Không gian văn hóa cồng chiêng Gia Lai trong quá trình đô thị hóa

TÓM TẮT

Ngoài giá trị vật chất, với chức năng là một vật thiêng - công cụ giao tiếp giữa con người và thần linh, cồng

chiêng tồn tại trong một không gian văn hóa cụ thể. Không gian văn hóa ấy bao hàm nhiều thành tố, trong đó có môi trường văn hóa, môi trường tín ngưỡng, không gian sinh tồn, môi trường dân trí và lòng tự tôn dân tộc. Đây là điểm cần được đặc biệt chú trọng khi tiến hành các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Gia Lai nói riêng và Tây Nguyên nói chung.

pdf 6 trang yennguyen 5360
Bạn đang xem tài liệu "Không gian văn hóa cồng chiêng Gia Lai trong quá trình đô thị hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Không gian văn hóa cồng chiêng Gia Lai trong quá trình đô thị hóa

Không gian văn hóa cồng chiêng Gia Lai trong quá trình đô thị hóa
60
Nguyucthn Th Kim VŽn: Kh“ng gian vn hoŸ...
Đối với cư dân Tây Nguyên nói chung, GiaLai nói riêng, cồng chiêng không tồn tạinhư một nhạc cụ giải trí đơn thuần. Trong
bài viết này, chúng tôi không xem xét cồng
chiêng dưới góc độ một nhạc khí mà nhìn nhận
nó dưới góc độ văn hóa, với chức năng là một
“linh khí” với môi trường cần và đủ để “linh khí”
đó tồn tại cùng những chuyển biến của nó trong
quá trình đô thị hóa. 
1. Cồng chiêng trong đời sống của các tộc
người thiểu số ở Gia Lai 
1.1. Giá trị tinh thần1
Trên thực tế, cồng chiêng không chỉ có trong
văn hóa của cư dân bản địa Tây Nguyên, ở miền
Trung Việt Nam mà còn phổ biến ở nhiều vùng
trong cả nước, như Việt Bắc, Tây Bắc và cả trong
một số cộng đồng người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ,
Trung Bộ..., cùng nhiều quốc gia trong khu vực,
như Thái Lan, Lào, Mi-an-ma, Phi-lip-pin, In-
donexia... nhưng cho đến đầu thế kỷ XXI, thì không
phải ở đâu cồng chiêng cũng có vị trí quan trọng
trong đời sống tinh thần của con người như với cư
dân bản địa Tây Nguyên nói chung, người Bahnar
và Jrai nói riêng. Sự phổ biến của cồng chiêng
trong tất cả các tộc người ở Tây Nguyên cho thấy,
cồng chiêng là một phần không thể thiếu trong
cuộc sống của đồng bào. Cồng chiêng có mặt
trong hầu hết các nghi lễ của cá nhân, của từng gia
đình, cộng đồng và cả trong những lễ hội suốt một
mùa trồng tỉa của cư dân nông nghiệp. Ở vùng
Ayun Pa, Yang Pơtao Apui (thường được dịch là vua
Lửa) đã tồn tại hơn nửa thiên niên kỷ với khả năng
KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG GIA LAI 
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
NGUYN TH KIM VÂN*
TÓM TẮT
Ngoài giá trị vật chất, với chức năng là một vật thiêng - công cụ giao tiếp giữa con người và thần linh, cồng
chiêng tồn tại trong một không gian văn hóa cụ thể. Không gian văn hóa ấy bao hàm nhiều thành tố, trong đó
có môi trường văn hóa, môi trường tín ngưỡng, không gian sinh tồn, môi trường dân trí và lòng tự tôn dân tộc.
Đây là điểm cần được đặc biệt chú trọng khi tiến hành các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản Không
gian văn hóa cồng chiêng Gia Lai nói riêng và Tây Nguyên nói chung.
