So sánh kỹ thuật ghi hình xung lực xạ âm với đo độ đàn hồi thoáng qua trong đánh giá xơ hóa gan trên bệnh nhân bị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu

TÓM TẮT

Tổng quan và mục tiêu: Các nghiên cứu đã cho thấy kỹ thuật đo độ đàn hồi thoáng qua (Transient

Elastography: TE) có giá trị trong đánh giá XHG ở BN bị bệnh viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (Non

Alcoholic Steatohepatitis: NASH). Tuy nhiên, kỹ thuật này có tỷ lệ thất bại có cao trên bệnh nhân béo phì, một yếu tố nguy cơ của NASH. Kỹ thuật ghi hình xung lực xạ âm (Acoustic Radiation Force Impulse: ARFI) là một phương pháp siêu âm (SA) đàn hồi rất mới và những kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy ARFI có độ chính xác tương tự TE trong đánh giá XHG và béo phì không phải là hạn chế của kỹ thuật này. Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là xác định giá trị chẩn đoán của ARFI và so sánh độ chính xác của kỹ thuật này với TE trong đánh giá XHG dùng kết quả sinh thiết gan như là “tiêu chuẩn vàng” ở BN bị NASH.

pdf 8 trang yennguyen 2560
Bạn đang xem tài liệu "So sánh kỹ thuật ghi hình xung lực xạ âm với đo độ đàn hồi thoáng qua trong đánh giá xơ hóa gan trên bệnh nhân bị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh kỹ thuật ghi hình xung lực xạ âm với đo độ đàn hồi thoáng qua trong đánh giá xơ hóa gan trên bệnh nhân bị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu

So sánh kỹ thuật ghi hình xung lực xạ âm với đo độ đàn hồi thoáng qua trong đánh giá xơ hóa gan trên bệnh nhân bị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 280
SO SÁNH KỸ THUẬT GHI HÌNH XUNG LỰC XẠ ÂM VỚI ĐO ĐỘ ĐÀN HỒI 
THOÁNG QUA TRONG ĐÁNH GIÁ XƠ HÓA GAN TRÊN BỆNH NHÂN 
BỊ VIÊM GAN NHIỄM MỠ KHÔNG DO RƯỢU 
Trần Thị Khánh Tường* 
TÓM TẮT 
Tổng quan và mục tiêu: Các nghiên cứu đã cho thấy kỹ thuật đo độ đàn hồi thoáng qua (Transient 
Elastography: TE) có giá trị trong đánh giá XHG ở BN bị bệnh viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (Non 
Alcoholic Steatohepatitis: NASH). Tuy nhiên, kỹ thuật này có tỷ lệ thất bại có cao trên bệnh nhân béo phì, một 
yếu tố nguy cơ của NASH. Kỹ thuật ghi hình xung lực xạ âm (Acoustic Radiation Force Impulse: ARFI) là một 
phương pháp siêu âm (SA) đàn hồi rất mới và những kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy ARFI có độ chính 
xác tương tự TE trong đánh giá XHG và béo phì không phải là hạn chế của kỹ thuật này. Mục tiêu nghiên cứu 
của chúng tôi là xác định giá trị chẩn đoán của ARFI và so sánh độ chính xác của kỹ thuật này với TE trong 
đánh giá XHG dùng kết quả sinh thiết gan như là “tiêu chuẩn vàng” ở BN bị NASH. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu : 51 BN được chẩn đoán NASH dựa vào mô học tại bệnh viện 
Nhân dân 115 từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 3 năm 2015. Tất cả BN được đánh giá độ cứng của gan bằng 
kỹ thuật ARFI và TE. Kết quả được so sánh với kết quả mô học. Các giá trị ngưỡng được xác định bằng cách 
phân tích đường cong ROC. Độ chính xác của ARFI và TE đối với các giai đoạn xơ hóa khác nhau được đo bởi 
diện tích dưới đường cong ROC (AUROC) với khoảng tin cậy (CI) 95%. 
Kết quả : XHG xác định bằng mô học được đánh giá bằng thang điểm Metavir, F0: 8 ca, F1: 29 ca, F2: 10 
ca, F3: 4 ca. Giá trị ngưỡng của vận tốc sóng biến dạng (SWV) đo bằng ARFI như sau: ≥ 1,29 m/s cho ≥ F2 (độ 
nhạy 64,3%, độ đặc hiệu 83,8%, PPV 60% và NPV 86,1%); ≥ 1,38 m/s cho F3 (độ nhạy 75,0%, độ đặc hiệu 
89,4%, PPV 57,5% và NPV 97,7%). Độ cứng của gan đo bằng ARFI và TE có mối tương quan có ý nghĩa với 
giai đoạn XHG (Spearman rho lần lượt là: 0,44, 0,3, p<0,05). AUROC của ARFI (0,75 đối với ≥F2 và 0,78 đối 
với F3) lớn hơn (p<0,05) AUROC của TE (0,68 đối với F≥2 và 0,73 đối với F3). 
