Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ trong tư liệu bi ký
Tóm tắt: Bài viết này dựa trên các bi văn, bia, văn biahiện nay có
thể khảo sát được, để có thể làm rõ những nét biểu hiện của đời
sống Phật giáo thời Lê Sơ. Thông qua việc sử dụng phương pháp
phân tích văn bản học, các phương pháp của Sử học, Tôn giáo học,
phương pháp suy đoán sử học dưới sự chiếu rọi của lý thuyết thực
thể tôn giáo,bài viết khảo sát, phân tích sử liệu Phật giáo thời Lê
Sơ, từ đó góp phần tìm hiểu thông tin về Phật giáo và những biểu
hiện của đời sống Phật giáo qua tư liệu bi ký. Qua đó, bài viết góp
phần bổ sung tư liệu cho việc nghiên cứu Phật giáo thời Lê Sơ.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ trong tư liệu bi ký", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ trong tư liệu bi ký
34 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 PHẠM THỊ CHUYỀN∗ SỬ LIỆU PHẬT GIÁO THỜI LÊ SƠ TRONG TƯ LIỆU BI KÝ Tóm tắt: Bài viết này dựa trên các bi văn, bia, văn biahiện nay có thể khảo sát được, để có thể làm rõ những nét biểu hiện của đời sống Phật giáo thời Lê Sơ. Thông qua việc sử dụng phương pháp phân tích văn bản học, các phương pháp của Sử học, Tôn giáo học, phương pháp suy đoán sử học dưới sự chiếu rọi của lý thuyết thực thể tôn giáo,bài viết khảo sát, phân tích sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ, từ đó góp phần tìm hiểu thông tin về Phật giáo và những biểu hiện của đời sống Phật giáo qua tư liệu bi ký. Qua đó, bài viết góp phần bổ sung tư liệu cho việc nghiên cứu Phật giáo thời Lê Sơ. Từ khóa: Sử liệu, bi ký, Lê Sơ, Phật giáo, đời sống. 1. Dẫn nhập Nghiên cứu về đời sống Phật giáo thời Lê Sơ là một nhu cầu được đặt ra trong những năm gần đây, bởi vì Phật giáo thời kỳ này vẫn chưa được nghiên cứu nhiều. Muốn đáp ứng được nhu cầu này, trước hết cần tìm kiếm và khảo cứu tư liệu lịch sử. Đây là một nhiệm vụ khó khăn và khá phức tạp. Thông thường, thực thể Phật giáo tồn tại ở mỗi thời kỳ lịch sử sẽ được phản ánh trong nhiều nguồn tư liệu lịch sử hay còn gọi là sử liệu trong chính sử, bi ký, văn chương, khảo cổ học, v.v.. Sử liệu Phật giáo Lê Sơ không đơn giản chỉ là những tư liệu lịch sử phục vụ công việc thống kê, mà nó còn là đối tượng nghiên cứu quan trọng của khảo cổ học, sử học, triết học, văn hóa học, nghiên cứu tư tưởng và tôn giáo học khi nghiên cứu những vấn đề liên quan đến Phật giáo thời kỳ này. Chúng ta không chỉ khảo cứu nó, mà còn khai thác nội dung (thông tin) của nó và đánh giá giá trị của nó đối với những nghiên cứu mà mình quan tâm. Nhiều nhà nghiên cứu đi trước như Phan Huy Lê (1971), Nguyễn Đức Sự (1986), Trần Quốc Vượng (1986), v.v., trên cơ sở nguồn sử liệu thu ∗ ThS., Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.. Phạm Thị Chuyền. Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ... 35 thập được, đã có những nghiên cứu chỉ ra rằng, Phật giáo thời Lê Sơ suy thoái, bị hạn chế ở chốn cung đình, bị Khổng giáo lấn át, không có vị trí trong xã hội. Nhưng cũng có những nhà nghiên cứu khẳng định Phật giáo thời Lê Sơ không những không suy thoái mà còn lan tỏa trong dân gian như Nguyễn Tài Thư (1988). Sự trái chiều này dẫn tới một nhu cầu khảo sát một cách có hệ thống những nguồn sử liệu nói trên để có chứng cứ đầy đủ hơn nữa cho diện mạo Phật giáo thời Lê Sơ. Tiếp nối quá trình tìm kiếm sử liệu nhằm phác họa diện mạo Phật giáo thời Lê Sơ, bài viết hướng tới nguồn tư liệu bi ký. Bởi vì, bên cạnh nguồn tư liệu mang tính quan phương là chính sử và luật lệnh, thì tư liệu bi ký cũng là những trang sử đá có độ tin cậy cao. Khảo sát những công trình nghiên cứu có liên quan tới bi ký có chứa sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ, tôi thấy có một số công trình nghiên cứu tiếp cận văn bản học đã giới thiệu những bi ký được tạo dựng vào thời kỳ này, như nghiên cứu của Phạm Thị Thùy Vinh (1993) giới thiệu về một bi ký tạc trên lưng bệ tượng, Chu Quang Trứ (2001) giới thiệu về bệ tượng có khắc thông tin ở chùa Khám Lạng, Bắc Giang,... Tuy nhiên, nhu cầu về khảo cứu nguồn sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ trong bi ký một cách hệ thống và đầy đủ hơn nữa vẫn được đặt ra. Nếu như nhu cầu này được thỏa mãn, thì chúng ta sẽ có thêm những chứng cứ, những mảnh ghép góp thêm vào sự phác thảo diện mạo đời sống Phật giáo thời Lê Sơ. Bài viết này chỉ khảo sát trong phạm vi tư liệu bi ký thời Lê Sơ và thời Mạc. Những kết luận rút ra về sử liệu và đời sống Phật giáo thời Lê Sơ cũng được dựa trên cơ sở nguồn tư liệu bi ký, không dựa trên các nguồn tư liệu khác. Để có thể tiếp cận được đối tượng sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ cần sử dụng hai cách tiếp cận. Thứ nhất, nghiên cứu một đối tượng tồn tại ở thời Lê Sơ, một thời kỳ cách chúng ta gần 6 thế kỷ, vì thế cần sử dụng phương pháp tiếp cận phân tích sử học. Không còn cách nào khác là tìm kiếm những tài liệu bi ký có chứa những sử liệu đó, định bản và phê phán thông tin sử liệu. Đó chính là dấu vết còn lại của đời sống Phật giáo thời Lê Sơ. Từ những dấu vết đó mới có thể đi tới những bước nghiên cứu tiếp theo. Thứ hai, sử liệu về Phật giáo thời Lê Sơ là những sử liệu về tôn giáo, vì thế khi khai thác thông tin để phân tích nội dung của nó, cần phải tiếp cận phân tích tôn giáo học, để có thể hệ thống hóa nguồn sử liệu đó theo tiêu chí của một tôn giáo. Từ đó, một số vấn đề về Phật giáo thời Lê Sơ mới có thể lộ ra. 36 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 Bài viết đề cập tới những nội dung: khái quát về bi ký chứa sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ; những nội dung của nguồn sử liệu; giá trị của nguồn sử liệu này đối với việc nghiên cứu đời sống Phật giáo thời Lê Sơ. 2. Khái quát về bi ký Phật giáo Lê Sơ Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ là những sử liệu chứa đựng thông tin về thực thể Phật giáo, bao gồm ba nhóm sử liệu: sử liệu về niềm tin Phật giáo, sử liệu về thực hành Phật giáo và sử liệu về cộng đồng Phật giáo. Bi ký ở đây là những ghi chép (văn bản) được khắc lên chất liệu đá (thạch bi) ở các cơ sở thờ tự, hoặc ở những công trình công cộng được tạo dựng vào thời Lê Sơ hoặc thời Mạc, có thông tin liên quan tới đời sống Phật giáo thời Lê Sơ. Tiêu biểu cho nhóm công trình này là những nghiên cứu của Phạm Thị Thùy Vinh, Chu Quang Chứ, Đinh Khắc Thuân, Cụ thể như sau: Phạm Thị Thùy Vinh (1993) đã giới thiệu về văn bản 67 chữ Hán được biên soạn vào Thái Hòa 7 (1449), được khắc trên lưng pho tượng Phật Quan Thế Âm và bệ đặt tượng bằng đá tại chùa thôn Cung Kiệm, xã Nhân Hòa, huyện Quế Võ, Bắc Ninh. Tác giả mô tả rất chi tiết về văn bản cũng như hình thức của tượng. Đây có lẽ là tài liệu sớm nhất về giới thiệu văn bản trên lưng tượng Phật thời kỳ này. Nó cũng là tài liệu quan trọng đối với nghiên cứu về hoạt động tôn tạo tượng Phật và tín đồ Phật giáo thời Lê Sơ. Chu Quang Trứ (2001) đã giới thiệu về bàn thờ Phật và bệ tượng Phật có niên đại tuyệt đối thời Lê ở chùa Khám Lạng (nay thuộc Bắc Giang). Sau khi mô tả tỉ mỉ, chi tiết về niên đại, chiều dài, chiều rộng, chiều cao, vị trí, hình dáng và chất liệu của chúng, tác giả nhận xét rằng, qua những thông tin trên rõ ràng thời Lê Sơ Phật giáo vẫn phát triển, nó đi vào làng quê gắn với dân và người dân có điều kiện cúng vào chùa những vật không nhỏ. Đây là một nghiên cứu không những cung cấp sử liệu quan trọng về Phật giáo Lê Sơ, mà còn đưa ra một luận điểm rất có giá trị về Phật giáo trong đời sống dân gian. Hơn 10 năm sau, Đinh Khắc Thuân và Phạm Thị Thùy Vinh (2013) đã cho ra đời Tuyển tập bi ký Thanh Hóa, trong đó có bi ký thời Lê Sơ. Hai tác giả đã giới thiệu và dịch chú 4 bi ký có chứa sử liệu Phật giáo trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đây cũng là công trình đầu tiên giới thiệu về bi ký chứa sử liệu Phật giáo ở Thanh Hóa. Nó rất hữu ích cho nghiên cứu Phật giáo thời Lê Sơ và Phật giáo Thanh Hóa. Năm sau đó, Phạm Thị Thùy Vinh (2014) đã có một bài viết về bi ký Lê Sơ. Trong đó nhấn mạnh bia Phạm Thị Chuyền. Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ... 