Từ khóa: cồng chiêng; Gia Lai; Tây Nguyên; Không gian văn hóa cồng chiêng Gia Lai; Không gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
ABSTRACT
Besides material value, as a sacred object to communicate between human and gods, gong exists in a cer-
tain cultural space. This cultural space includes many elements such as cultural, belief environment, livelihood
space, intellectual level, and ethnic pride. They should be paid attention to when we implement the safeguard-
ing and promotion the activities of the space of gong culture in the Central Highland generally and Gia Lai
province particularly.
Key words: Gong; Gia Lai province; Central Highland; the space of gong culture in Gia Lai province;
the space of gong culture in Central Highland.
* Giám đc Bo tàng Gia Lai
có thể "gọi mưa, trừ hạn" trong niềm tin của một
bộ phận người Jrai, Bahnar, Ê Đê cũng sử dụng
cồng chiêng như một phương tiện để giao tiếp với
thần linh, đặc biệt là lễ cầu mưa.
Đối với các tộc người thiểu số ở Gia Lai, cồng
chiêng trong lễ/lễ hội có vai trò gần như là khói
nhang trong lễ/lễ hội của người Việt. Âm thanh
cồng chiêng lan tỏa chính là phương tiện giúp con
người giao tiếp với thần linh, đồng thời là phương
tiện nhanh nhất để chuyển tải thông tin giữa các
buôn làng. Chỉ cần nghe tiếng chiêng, những
người trong làng, trong vùng sẽ hiểu rằng, nơi có
tiếng chiêng đang diễn ra điều gì để chuẩn bị đến
chia buồn hoặc chung vui. 
Đối với người Jrai, khi nghe bài Trong hor
(Chơkar trong hor) được đánh bằng chiêng Aráp,
với âm điệu buồn, mọi người đều biết nơi có tiếng
chiêng vừa có người từ giã cõi đời; nghe bài Chok
kơ mơnuih djai được đánh bằng chiêng Aráp, có
âm điệu buồn là biết người chết chuẩn bị được
đưa từ nhà sàn xuống đất để khiêng ra khu nhà
mồ; bài Chok kơ arăng được đánh bằng chiêng
Aráp là bài tiễn đưa người chết, nghe bài này
đồng bào biết người chết đang trên đường được
đưa đến khu nhà mồ, lần thứ 2 đánh bài chiêng
này cho biết việc chôn cất đã xong; bài Anong
thuach với âm tiết vui tươi, đánh bằng chiêng
Aráp chỉ có trong lễ bỏ mả; bài Lâo tui dra jú chỉ
đánh khi bỏ mả, với âm điệu vui, thay lời mời gọi
thanh niên, người già đến mừng người chết được
về đoàn tụ với ông bà ở "làng Atâu"; còn bài Kơ
dja được đánh bằng chiêng Tơnăh thì cho biết,
phía có tiếng chiêng đang có lễ hội vui...
Để một bộ cồng chiêng trở thành “linh khí” phải
trải qua nhiều công đoạn: khi thợ đúc đồng người
Việt làm ra những chiếc cồng chiêng thì mới hình
thành được "phần xác" của cồng chiêng, mới tạo
ra những "lá đồng" đơn thuần có hình dáng cồng
chiêng - có thể coi đây chỉ là bước làm xong ngôi
nhà cho thần chiêng trú ngụ. Việc mang lại "phần
hồn" cho cồng chiêng thì phải do chính các tộc
người sử dụng cồng chiêng thực hiện. Sau khi mua
cồng chiêng của người Việt về, những thợ chỉnh
chiêng chuyên nghiệp của từng tộc người sẽ gò
chỉnh lại để từng chiếc cồng chiêng có được âm
thanh theo yêu cầu thang âm trong biên chế của
mỗi bộ chiêng. Công việc chỉnh sửa cồng chiêng