Kết luận: Kỹ thuật ARFI có độ chính xác khá tốt, độ chuyên và NPV cao trong đánh giá XHG đáng kể và 
xơ hóa nặng ở những bệnh nhân bị NASH. Kết quả đo của ARFI có mối tương quan với giai đoạn xơ hóa cao 
hơn so với của TE và có độ chính xác tốt hơn TE đối với xơ hóa đáng kể và xơ hóa nặng. Kỹ thuật ARFI nên 
thực hiện thường qui cho các BN bị NASH để loại trừ XHG đáng kể và XHG nặng. 
Từ khóa: XHG, độ cứng của gan, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD), viêm gan nhiễm mỡ 
không do rượu (NASH), kỹ thuật xung lực xạ âm (ARFI), đo độ đàn hồi thoáng qua (TE). 
ABSTRACT 
ACOUSTIC RADIATION FORCE IMPULSE IMAGING VERSUS TRANSIENT ELASTOGRAPHY FOR 
THE EVALUATION OF LIVER FIBROSIS IN PATIENTS WITH NONALCOHOLIC 
STEATOHEPATITIS 
Tran Thi Khanh Tuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 280 - 287 
Background / Objectives: Transient elastography (TE) has shown good diagnostic value for the 
assessment of liver fibrosis in patients with Non Alcoholic Steatohepatitis (NASH). However, obesity, a major 
risk factor for NASH, was associated with TE failure in up to 25% of patients. Acoustic Radiation Force 
* Bộ môn Nội Tổng quát Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Trần Thị Khánh Tường ĐT: 0903164690 Email: drkhanhtuong@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 281
Impulse (ARFI) imaging is a novel ultrasound-based elastography method and preliminary results have shown 
that this method has the diagnostic accuracy similar to that of TE and obesity is not a limitation for ARFI. This 
study aimed to validate the diagnostic usefulness of ARFI and to compare its diagnostic accuracy with that of TE 
in the assessment of liver fibrosis using liver biopsy as ‘gold standard’ in patients with NASH. 
Patients and Methods: 51 patients with histologically proven NASH diagnosed at People 115 Hospital 
between December 2012 and March 2015. All of patients evaluated the liver stiffness by means of ARFI, TE. 
The results were compared with liver histology. Cut-off values were determined using receiver-operating 
characteristic (ROC) curves. The diagnostic accuracy of ARFI as well as TE for the different fibrosis stages was 
measured using the area under the ROC (AUROC) with a 95% confidence interval (CI). 
Results: Histological liver fibrosis was evaluated by Metavir scoring; F0: 8 cases, F1: 29 cases, F2: 10 cases. 
And F3: 4 cases. The cut-off values of the shear wave velocity (SWV) measured by ARFI were as follows: ≥1.29 
m/s for ≥F2 (sensitivity 64.3%, specificity 83.8%, PPV 60% and NPV 86.1%), ≥ 1.38 m/s for F3 (sensitivity 
75%, specificity 89.4%, PPV 57.5%, NPV 97.7%). Liver stiffness determined by ARFI and TE were 
significantly correlated with the fibrosis stages (Spearman rho: 0.44, 0.3, p<0.05, respectively). AUROC of 
ARFI (0.75 for ≥F2 and 0.78 for F3) were larger (p<0.05) than those of TE (0.68 for F≥2; 0.73 for F3). 
Conclusions: ARFI has quite good accuracy and high specificity, NPV for prediction of significant and 
advanced fibrosis in patients with NASH. ARFI measurements have a higher correlation with fibrosis stages 
than that of TE and a better diagnostic accuracy than that of TE for significant and advanced fibrosis. ARFI 
should be employed routinely in the workup of patients with NASH to exclude the presence of significant and 
advanced liver fibrosis. 
Key words: liver fibrosis, liver stiffness, non-alcoholic fatty liver disease (NAFLD), nonalcoholic 
steatohepatitis (NASH), acoustic radiation force impulse imaging (ARFI), transient elastography (TE), 
fibroscan. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (Non 
Alcoholic Fatty Liver Disease: NAFLD) được 
phân loại về mô học gồm gan nhiễm mỡ 
không do rượu (nonalcoholic fatty liver: 
NAFL) khi chỉ có nhiễm mỡ ở gan, không có 
tổn thương tế bào gan và NASH khi có tổn 
thương tế bào gan ± xơ hóa(5). Khoảng 10% 
NAFL diễn tiến thành NASH trong vòng 10 
năm, 5%-25% diễn tiến đến xơ gan và 30%-
50% số BN xơ gan này sẽ chết do các biến 
chứng trong vòng 10 năm(18). NASH có XHG 
có nguy cơ đáng kể tiến triển đến ung thư 
gan(18). NASH là nguyên nhân quan trọng, 
thường gặp gây tổn thương gan mạn tại 
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở phương 
Tây với tần suất 20-50%(14). Tần suất này 
không thay đổi nhiều tại các nước phương 
Tây trong 3 thập niên qua(7). Tuy nhiên tại 
châu Á, tần suất bệnh này ngày càng gia tăng 
đặc biệt trong 2 thập niên gần đây. Tần suất 
NAFLD chung ở châu Á từ 15% đến 30%(18). 