37 về Phật giáo chỉ chiếm số lượng nhỏ, đó là những bia đặt tại chùa. Tác giả cho rằng, thông qua những bi ký đó cho thấy, dù triều đinh Lê Sơ khi ấy có ngăn cấm Phật giáo thì trong dân gian vẫn có một dòng chảy âm thầm để nuôi dưỡng tâm Phật, dân chúng vẫn mộ đạo Phật và hướng về đạo Phật. Đây lại là một luận điểm quan trọng về Phật giáo trong đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, xét thấy tư liệu bi ký chứa sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ không chỉ có bi ký ở chùa Phật mà còn có bi ký ở những cơ sở có liên quan tới niềm tin, thực hành và cộng đồng Phật giáo. Số lượng bi ký vì thế sẽ không dừng lại ở con số 22 bi ký như Đinh Khắc Thuân đã khảo. Mặt khác, các tác giả trên mới khảo cứu những bi ký này trên cơ sở Hán Nôm học, chưa có nghiên cứu tiếp cận phân tích tôn giáo học. Vì thế, nhiệm vụ đặt ra là cần phải khảo sát rộng hơn nữa những bi ký có liên quan và phân tích sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ theo cách tiếp cận phân tích tôn giáo học để thấy được những biểu hiện của đời sống Phật giáo thời kỳ này. a) Thời gian tạo dựng bia Bài viết không dừng ở việc khảo sát những bi ký Phật giáo thời Lê Sơ có niên đại tạo dựng thuộc thời Lê Sơ (1428 - 1527) mà còn mở rộng khảo cứu bi ký ở thời kỳ sau đó. Thực tế cho thấy bi ký tạo dựng ở thời kỳ sau thường xuất hiện những ghi chép hồi cố về sự kiện xảy ra trong thời kỳ trước, đặc biệt là những bi ký được tạo dựng ngay sau thời kỳ trước. Kết quả thu thập được ít nhất hơn 40 bi ký có chứa sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ. Đây là con số bi ký đáng kể để có thể nghiên cứu sử liệu về Phật giáo thời Lê Sơ. Trong hơn 40 bi ký đó, có 31 bi ký thời Lê Sơ, 9 bi ký thời Mạc. Trong 31 bi ký thời Lê Sơ, có 1 bi ký đời vua Lê Thái Tông, 13 bi ký đời vua Lê Thánh Tông, 6 bi ký đời vua Lê Hiến Tông, 2 bi ký đời vua Lê Uy Mục, 6 bi ký đời vua Lê Tương Dực, 1 bi ký đời vua Lê Chiêu Tông và 2 bi ký đời vua Lê Cung Hoàng. Số lượng bi ký được tập trung tạo dựng nhiều vào nửa sau thời kỳ Lê Sơ. Bi ký sớm nhất hiện còn là Bảo Lai tự phụng Phật bệ (No. 17733), tạo năm Thiệu Bình 1 (1434) đời vua Lê Thái Tông, tại chùa Bảo Lai (thôn Đồng Duệ) xã Quảng Nạp, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bi ký muộn nhất trong đó là Trùng tu Hưng Phúc tự bi (No. 11883), tạo năm Sùng Khang 5 (1572), đời vua Mạc Mậu Hợp, tại chùa Hưng Phúc, xã Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). 38 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 b) Thể loại bi ký Vì cần thu thập những sử liệu có ba nhóm thông tin về “Phật giáo thời Lê Sơ” (niềm tin, thực hành, cộng đồng), nên tác giả không dừng lại ở các bi ký chùa, mà khảo sát cả những bi ký không phải bia chùa. Cụ thể, tác giả đã “thu lượm” được thông tin Phật giáo thời Lê Sơ như dưới đây. Bi ký chùa Phật được ưu tiên khảo cứu trước, chiếm số lượng nhiều nhất, có những thông tin về xây dựng mới, trùng tu, xây dựng thêm chùa và am Phật, tôn tạo và tô lại tượng Phật, những thông tin về người đóng góp/công đức và số tiền của họ, cùng những thông tin về việc cúng ruộng vào chùa, giỗ Hậu ở chùa, v.v.. Tuy nhiên, ở đây còn có thể thấy có nhiều bi ký có tính ngự đề hay ngự chế, tức là hoàng đế nhà Lê Sơ tới thăm chùa, động có chùa hoặc trên vách núi (ma nhai) và đề thơ ở đó. Vua Lê Thánh Tông đã từng đề thơ ở chùa Long Đọi xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam (No. 7968, năm 1467), ở núi Dục Thúy (Ninh Bình), ở chùa Quang Khánh xã Dưỡng Mông, huyện Kim Môn, tỉnh Hải Dương (No. 11765, năm 1486), ở chùa Dương Nham động Kính Chủ (No 12007). Vua Lê Hiến Tông đã từng “ngự chế” thơ ở ma nhai xã Nga Phú, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (No. 47304, năm 1501), trên vách đá núi Dục Thúy ở Ninh Bình (No. 257; 11913; 2814, năm 1501). Vua Lê Tương Dực cũng từng để lại thơ tại vách đá trên núi Dục Thúy ở Ninh Bình (năm 1511) và trong bi ký chùa Quang Khánh ở Hải Dương (No. 11788, năm 1515), ngoài ra còn đề thơ ở chùa Kim Âu thôn Kim Phát, xã Hà Đông, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (No. 