện 
A: Kiểu trường ĐH 
truyền thống
B: Kiểu đơn vị hành 
chính
C: Kiểu công ty cổ 
phần
D: Kiểu công ty
Xác định chính sách
Lỏng lẻo
Lỏng lẻo
Chặt chẽ
Chặt chẽ
Giám sát thực 
hiện
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
51Volume 9, Issue 2
nền giáo dục Việt Nam trong thế kỷ XXI. 
6. Kết luận 
Quản lý giáo dục và quản trị nhà trường ở các 
nước trên thế giới rất phong phú và đa dạng, phụ 
thuộc vào bối cảnh KT-XH, truyền thống văn hóa 
và trình độ phát triển của mỗi nước. Tuy nhiên, xu 
hướng chung là tăng cường quản lý Nhà nước qua 
khung chính sách và thể chế đối với các loại hình 
trường đồng thời tăng tính tự chủ, tự chịu trách 
nhiệm của nhà trường, của cơ sở đào tạo trong quản 
trị nhà trường để có khả năng phát triển linh hoạt và 
đáp ứng kịp thời nhu cầu nhân lực của thị trường 
lao động, thực hiện có hiệu quả vai trò, sứ mạng của 
nhà trường đối với xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh 
của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 .
TRANSITION OF UNIVERSITY MANAGEMENT AND 
GOVERNANCE MODELS IN THE CONTEXT OF THE 4.0 
INDUSTRIAL REVOLUTION
Tran Khanh Duc
Bach Khoa University
Email: kduc1954@yahoo.com
Received: 20/5/2020 
Reviewed: 25/5/2020
Revised: 03/6/2020
Accepted: 10/6/2020
Released: 21/6/2020
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/417
Abstract
This article is analyzing a basic characteristics of the 
transfomation proccess of the management models. Basic content 
of the organizational theory; the characteristics of the university 
and university administration such as an administration of the 
educational organization following organizational theory in the 
context of the 4.0 industrial revolution. At the same time, introduce 
and analyse the trends and models of university governance in the 
world. This is the content that is very interested in research today 
in order to create a management scientific base for reviewing 
Vietnam's university education.
Keywords
Organization theory; University; Administration and 
university administration; Trends and models of an administration 
on universities.
Tài liệu tham khảo
Chửu, T. (1999). Tự điển Hán - Việt (Chủ biên). 
Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. Thành phố 
Hồ Chí Minh.
Chowdhury, S. (2006). Quản lý trong thế kỷ 21. 
Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật.
Doan, N. T., & Cường, Đ. M. (1996). Các học 
thuyết quản lý. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
Đức, T. K. (2014). Giáo dục và phát triển nguồn 
nhân lực trong thế kỷ XXI. Hà Nội: Nxb. 
Giáo dục.
Đức, T. K. (2019). Quản lý đào tạo và quản trị 
nhà trường. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia 
Hà Nội.
Đức, T. K., & Hùng, N. M. (2011). Giáo dục đại 
học và quản trị đại học. Hà Nội: Nxb. Đại 
học Quốc gia Hà Nội.
Hiền, B. (2013). Từ điển Giáo dục học (chủ 
biên). Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
Koonitz, H. (2004). Những vấn đề cốt yếu của 
quản lý. Hà Nội: Nxb. Khoa học và Kỹ thuật.
Kiểm, T. (2016). Nhà trường và lãnh đạo nhà 
trường hiệu quả. Hà Nội: Nxb. Đại học Sư 
phạm Hà Nội.
Lân, N. (2002). Từ điển Hán - Việt (Chủ biên). 
Hà Nội: Nxb. Từ điển Bách khoa.
Lindelow, J., & Heynderickx, J. (1989). School 
– Based Management. ERIC Clearinghouse 
Educational Management.
Lộc, N. (2009). Cơ sở lý luận quản lý trong tổ 
chức giáo dục (Chủ biên). Hà Nội: Nxb. Đại 
học Sư phạm Hà Nội.
Lunenburg, F. C., & Ornstein, A. C. Educational 
Administration- Concepts and Practices 
(Third Edit). Wadsworth.
Senor, D., & Singher, S. (2015). Quốc gia khởi 
nghiệp. Hà Nội: Nxb. Thế giới.
Schwab, K. (2018). Cách mạng công nghiệp lần 
thứ tư. Hà Nội: Nxb. Thế giới.

File đính kèm:

  • pdfqua_trinh_chuyen_doi_cac_mo_hinh_quan_ly_va_quan_tri_truong.pdf