Các nghiên cứu gần đây cho thấy NASH thực 
sự là một vấn đề sức khỏe ngày càng phát 
sinh ở vùng châu Á Thái Bình Dương(1). Đánh 
giá XHG đóng vai trò vô cùng quan trọng đối 
với bệnh gan mạn nói chung và NASH nói 
riêng trong chỉ định điều trị, đánh giá đáp 
ứng điều trị và tiên lượng; góp phần giảm tỷ 
lệ tiến triển đến xơ gan và ung thư gan. 
Cho đến nay, sinh thiết gan vẫn được xem 
là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán XHG. Tuy 
nhiên, mẫu mô sinh thiết gan chỉ đại diện cho 
1/50.000 thể tích của gan(4) và có nhiều hạn chế. 
Nhằm giải quyết những hạn chế của sinh thiết 
gan, những phương pháp đánh giá XHG không 
xâm nhập ngày càng phát triển và đang được 
áp dụng trong thực hành lâm sàng. Các phương 
tiện đánh giá XHG không xâm nhập hiện đang 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 282
áp dụng tại Việt Nam gồm SA đàn hồi mô như 
kỹ thuật đo độ đàn hồi thoáng qua (Transient 
Elastography: TE) bằng máy Fibroscan, kỹ thuật 
ghi hình xung lực xạ âm (Acoustic Radiation 
Force Impulse: ARFI) và các chỉ điểm sinh học 
như chỉ số xơ hóa NAFLD. 
Kỹ thuật TE với máy Fibroscan đã được 
nghiên cứu nhiều và các nghiên cứu phân tích 
tổng hợp đều cho thấy TE có độ chính xác rất tốt 
trong chẩn đoán XHG trên bệnh gan mạn nói 
chung và NAFLD/NASH nói riêng và đã được 
FDA chấp thuận 2014 trong đánh giá XHG. Kỹ 
thuật ARFI được giới thiệu đầu tiên vào năm 
2001 (10). ARFI được tích hợp vào máy SA dòng 
Acuson S2000TM của hãng Siemens có sẵn. Kỹ 
thuật này hoạt động theo nguyên lý ghi hình 
bằng xung xạ âm có thể khảo sát các mô ở sâu 
mà không phải ấn đầu dò. Kỹ thuật ARFI kích 
thích cơ học mô bằng cách dùng xung đẩy trong 
thời gian ngắn (short-duration push pulses) 
trong vùng quan tâm (region of interesting : 
ROI ) được chọn. Khi xung qua vùng ROI gây ra 
dời chỗ mô, mô dời chỗ và trở lại vị trí cũ tùy 
vào đặc điểm cơ học tạo nên sóng biến dạng 
thẳng góc xung đẩy. Tốc độ của mô dời chỗ hay 
vận tốc sóng biến dạng (shear wave velocity: 
SWV) được đo bằng chùm SA quy ước theo dõi 
cùng đầu dò SA dùng để tạo ra lực và phản ánh 
độ cứng hay độ đàn hồi của mô. SWV tỷ lệ 
thuận với độ cứng mô, SWV càng nhanh thì mô 
khảo sát càng cứng. Từ SWV sẽ suy ra mức độ 
XHG được chia thành 4 độ tương ứng với mức 
độ XHG theo Metavir. Cũng như TE, ARFI đo 
độ cứng của gan một cách nhanh chóng, rẻ tiền 
và có giá trị cao trong đánh giá XHG. Tuy nhiên, 
ARFI vượt trội hơn TE vì có thể thực hiện được 
trên những bệnh nhân (BN) báng bụng, có 
khoảng gian sườn hẹp và béo phì. Một số 
nghiên cứu so sánh giá trị của 2 kỹ thuật này 
trên thế giới cho thấy độ chính xác của 2 kỹ 
thuật này tương tự nhau (11). Các nghiên cứu về 
giá trị của ARFI trong đánh giá XHG trên BN bị 
NAFLD/ NASH chưa nhiều cũng như các 
nghiên cứu so sánh giá trị của 2 kỹ thuật này ở 
BN bị NAFLD/NASH còn rất ít. Tại Việt Nam, 
chưa có đề tài nào nghiên cứu so sánh kỹ thuật 
ARFI với TE đối chiếu với sinh thiết gan trên các 
đối tương này. Với tần suất NASH ngày càng 
gia tăng, chúng tôi nhận thấy thực sự cần có 
một nghiên cứu tại Việt Nam để so sánh giá trị 
của kỹ thuật ARFI với TE đối chiếu với mô học 
trong đánh giá XHG trên BN bị NASH. Do đó, 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với các mục 
tiêu sau : 
Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên 
đoán dương (PPV), giá trị tiên đoán âm (NPV) 
của kỹ thuật ARFI trong đánh giá XHG đáng kể 
và xơ hóa nặng trên BN bị NASH. 
Xác định mối tương quan giữa độ cứng của 
gan đo bằng kỹ thuật ARFI và TE với giai đoạn 
XHG xác định bằng mô học theo phân loại 
Metavir. 