47102, năm 1511). Đây là những tư liệu rất có giá trị để nghiên cứu về tâm tư, quan điểm cũng như ứng xử của các hoàng đế với Phật giáo thời Lê Sơ. Cùng với đó, xuất hiện một số bi ký về tự điền - ruộng thờ cung cấp thông tin về ruộng được cúng vào chùa làm ruộng Tam Bảo hoặc để giỗ Hậu. Bên cạnh đó, tác giả còn khảo cứu những bi ký ở lăng của hoàng tộc. Kết quả cho thấy, đã có 3 bi ký lăng có chứa thông tin về Phật giáo thời Lê Sơ. Bia Khôi Nguyên chí đức chi bi (No. 1919) ở lăng Quang Thục Hoàng Thái Hậu, trong đó đã cung cấp thông tin về đạo đức Phật giáo của bà. Bia Đại Việt Lam Sơn Chiêu Lăng bi (No. 1373) ở Chiêu Lăng (thờ Lê Thánh Tông) ở xã Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Trong đó nhắc tới mẹ Lê Thánh Tông là Quang Thục Hoàng Thái Hậu có những điềm mộng liên quan tới Phật giáo. Bia Đại Việt Lam Sơn Dụ lăng Phạm Thị Chuyền. Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ... 39 bi (No. 10556) trong lăng thờ vua Lê Hiến Tông ở Lam Sơn, Thanh Hóa cung cấp thông tin liên quan tới niềm tin Phật giáo của Quang Thụ Hoàng Thái Hậu. Đây là những bi ký có thể giúp ích cho việc nghiên cứu về niềm tin và thực hành Phật giáo của một số bà hậu, bà phi triều Lê Sơ. Ngoài ra, còn chú ý tới một số bi ký không thuộc bia chùa hay bia lăng nhưng lại có thể cung cấp những thông tin hữu ích về hoạt động hướng đích xã hội của người có niềm tin Phật giáo thời Lê Sơ. Đó là những bia bến đò và cầu. Bi ký Vạn Thọ (No. 2557, năm 1522) ở thôn Thuần Thọ, tổng Ngọc Xuyến, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa là bia đề cập tới vấn đề người sở hữu niềm tin Phật giáo thời Lê Sơ với vấn đề xây dựng cầu. Hoặc là bi ký Cù Sơn độ ký (No. 1737, năm 1525) ở đình xã Phượng Cách, tổng Hoàng Xá, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay là thị trấn Hoàng Xá, huyện Quốc Oai, Hà Nội là bi ký đề cập tới hoạt động bố thí của người theo Phật giáo. Nhìn chung, 40 bi ký này tuy có nhiều chữ bị mờ, khó đọc nhưng về cơ bản đều có thể đọc dịch nội dung tương đối đầy đủ. Sử liệu trong bi ký cung cấp thông tin về các hoạt động xây dựng, trùng tu chùa, am thờ Phật; tôn tạo tượng Phật, bệ thờ; cúng ruộng vào chùa; vua đề thơ; dân xây dựng cơ sở thờ tự, v.v.. Tuy nhiên, bài viết này ưu tiên tìm hiểu Phật giáo thời Lê Sơ từ chiều kích người sở hữu niềm tin Phật giáo. 3. Nội dung sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ trong tư liệu bi ký Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ trong bi ký có nhiều nội dung, nhưng nổi bật hơn cả là những nội dung về ứng xử của những cá nhân và cộng đồng người Đại Việt thời Lê Sơ với Phật giáo. Trong đó có ứng xử của một số vị hoàng đế, của một số bà hậu, bà phi, một số quan lại và cộng đồng dân chúngvới Phật giáo. Họ ứng xử với Phật giáo theo cách khác nhau, nhưng cùng có một điểm chung là có sự quan tâm và có niềm tin vào thực thể thiêng của Phật giáo. 3.1. Ứng xử của các hoàng đế thời Lê Sơ với Phật giáo * Lê Thánh Tông (1442 - 1497) Lê Thánh Tông (hiệu Thiên Nam Động Chủ) năm Quang Thuận 6 (1465) tới chùa Quang Khánh (Hải Dương, No. 11766). Sau cảm nhận sự đổ nát tới một nửa của ngôi chùa nổi tiếng xưa nay, Lê Thánh Tông và nhà sư đã trò chuyện: Tạm dịch: Nhà cửa chốn kê điền1 đã nửa phần đổ nát, 40 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 Nhà sư dắt ta lên thăm cảnh chùa. Trong biển đại giác2 Thầy dễ vượt qua, Nơi cửa không3 tôi khó đi lắm. Ngũ viên4 vằng vặc vốn không phải là sắc, Lục độ5 ngời ngời cũng thật có tình. Cuộc trò chuyện này không phải là cuộc trò chuyện đời thường, bởi trong đó vị khách và nhà sư đã nói tới cảnh giới giác ngộ và pháp tu. Đó là một cuộc trò chuyện về Phật pháp, về giáo lý của nhà Phật, và tới hai cái “nghiệp” - hai con đường phải đi của hai người. Và có thể thấy được sự “tỉnh ngộ” của “vị khách” vướng vào cái nghiệp “luẩn quẩn trong vòng phải trái” này. Nếu không quan tâm, không muốn tìm hiểu sâu hơn nữa về Phật thì chắc hẳn ông vua nổi tiếng bị coi là hạn chế Phật giáo này không thể có