So sánh độ chính xác của kỹ thuật ARFI và 
TE trong đánh giá XHG đáng kể và xơ hóa nặng 
trên BN bị NASH 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
 Cắt ngang phân tích. 
Dân số nghiên cứu 
BN từ 18 tuổi trở lên bị NASH được khám 
và điều trị tại BV Nhân Dân 115, thành phố Hồ 
Chí Minh. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Tất cả các BN nội và ngoại trú từ 18 tuổi trở 
lên được chẩn đoán xác định là NASH tại BV 
Nhân Dân 115 theo các tiêu chuẩn sau: 
Biểu hiện mô bệnh học: nhiễm mỡ (≥ 5% 
tế bào gan), tình trạng viêm với tổn thương tế 
bào gan (dạng thoái hóa nước) có hay không 
có xơ hóa(5). 
Loại trừ các nguyên nhân gây nhiễm mỡ 
thứ phát(5): 
Rượu: không đạt tiêu chuẩn uống rượu 
đáng kể (<140g/ tuần ở nữ và < 210g/tuần ở 
nam). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 283
Loại trừ viêm gan C, thuốc như 
amiodarone, methotrexate, tamoxifen, 
corticosteroids. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
BN không đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Mẫu mô gan không đạt chuẩn (< 6 
khoảng cửa). 
Số lần đo thành công độ cứng của gan 
bằng ARFI và TE < 10 lần hay tỷ lệ đo thành 
công < 60% . 
Cách tiến hành 
Tất cả BN được hỏi bệnh sử, khám lâm sàng 
và thực hiện các xét nghiệm cần thiết theo mẫu 
thu thập số liệu. Các BN được sinh thiết gan 
dưới hướng dẫn của SA tại phòng SA của BV 
Nhân Dân 115 bằng súng ST tự động Bard sản 
xuất tại Mỹ. Tất cả BN đều được thực hiện kỹ 
thuật ARFI cài đặt trên máy Siemens ACUSON 
S2000 (do cùng một BS siêu âm thực hiện) và TE 
trên máy Fibroscan (do cùng một BS siêu âm 
khác thực hiện) cùng một ngày trong vòng 2 
tuần trước hay sau khi sinh thiết gan tại Trung 
tâm Chẩn đoán Y khoa Medic, TP HCM. Hai BS 
siêu âm thực hiện độc lập không biết được kết 
quả đo độ cứng gan của kỹ thuật khác và kết 
quả GPB. Độ cứng của gan được đo bằng 2 kỹ 
thuật này tổng cộng 10 lần, sau đó lấy kết quả 
trung bình. Đo thất bại khi không có lần nào 
thành công sau 10 lần đo hay tỷ lệ đo thành 
công < 60% hay IQR/med ≥ 30% (21). Phân tích 
mẫu mô gan do giảng viên của Bộ môn Giải 
phẫu bệnh trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc 
Thạch thực hiện. 
Xử lý số liệu 
Bằng phần mềm thống kê STATA 12. 
Tính độ nhạy, độ đặc hiệu, PPV và NPV 
theo giá trị ngưỡng (cut-off value) tốt nhất của 
SWV. Giá trị ngưỡng được chọn tại điểm có chỉ 
số Youden (J ) cao nhất với J = Sensitivity + 
Specificity − 1 
Xác định độ chính xác bằng phân tích 
đường cong ROC (Receiver Operating 
Characteristic) gồm diện tích dưới đường cong 
(Area Under de ROC Curve : AUROC), khoảng 
tin cậy (KTC) 95%. 
Đánh giá tương quan giữa các 2 biến số 
bằng tương quan thứ bậc Spearman 
(Spearman rho). 
Kết quả có ý nghĩa khi p < 0,05. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong thời gian từ tháng 12/2012-3/2015, 
chúng tôi thực hiện sinh thiết 53 ca, nhưng chỉ 
51 ca đủ tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu. 
Đặc điểm dân số nghiên cứu 
Tuổi trung bình 46,07± 14,43, đa số thuộc 
nhóm tuổi 26-45, chiếm tỷ lệ 47,06% 
Nữ: 28 ca, chiếm tỷ lệ 54,9 %, nam: 23 ca, 
chiếm tỷ lệ 45,1%. 
Tiền căn đái tháo đường 31,37%. 
BMI trung bình: 24,40 ± 2,54, đa số BN thuộc 
nhóm quá cân và béo phì độ 1 (n=38), chiếm tỷ 
lệ 74.5%. 
68,3% BN đến khám bệnh vì men gan tăng. 
68,8% BN không có triệu chứng cơ năng, mệt là 
triệu chứng cơ năng thường gặp nhất (11%). 
98% BN không có triệu chứng thực thể. 
Đặc điểm các xét nghiệm sinh hóa gan được 
trình bày ở bảng 1 
Bảng 1 : Đặc điểm các xét nghiệm sinh hóa gan 
 Trung bình 
Giá trị thấp 
nhất 
Giá trị cao 
nhất 
ALT (U/l) 67,27 ± 39,09 14 201 
AST (U/l) 46,59 ± 31,68 19 217 
ALP (U/l) 78,34 ± 34,87 25,3 172,6 
GGT (U/l) 
107,86 ± 
103,43 
16 509 
Bilirubin 
(mg/dl) 
0,87 ± 0,73 0,27 5,02 
INR 0,97 ± 0,07 0,86 1,13 
Albumin (g/dl) 4,35 ± 0,47 3,44 5,47 
Đa số BN có rối loạn lipid máu, chiếm tỷ 
lệ 80,39%, trong đó tăng triglycerid là loại rối 
loạn thường gặp nhất. 76% BN có tăng đường 
huyết đói. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 284
Tỷ lệ thành công ST gan, kỹ thuật ARFI và 
TE 
Chúng tôi thực hiện sinh thiết 53 ca, nhưng 
chỉ 51 ca đủ tiêu chuẩn được đưa vào nghiên 
cứu, 2 ca có số khoảng cửa <6 được loại ra khỏi 
nghiên cứu. Tất cả các ca sinh thiết đều không 
có biến chứng. Tỷ lệ ST gan thành công là 
51/53=96,2 %, với số khoảng cửa trung bình là 
6,53 ± 1,03. 
Tất cả các BN đo độ cứng của gan bằng kỹ 
thuật ARFI và TE đều thành công chiếm tỷ 
 lệ 100%. 
Giá trị của ARFI trong đánh giá XHG 
XHG xác định bằng mô học theo thang 
điểm Metavir như sau: F0: 8 trường hợp, F1: 29 
trường hợp, F2: 10 trường hợp, F3: 4 trường 
hợp. Giá trị ngưỡng, độ nhạy, độ đặc hiệu, PPV, 
NPV của kỹ thuật ARFI trong chẩn đoán mức 
độ XHG được trình bày ở bảng 2. 
Bảng 2: Độ nhạy, độ đặc hiệu, PPV, NPV của kỹ 
thuật ARFI trong chẩn đoán mức độ XHG 
Giá trị 
ngưỡng của 
SWV (m/s) 
Độ 
nhạy 
Độ đặc 
hiệu 
PPV NPV 
Xơ hóa đáng 
kể 
1,29 64,3% 83,8% 60% 86,1% 
Xơ hóa nặng 1,38 75% 89,4% 57,5% 97,7% 
Mối tương quan giữa độ cứng của gan đo 
bằng kỹ thuật ARFI và TE với giai đoạn 
XHG 
Có tương quan giữa độ cứng của gan đo 
bằng ARFI và TE với giai đoạn XHG theo thang 
điểm Metavir với Spearman rho lần lượt là 0,44 
và 0,3 với p<0,05. 
So sánh độ chính xác của kỹ thuật ARFI 
với TE trong chẩn đoán các mức độ XHG 
Bảng 3: Độ chính xác của kỹ thuật ARFI và TE 
trong chẩn đoán mức độ XHG 
 AUROC Độ lệch chuẩn KTC 95% 
Xơ hóa đáng 
kể (≥ F2) 
ARFI 0,75 0,08 0,60-0,90 
TE 0,69 0,09 0,5-0,87 
Xơ hóa nặng 
(≥ F3) 
ARFI 0,78 0,1 0,53-0,99 
TE 0,73 0,09 0,52-0,98 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm dân số nghiên cứu 
Tỷ lệ BN nam và nữ trong trong nhóm 
nghiên cứu gần bằng nhau tương tự nghiên cứu 
của Yoneda, M và cs(19). Tuy nhiên, một số 
nghiên cứu cho thấy nữ bị NALFD nhiều hơn 
nam(12), một số lại cho kết quả ngược lại(16). Tuổi 
trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 
46,07, phù hợp với nghiên cứu trên thế giới, BN 
bị NAFLD thường ở lứa tuổi 40-50(6). Đa số BN, 
chiếm tỷ lệ 74,5%, thuộc nhóm nguy cơ và béo 
độ 1 phù hợp với y văn cho rằng NAFLD 
thường xảy ra trên BN có BMI cao. 
Đa số BN không có triệu chứng cơ năng 
(68,8%), trong đó mệt là triệu chứng thường gặp 
nhất phù hợp với các nghiên cứu khác(3). Hầu 
hết BN không có triệu chứng thực thể. BN đến 
khám bệnh chủ yếu do phát hiện men gan tăng, 
chiếm tỷ lệ 68,3%. 
Mức độ tăng ALT trên BN bị NASH không 
nhiều, đa số tăng 2-3 lần tương tự như các 
nghiên cứu khác(8,19 ). Bilirubin, Albumin huyết 
thanh và INR của hầu hết BN đều trong giới 
hạn bình thường. 
BN bị NASH trong nghiên cứu này đa số có 
rối loạn lipid máu trong đó tăng triglycerid là 
loại rối loạn thường gặp nhất và tăng đường 
huyết đói phù hợp với y văn và các nghiên cứu 
trên thế giới(2,13 ). NAFLD/ NASH thường xảy ra 
trên BN bị rối loạn lipid máu, đái tháo đường và 
béo phì. 