cuộc trò chuyện và sự tỉnh ngộ như vậy. Tới năm 1467, khi lên thăm núi Dục Thúy, Lê Thánh Tông với tinh thần khoan khoái, và rất hào hứng kh ... ông bao gồm có vị quản lão nhân từ xa cùng với vị sư trụ trì và các thiện nam tín nữ bản xã bỏ tiền ra tô tạo tượng Phật. Hoặc trong bia chùa Minh Khánh (No. 11417, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương) nói tới những người hưng công là thái ông, lão bà, lương nam, tín nữ đã đóng góp sửa chữa cho ngôi chùa bị hư hỏng bởi chiến tranh trở nên đẹp đẽ. Bia chùa Hưng Phúc (No. 11883, xã Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) ghi chép về những người hưng công trùng tu ngôi chùa này năm Diên Ninh (1457). Bia chùa ở xã Khôi Khê, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình (No. 6272) nói tới nhóm các “cụ ông cụ bà xã Khôi Khê, tổng Lan Khê, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên cùng nhau góp tiền của đắp một pho tượng Phật Quan Âm và khắc một tấm bia. Tháng 11 năm Bính Dần (1506) hưng công, đến tháng 5 năm Đinh Mão (1507) thì hoàn thành. Cuối bia có bài minh 24 câu và danh sách khoảng 60 vị đóng góp”. Tương tự, có thể thấy một cộng đồng người hưng công là những đại sĩ trong xã “Người trước xướng lên kẻ sau hưởng ứng ngày một nhiều” xây dựng tòa Phật và tô tượng Phật ở chùa Huệ Vân (No. 11813). Có thể thấy nhiều người khác cũng gửi ruộng để được cúng giỗ tại chùa Diên Khánh cùng vợ chồng ông họ Dương và bà họ Nguyễn không có con kia (No. 4486), v.v.. Trong bi ký, chỉ thấy dân chúng thời Lê Sơ thực hiện những hoạt động Phật giáo mà không thấy họ bày tỏ quan điểm hay bàn luận về Phật giáo. Họ chỉ thực hiện những hoạt động Phật giáo của mình với niềm tin tưởng đó là việc đúng đắn, là việc nên làm. Trải qua chiến tranh, qua một thời kỳ xây dựng triều đại mới, khôi phục kinh tế đất nước, những không gian sinh hoạt Phật giáo bị mất đi. Do đó, càng về nửa cuối thời Lê Sơ, nhu cầu về cơ sở thờ tự Phật giáo càng trở nên cấp thiết. Các cụ ông cụ bà, thiện nam tín nữ ở nhiều địa phương, các vị hưng công hội chủ dấy lên những hoạt động trùng tu, xây dựng lại chùa, am, tô và tôn tạo tượng Phật. Những hoạt động này được 58 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 thực hiện nhằm đáp ứng chính nhu cầu sinh hoạt Phật giáo, nhu cầu thể hiện sự tôn kính với thực thể thiêng, nhu cầu thể hiện niềm tin với Phật. Vì thế ở các địa phương vào cuối thời Lê Sơ nhiều cơ sở thờ tự của Phật giáo đã được khôi phục. Bên cạnh đó, sử liệu còn được thấy những hoạt động hướng đích xã hội của cộng đồng sở hữu niềm tin Phật giáo. Chính niềm tin này khiến họ không tiếc tiền của hưng công xây dựng những công trình công cộng, vừa là vì lợi ích chung của cộng đồng, vừa là nguyên cớ của cái “thiện duyên” trong giáo lý Phật giáo. Những hoạt động này vừa nhằm vào cộng đồng, vừa là phương tiện thể hiện luân lý, đạo đức Phật giáo. Đây chính là cái mà Tiến sĩ Nguyễn Giản cho rằng Phật giáo khiến con người bỏ tham, sân, si và “nghiêng về điều thiện” như đã nói ở trên. Những hoạt động thuần túy Phật giáo và hướng đích xã hội cho thấy thực tế dân chúng thời kỳ này không những còn tiếp tục theo Phật giáo mà còn có sự thấm đậm hơn nữa tinh thần Phật giáo, mang một niềm tin của Phật giáo sâu sắc. Khổng giáo dù với thành tựu là tạo dựng một chế độ khoa cử hoàn bị với hàng nghìn sĩ tử mỗi khoa thi mà phần lớn sĩ tử đó lớn lên từ gia đình những dân chúng, nhưng không thể làm mai một niềm tin Phật giáo ở những gia đình ấy. 5. Kết luận Hiện nay, có thể thấy sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ qua hơn 40 bi ký có niên đại tạo dựng từ năm 1434 đến năm 1572. Trong số đó, ngoài bi ký chùa Phật chiếm đại đa số, còn có bi ký ở lăng thờ người trong hoàng tộc nhà Lê Sơ, bi ký đặt ở đình, cầu và bến đò và trên vách đá. Đó là nguồn tư liệu quan trọng không chỉ để nghiên cứu Phật giáo thời Lê Sơ mà còn là nguồn tư liệu có giá trị để nghiên cứu đời sống tôn giáo thời Lê Sơ và lịch sử Phật giáo Việt Nam. Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ trong bi ký biểu thị những thông tin khá phong phú về Phật giáo thời Lê Sơ, phản ánh khá rõ nét những tâm tư, nguyện vọng, thái độ, quan điểm, niềm tin Phật giáo của một bộ phận người trong tầng lớp quý tộc, Nho sĩ và một số nhóm, cộng đồng trong dân chúng cùng với những hoạt động Phật giáo của họ. Đối với nghiên cứu Phật giáo thời Lê Sơ, nguồn sử liệu trong bi ký đã góp phần làm rõ hơn về những vấn đề cơ bản như: Phật giáo trong đời sống của cá nhân như trường hợp Quang Thục Hoàng Thái Hậu, Hoàng đế Lê Thánh Tông, Hoàng đế Lê Hiến Tông, Hoàng đế Lê Tương Dực; Phạm Thị Chuyền. Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ... 59 Phật giáo trong đời sống tâm linh của gia đình từ hoàng gia, quan lại tới dân chúng; Phật giáo trong đời sống tâm linh của nhóm, cộng đồng trong dân chúng thời Lê Sơ. Có thể nói, thời Lê Sơ, Phật giáo không trực tiếp tham gia vào chính trị như ở thời kỳ Lý - Trần, mà lui về vị trí của một tôn giáo lớn, thực hiện chức năng đối với đời sống xã hội. Nhưng Phật giáo vẫn có vị trí đặc biệt trong tâm tư, tình cảm của một bộ phận những hoàng đế thời Lê Sơ, có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của một số người trong hậu cung, trở thành ra một tôn giáo có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nhiều vị quan lại, và là một tôn giáo có những yếu tố tích cực trong quan điểm của một số Nho sĩ. Phật giáo thời Lê Sơ không hẳn có tính “dân gian hóa” (Trần Quốc Vượng, 1986), cũng không phải bị thất sủng, bị hạn chế nơi cung đình và bị mất vị trí xã hội (Nguyễn Tài Thư, 1988). Ngay trong đời sống của những con người trong cung đình, Phật giáo vẫn có một vị trí đặc biệt quan trọng, thậm chí Phật giáo còn được chính hoàng đế của thời này khẳng định là đã âm thầm trợ giúp cho nhà nước giữ nền thái bình. Ở các địa phương, Phật giáo vẫn là một dòng chảy liên tục được tạo thành từ niềm tin Phật giáo sâu sắc của dân chúng, chưa hề bị gián đoạn theo thời gian. Càng về cuối thời kỳ Lê Sơ, sự hưng công của người sở hữu niềm tin Phật giáo càng trở nên mạnh mẽ, các hoạt động Phật giáo diễn ra nhiều hơn, sôi nổi hơn. Phải chăng đây chính là lý do để chúng ta có thể nhận định, Phật giáo thời Lê Sơ, đặc biệt là nửa cuối thời kỳ này đã tạo nền tảng cho sự phát triển hơn nữa của Phật giáo thời Mạc và Lê Trung Hưng. Như vậy, nguồn sử liệu trong bi ký đã cho thấy những tri thức về Phật giáo thời Lê Sơ thực sự khác biệt với những tri thức có được từ sử liệu trong chính sử. Chúng tạo nên những mảnh ghép rất có giá trị trong bức tranh diện mạo đời sống Phật giáo thời Lê Sơ./. CHÚ THÍCH: 1 Kê điền: chỉ ngôi chùa này. 2 Đại giác: chỉ cảnh giới giác ngộ cao nhất của đạo Phật. 3 Vô/không: không trong sắc không. 4 Ngũ viên: là ngũ lực viên thông, tức là năm sức mạnh của người tu Phật. 5 Lục độ: sáu pháp môn tu hành của Bồ tát: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. 6 Xem thêm: Viện Sử học dịch (2013), Quốc triều hình luật, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội: 139-140. 60 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 TÀI LIỆUTHAMKHẢO 1. Đào Duy Anh (2006), Lịch sử Việt Nam: Từ nguồn gốc đến cuối XIX, Quyển thượng, in lần thứ 2, sửa chữa và bổ sung, Nxb.Văn hóa, Hà Nội. 2. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tái bản và bổ sung, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 3. Đàm Văn Chí (1992), Lịch sử văn hóa Việt Nam sinh hoạt trí thức kỷ nguyên 1427 - 1802, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 4. Doãn Chính (2013), Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đến đầu thế kỷ XX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Doãn Chính (chủ biên) (2011), Tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Chu Quang Chứ (2001), “Bàn thờ Phật và tượng phật bằng đá có niên đại tuyệt đối thời Lê ở chùa Khám Lạng” trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2001, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. Bùi Thanh Chương (2005), “Mối quan hệ tam giáo trong thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông”, Triết học, số 6. 