Tỷ lệ thành công ST gan và kỹ thuật ARFI 
Tỷ lệ sinh thiết gan thành công (không biến 
chứng, mẫu mô gan đạt chuẩn) là 96,2 %. Tỷ lệ 
này cao hơn nghiên cứu Lê Thị Thanh Quýt (15) 
và một số các nghiên cứu của các tác giả 
Fouchert Juliette và cs(9), Ziol Marianne và cs (20) 
tỷ lệ thành công từ 92,3%-96%. Có thể do chúng 
tôi sử dụng súng ST tự động Bard giúp mẫu mô 
gan không bị đứt khúc và dài hơn so với sinh 
thiết hút kiểu Menghini của các tác giả trên. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 285
Tỷ lệ thực hiện thành công kỹ thuật ARFI và 
TE là 100%. Các yếu tố có thể làm giảm độ chính 
xác của TE bao gồm báng bụng, áp lực tĩnh 
mạch trung tâm cao (như suy tim) và béo phì, 
bởi vì mô mỡ và chất lỏng làm chậm sóng đàn 
hồi. Tỷ lệ thất bại của TE là 2,4-9,4%, đặc biệt khi 
BN có BMI>28. Theo các nghiên cứu trước đây, 
tỷ lệ thất bại của kỹ thuật TE có thể lên đến 25 % 
trên những BN béo phì, đặc biệt là béo phì 
nặng(17) Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số 
BN là quá cân và béo độ 1 nên có lẽ không ảnh 
hưởng đến tỷ lệ thành công của TE. 
Giá trị của ARFI trong chẩn đoán mức độ 
XHG 
Giai đoạn xơ hóa theo thang điểm mô học 
Metavir(20) bao gồm F0: không có xơ hóa khoảng 
cửa, F1: xơ hóa khoảng cửa, quanh khoảng cửa, 
không có vách xơ, F2: xơ hóa quanh khoảng cửa 
với vài vách xơ, F3: vách xơ và xơ hóa bắc cầu 
nhiều, nhưng chưa đảo lộn cấu trúc tiểu thùy, 
chưa xơ gan. F4: vách xơ, xơ hóa bắc cầu nhiều, 
đảo lộn cấu trúc tiểu thùy, xơ gan. Xơ hóa nhẹ: 
F0-1, xơ hóa đáng kể (significant fibrosis) khi 
mức độ xơ hóa ≥ F2 và xơ hóa nặng (advanced 
fibrosis) khi mức độ xơ hóa ≥ F3 (20) và xơ gan là 
F4. Diễn tiến XHG của NASH chậm hơn so với 
VGM do vi-rút hay rượu. Ước tính phải mất TB 
30 năm để tiến triển đến xơ gan đối với VGM do 
HCV, tuy nhiên đối với NASH thời gian này 
còn kéo dài hơn. NAFLD/NASH mới phát triển 
ở Châu Á trong vòng 2 thập niên gần đây, do 
đó tỷ lệ bệnh nhân xơ gan do NASH đơn thuần 
rất ít, chính vì thế chúng tôi chưa có BN nào bị 
xơ gan trong nghiên cứu. Hơn nữa trong nghiên 
cứu này, chúng tôi loại ra tất cả các BN bị 
NASH có kèm nhiễm virus viêm gan B, C; rượu 
hay thuốc, do vậy loại ra hầu hết các ca xơ gan 
do nhiều nguyên nhân kết hợp. 
Bảng 4 cho thấy độ nhạy, độ đặc hiệu 
trong nghiên cứu của chúng tôi đối với 2 mức 
độ XHG đều thấp hơn nghiên cứu của 
Fierbinteanu Braticevici C(8) và nghiên cứu 
của Yoneda(19). Độ chính xác (AUROC) của 
chúng tôi cũng thấp hơn nhiều so với nghiên 
cứu của 2 tác giả này, nhưng sự khác biệt ít 
hơn so với nghiên cứu phân tích gộp của 
Friedrich-Rust M(10) . 
Về giá trị điểm cắt của SWV để chẩn đoán 
xơ hóa đáng kể và xơ hóa nặng có sự khác biệt 
không nhiều so với nghiên cứu của 
Fierbinteanu Braticevici C. Tuy nhiên so với 
nghiên cứu phân tích tổng hợp của Friedrich-
Rust M trên BN bị bệnh gan mạn do nhiều 
nguyên nhân và của Yoneda, điểm cắt SWV để 
chẩn đoán xơ hóa đáng kể, đặc biệt xơ hóa nặng 
của chúng tôi thấp hơn. 
Số lượng cỡ mẫu trong các nghiên cứu 
trong bảng 4 trên BN NAFLD/NASH đều nhỏ 
và gần tương đương nhau. Do đó, sự khác 
biệt về kết quả nghiên cứu có lẽ do sự khác 
biệt về các đặc điểm nhân trắc trong dân số 
nghiên cứu (như BMI, chủng tộc...), tiêu 
chuẩn chọn bệnh (có nghiên cứu là BN bị 
NALFD, có nghiên cứu chỉ NASH). Hơn nữa, 
cả 2 nghiên cứu của Fierbinteanu Braticevici 
C và Yoneda M đều có hạn chế là làm ST gan 
trước làm ARFI lần lượt cách nhau đến 6 
tháng và 12 tháng, do đó mức độ viêm, nhiễm 
mỡ có thể đã thay đổi làm ảnh hưởng đến kết 
quả SWV. Trong khi đó, đa số BN trong 
nghiên cứu của chúng tôi được làm ARFI 
cách sinh thiết gan là 2 ngày, tối đa là 2 tuần. 
Bảng 4: So sánh độ nhạy, độ đặc hiệu của ARFI với các nghiên cứu khác 
Tác giả n 
Gía trị 
ngưỡng 
Độ 
nhạy 
Độ đặc 
hiệu 
PPV NPV AUROC 
Yoneda, M và cs 
(2010)
(14)
54 NAFLD ≥ F3 1,77 100% 91 % 71% 100% 0,973 
Friedrich-Rust M (2012)
(9)
77 NASH ≥ F2 ≥ F3 
0,86 
0,86 
518 bệnh gan mạn 
≥ F2 1.34 79% 85% 91% 66% 0,87 
≥ F3 1.55 86% 86% 82% 89% 0,91 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 286
Tác giả n 
Gía trị 
ngưỡng 
Độ 
nhạy 
Độ đặc 
hiệu 
PPV NPV AUROC 
Fierbinteanu Braticevici C 
và cs (2013)
(7)
64 (NAFLD) trong 
đó 43 (NASH) 
≥ F2 1.165 84.80% 90.30% 90,32% 84,85% 0,944 
≥ F3 1.480 86.40% 95.20% 90,48% 93,02% 0,982 
Chúng tôi 51 
≥ F2 1.29 64.3% 83,8% 60% 86,1% 0,75 
≥ F3 1.38 75% 89.4% 57.5% 97,7% 0,78 
NPV trong nghiên cứu của chúng tôi khá 
cao đối với đánh giá xơ hóa đáng kể (86,1%) và 
rất cao (97,7%) trong xơ hóa nặng tương tự 
nghiên cứu của Fierbinteanu Braticevici C. Với 
NPV cao, ARFI có thể giúp chẩn đoán loại trừ 
xơ hóa đáng kể và đặc biệt là xơ hóa nặng trên 
BN bị NASH. 
Mối tương quan giữa độ cứng của gan đo 
bằng kỹ thuật ARFI và TE với giai đoạn 
XHG 
Kết quả nghiên cứu cho thấy độ cứng của 
gan đo bằng ARFI có tương quan thuận khá 
chặt với mức độ XHG trên mô học và cao hơn 
so với TE. Tuy nhiên, mức độ tương quan trong 
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với các 
nghiên cứu của Fierbinteanu Braticevici C và cs 
(8) (rho = 0,843), Yoneda M và cs (19) (rho =0,75), có 
lẽ sự khác biệt cũng do các nguyên nhân kể trên. 
So sánh độ chính xác của kỹ thuật ARFI với TE 
trong chẩn đoán các mức độ XHG 
Bảng 3 cho thấy độ chính xác của ARFI 
trong chẩn đoán xơ hóa đáng kể và nặng đều 
cao hơn so với TE. Theo nghiên cứu của 
Friedrich-Rust M (2012) (11) độ chính xác của cả 2 
kỹ thuật này đều cao hơn so với của chúng tôi 
và không có sự khác biệt về độ chính xác của 2 
kỹ thuật này trong đánh giá xơ hóa đáng kể và 
xơ hóa nặng trên BN bị NASH. Sự khác biệt này 
là do kỹ thuật thực hiện và đặc điểm dân số 
nghiên cứu khác nhau. Trong nghiên cứu của 
Friedrich-Rust M, đa số BN béo phì có BMI 
trung bình cao hơn nghiên cứu của chúng tôi và 
các BN béo phì được dùng đầu dò kích cỡ XL 
(chính xác hơn so với đầu dò kích cỡ M mà 
chúng tôi sử dụng). Hơn nữa, trong nghiên cứu 
của chúng tôi không có BN xơ gan (F4) và số BN 
F3 thấp hơn so với nghiên cứu của Friedrich-
Rust M. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Kỹ thuật ARFI đánh giá giai đoạn XHG có 
độ chính xác khá tốt, có độ chuyên và NPV cao 
trong chẩn đoán xơ hóa đáng kể, xơ hóa nặng. 
Kết quả đo của ARFI có mối tương quan với 
giai đoạn xơ hóa cao hơn so với của TE và có độ 
chính xác tốt hơn TE đối với xơ hóa đáng kể và 
xơ hóa nặng. ARFI là một phương pháp mới, 
đơn giản, không xâm lấn, chi phí thấp có thể 
thực hiện thường qui cho các BN bị 
NAFLD/NASH ở nước ta giúp loại trừ XHG 
đáng kể và XHG nặng. 
Chúng tôi mong muốn có một nghiên đa 
trung tâm trong nước có cỡ mẫu lớn hơn 
nhằm đánh giá chính xác hơn vai trò của kỹ 
thuật ARFI và TE trong đánh giá XHG ở BN 
bị NASH. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Amarapurkar DN, Hashimoto E, Lesmana LA, et al (2007). 