8. Lê Tâm Đắc và Nguyễn Đại Đồng (2013), Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX - Nhân vật và sự kiện, Nxb.Chính trị Quốc gia, Sự thật, Hà Nội. 9. Bồ Đề Tân Thanh Nguyễn Đại Đồng (2012), Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến 1981, Nxb. Văn học, Hà Nội. 10. G. Condominas (2003), “Tôn giáo Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2. 11. Trần Văn Giáp (1970), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm: Nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam, tập 1, Nxb. Thư viện Quốc gia, Hà Nội. 12. Mai Xuân Hải (2001), “Thêm một vị trạng nguyên Phật học hiếm thấy trong lịch sử khoa cử Việt Nam: Lê Ích Mộc”, Nghiên cứu Phật học, số 3. 13. Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2012), Lịch sử Việt Nam, tập 2, Từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 14. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã Hội, Hà Nội. 15. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb. Tôn giáo và Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 16. Nguyễn Duy Hinh, Lê Đức Hạnh (2012), Về hội nhập văn hóa trong lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội. 17. Hồ Thị Hồng (1993), “Về thi và bổ dụng thời Lê Sơ”, Nghiên cứu Giáo dục, số 2. 18. Nguyễn Quốc Hùng, Lê Đình Phụng (1984), “Suy nghĩ thêm về niên đại ba pho tượng đá chùa Ngọc Khám (Hà Bắc)”, Khảo cổ học, số 3. 19. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. 20. Nguyễn Hải Kế (2013), Nước Đại Việt thời Lê Sơ - Một vài đặc điểm căn bản của nền tảng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, 21. ca-nn-tng-chinh-tr-kinh-t-vn-hoa-xa-hi-pgstskh-nguyn-hi-k.html cập nhật ngày 14/10/2015. 22. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb.Văn học, Hà Nội. 23. Phan Huy Lê (1971), Lịch sử Việt Nam, Nxb. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. 24. Tạ Ngọc Liễn và tập thể tác giả (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3 (Thế kỷ XV - XVI), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Thị Chuyền. Sử liệu Phật giáo thời Lê Sơ... 61 25. Phan Ngọc Liên (chủ biên, 2003), Phương pháp luận sử học, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội. 26. Trần Đình Luyện, Trần Văn Lạng (1992), “Bàn thêm về khối tượng A di đà ở chùa Phật tích (Tiên Sơn - Hà Bắc)”, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1991 (Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, ký hiệu Vl. 628), Viện Khảo cổ học, Hà Nội. 27. Trần Nghĩa, Gros Francois (chủ biên) (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam: Thư mục đề yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 28. Nguyễn Văn Phong (1997), “Chùa Hồ Thiên, di tích lịch sử bị lãng quên gần hai thế kỷ”, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1997, Viện Khảo cổ học, Hà Nội. 29. Trần Mạnh Quang (2011), “Ứng xử của chính quyền phong kiến Việt Nam thế kỷ XV đối với các tôn giáo qua tìm hiểu Đại Việt sử ký toàn thư”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 9. 30. Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (2003), Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến 1858, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội. 31. Dương Minh Sáu (1996), “Tấm bia thời Lê Sơ ở chùa Nga My (Hà Nội)”, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1995, Viện Khảo cổ học, Hà Nội. 32. Nguyễn Đức Sự (1986), “Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam” in trong Mấy vấn đề Phật giáo với lịch sử tư tưởng Việt Nam, Ủy ban Khoa học xã hội, Viện Triết học, Hà Nội. 33. Hà Văn Tấn (1986), “Về ba yếu tố của Phật giáo Việt Nam: Thiền, Tịnh, Mật” trong Mấy vấn đề Phật giáo với lịch sử tư tưởng Việt Nam, Ủy ban Khoa học xã hội, Viện Triết học, Hà Nội. 34. Hà Văn Tấn (2000), Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. 35. Ngô Hữu Tạo (dịch, 2007), Lịch triều hiến chương loại chí / Phan Huy Chú, ..., tập 1, 2, 3, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 36. Nguyễn Hồng Thao và Trần Phương, (1994), “Lê Ích Mộc -Vị trạng nguyên đầu tiên ở thành phố cảnh Hải Phòng” trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1993, Viện Khảo cổ học, Hà Nội. 37. Đào Thị Ái Thi (2000), “Tìm hiểu bộ máy hành chính triều đình thời Lê Sơ”, Quản lý hành chính, số 2. 38. Ngô Đức Thọ (1991), “Chữ húy thời Lê Sơ”, Nghiên cứu Hán Nôm, số 2. 39. Ngô Đức Thọ (1995), Nghiên cứu chữ Húy trên các văn bản Hán Nôm, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Ngữ văn, mã số 5.04.32, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội. 40. Ngô Đức Thọ, Trịnh Khắc Mạnh (2006), Cơ sở văn bản học Hán Nôm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 41. Ngô Đức Thọ (chủ biên) (1983), Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 42. Ngô Đức Thọ dịch và chú thích, Phan Huy Lê khảo cứu (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, 2, 3, 4, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 43. Nguyễn Tài Thư (1986), “Phật giáo và thế giới quan của người Đại Việt trong lịch sử” trong Mấy vấn đề Phật giáo với lịch sử tư tưởng Việt Nam, Ủy ban Khoa học xã hội, Viện Triết học, Hà Nội. 44. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 45. Đinh Khắc Thuân (2010), Bi ký thời Mạc, Nxb. Hải Phòng. 46. Đinh Khắc Thuân (2015), “Khoa cử thời Lê Sơ và bài văn sách đình đối về Phật giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 1. 62 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 47. Đinh Khắc Thuân, Phạm Thùy Vinh (2013), Tuyển tập bi ký Thanh Hóa, Tập 2: Bi ký thời Lê Sơ, Nxb. Thanh Hóa. 48. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam: Tập 6 và 7: Nguyễn Trãi với khủng hoảng ý thức hệ Lê - Nguyễn (1380 - 1442), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. 49. Nguyễn Hữu Tri, Võ Văn Tuyển (1998), Những vấn đề cơ bản về văn bản học, Nxb. Thống kê, Hà Nội. 50. Thiên Chí Từ (2014), Bối cảnh và đặt điểm của phục hưng Phật giáo ở Việt Nam thế kỷ 17, 18/17,18 世 纪 越 南 佛 教 复 兴 的 背 景 及 特 点 cập nhật ngày 20/5/2014. 51. Nguyễn Quốc Tuấn (1999), “Về mối quan hệ giữa văn hóa dân tộc và tôn giáo ngoại sinh”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 1. 52. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), “Triển khai Lý thuyết thực thể tôn giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 10. 53. Đặng Nghiêm Vạn (2003), “Bàn về tín đồ và tổ chức tín đồ của một tôn giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2. 54. Phạm Thị Thùy Vinh (1993), “Văn bản chữ Hán khắc trên lưng pho tượng Phật thế kỷ XV vừa mới phát hiện tại Hà Bắc”, Nghiên cứu Hán Nôm, số 3. 55. Phạm Thị Thùy Vinh (1994), “Tìm thấy tượng đá thời Lê Sơ” trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1993, Viện Khảo cổ học, Hà Nội. 56. Trần Quốc Vượng (1986), “Mấy ý kiến về Phật giáo và văn hóa dân tộc” trong Mấy vấn đề Phật giáo với lịch sử tư tưởng Việt Nam, Ủy ban Khoa học xã hội, Viện Triết học, Hà Nội. Abstract HISTORICAL MATERIALS OF BUDDHISM DURING THE LATER LÊ DYNASTY EARLY PERIOD THROUGH INSCRIPTION This study examined Buddhism in the Later Lê dynasty early period through inscription in order to clarify the Buddhist life at this period. Using the method of text analysis, history, the author have examined the Buddhist historical inscription during the Later Lê dynasty early period. Besides, the author also applies the methods of religious science and the theory of religious entities to examine information about Buddhism and Buddhist life through inscription documents. Thus, the author could noticethe interested manifestations of the Buddhist life through inscription data and it has added materials to official history in terms of the Buddhist life of individuals, families and communities during the Later Lê dynasty early period. The official history is an official document, in contrast, the inscription data an unofficial document with localized and personalized characteristics. Keywords: Historical material, inscription, Buddhism, Le So, life.
File đính kèm:
- su_lieu_phat_giao_thoi_le_so_trong_tu_lieu_bi_ky.pdf