How common is non-alcoholic fatty liver disease in the Asia-
Pacific region and are there local differences? Journal of 
Gastroenterology and Hepatology.22:788-93 
2. Assy N, Kaita K, Mymin D, et al. (2000) Fatty infiltration of 
liver in hyperlipidemic patients. Dig Dis Sci. 45(10):1929-34 
3. Bacon BR, Farahvash MJ, Janney CG, Neuschwander- Tetri 
BA (1994)-. Nonalcoholic steatohepatitis: an expanded 
clinical entity. Gastroenterology.107(4):1103-9 
4. Bravo AA, Sheth SG, Chopra S. (2001) Liver biopsy. The New 
England journal of medicine. 344(7):495-500 
5. Chalasani, N, Younossi, Z, Lavine JE, Diehl AM, Brunt EM, 
Cusi K, et al.(2012) The diagnosis and management of non-
alcoholic fatty liver disease: practice Guideline by the 
American Association for the Study of Liver Diseases, 
American College of Gastroenterology, and the American 
Gastroenterological Association. Hepatology. 55(6):2005-23 
6. Falck-Ytter Y, Younossi ZM, Marchesini G, McCullough AJ 
(2001) Clinical features and natural history of nonalcoholic 
steatosis syndromes. Seminars in liver disease. 21(1):17-26 
7. Farrell GC, Wong VW, Chitturi S. (2013) NAFLD in Asia--as 
common and important as in the West. Nat Rev 
Gastroenterol Hepatol. 10(5):307-18 
8. Fierbinteanu Braticevici C, Sporea I, Panaitescu E, Tribus L 
(2013) Value of acoustic radiation force impulse imaging 
elastography for non-invasive evaluation of patients with 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 287
nonalcoholic fatty liver disease. Ultrasound in medicine & 
biology. 39(11):1942-50 
9. Foucher J, Chanteloup E, Vergniol J. (2006) Diagnosis of 
cirrhosis by transient elastography (FibroScan): a prospective 
study. Gut. 55(3):403-8 
10. Friedrich-Rust M, Nierhoff J, Lupsor M, et al.(2012) Acoustic 
Radiation Force Impulse-imaging for non-invasive 
assessment of liver fibrosis: a pooled meta-analysis. J Viral 
Hepat. 19:e212–9 
11. Friedrich-Rust M, Romen D, Vermehren J, et al (2012) 
Acoustic radiation force impulse-imaging and transient 
elastography for non-invasive assessment of liver fibrosis and 
steatosis in NAFLD. Eur J Radiol. 81(3):325-31 
12. Laurin J, Lindor KD, Crippin JS, et al.(1996) a pilot study: 
Ursodeoxycholic acid or clofibrate in the treatment of non-
alcohol-induced steatohepatitis. Hepatology. 23:1464 
13. Leite NC, Salles GF, Araujo AL, et al.(2009) Prevalence and 
associated factors of non-alcoholic fatty liver disease in 
patients with type-2 diabetes mellitus. Liver Int. 29(1):113-9 
14. Milić S, Stimac D (2012) Nonalcoholic fatty liver 
disease/steatohepatitis: epidemiology, pathogenesis, clinical 
presentation and treatment. Dig Dis. 30(2):158-62 
15. Ngô Thị Thanh Quýt, Nguyễn Phương, Lê Thành Lý, Bùi 
Hữu Hoàng (2010). Chẩn đoán mức độ xơ hóa gan bằng 
phương pháp đo độ đàn hồi gan trên bệnh nhân bệnh gan 
mạn. Y Học TP Hồ Chí Minh. ;14(phụ bản số 1, chuyên đề 
nội khoa):161-6 
16. Williams CD, Stengel J, Asike MI, et al(2011) Prevalence of 
nonalcoholic fatty liver disease and nonalcoholic 
steatohepatitis among a largely middle-aged population 
utilizing ultrasound and liver biopsy: a prospective study. 
Gastroenterology. 140:124 
17. Wong VW, Vergniol J, Wong GL, et al (2010)Diagnosis of 
fibrosis and cirrhosis using liver stiffness measurement in 
nonalcoholic fatty liver disease. Hepatology. 51:454–62 
18. Wong VW. (2013) Nonalcoholic fatty liver disease in Asia: a 
story of growth. J Gastroenterol Hepatol. 28(1):18-23 
19. Yoneda M, Suzuki K, Kato S, Fujita K, Nozaki Y, Hosono K, 
et al. (2010) Nonalcoholic fatty liver disease: US-based 
acoustic radiation force impulse elastography. 
Radiology.256(2):640-7 
20. Ziol M, Handra-Luca A. (2005) Noninvasive assessment of 
liver fibrosis by measurement of stiffness in patients with 
chronic hepatitis C. Hepatology. 48(54) 
Ngày nhận bài báo: 15/03/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/04/2016 
Ngày bài báo được đăng: 15/04/2016 

File đính kèm:

  • pdfso_sanh_ky_thuat_ghi_hinh_xung_luc_xa_am_voi_do_do_dan_hoi_t.pdf