(đồng bào quen gọi là "lên dây chiêng", “ủ chiêng”)
nhằm mang lại những âm thanh “chuẩn” cho các
bộ chiêng hiện rất ít người làm được. Người Tây
Nguyên tin rằng, chỉ có những người được "Yàng
(thần) cho âm thanh" của cồng chiêng mới làm
được nghề này và thường là “cha truyền con nối”.
Mỗi khi bắt tay vào gò chỉnh một bộ cồng chiêng,
người thợ thường thực hiện một nghi lễ cúng Yang
và mong Yang cho họ những âm thanh cần thiết. 
Hoàn thành việc đem lại thang âm "chuẩn" cho
bộ chiêng, chủ nhân của nó phải thực hiện một lễ
hiến sinh để gọi hồn chiêng vào trong những lá
chiêng. Từ đây, cồng chiêng mới trở thành một
“linh khí” thật sự. Đồng bào tin rằng, vật hiến sinh
càng lớn (bò, trâu) thì thần chiêng càng linh thiêng,
khả năng giao tiếp với thế giới thần linh càng cao.
Tuy nhiên, đồng bào cũng tin rằng, không phải ai
có cồng chiêng cũng được thần linh phù hộ như
nhau mà còn tùy thuộc vào việc thần chiêng có
hợp với gia chủ hay không; hồn của gia chủ có đủ
mạnh để chế ngự, thậm chí điều khiển được thần
chiêng hay không. Đó cũng là lý do có gia đình
phải bán đi những bộ chiêng rất quý với giá rẻ. 
Thông thường, mỗi bộ cồng chiêng của người
Tây Nguyên có 2 phần: phần tiết tấu gồm những
chiếc cồng (có núm); phần giai điệu gồm những
chiếc chiêng (không có núm). Ngoài ra, biên chế
đủ để thể hiện âm nhạc cồng chiêng còn có lục lạc,
chũm chọe, đôi khi có thêm cả trống. Một số tộc
người ở Tây Nguyên còn biên chế các loại cồng
chiêng thành những bộ có tên gọi riêng để phục
vụ cho những công việc, những lễ hội cụ thể.
Người Jrai ở khu vực Ayun Pa, Krông Pa (Gia Lai)
thường sử dụng mỗi loại chiêng vào những nghi lễ
có cùng tính chất (sẽ trình bày ở phần sau).
Với chức năng một “linh khí”, cồng chiêng cần
có môi trường văn hóa để tồn tại. Môi trường văn
hóa ấy bao gồm cả môi trường tín ngưỡng; không
gian sinh tồn; môi trường dân trí... và lòng tự tôn
dân tộc. Chỉ có niềm tin mới làm cho người ta thật
sự trân trọng những phương tiện giúp chuyển tải ý
nguyện của con người đến thần linh. Mặt khác,
việc giao tiếp với thần linh cũng cần có một không
gian phù hợp. Đồng bào không thể cúng Yang và
đánh chiêng giữa dòng xe cộ tấp nập, ồn ào; lễ bỏ
mả sẽ kém phần linh thiêng nếu nghĩa địa của làng
không đủ thanh tịnh, thâm u; cư dân trong vùng
ảnh hưởng của Pơtao Apui đã không còn làm lễ
cầu mưa vì một năm người Jrai ở Ayun Pa có thể
làm 3 vụ lúa do có nước tưới từ công trình thủy lợi
Ayun Hạ... Và, đồng bào Tây Nguyên cũng không
S 2 (51) - 2015 - Di sn vn h‚a phi vt th
61
62
Nguyucthn Th Kim VŽn: Kh“ng gian vn hoŸ...
thể hết lòng với cồng chiêng nói riêng, di sản văn
hóa cổ truyền của dân tộc nói chung nếu lòng tự
hào dân tộc không được tiếp tục khơi nguồn... 
1.2. Giá trị vật chất 
Khi nhắc đến những tài sản quý của cư dân bản
địa Tây Nguyên, trong đó có đồng bào Bahnar và
Jrai ở tỉnh Gia Lai, người ta không thể không kể đến
cồng chiêng như một niềm tự hào của gia chủ. Đó
là niềm tự hào của những người được coi là giàu
có trong một xã hội mà đồng tiền chưa phải là thứ
có sức mạnh tối thượng.
Có lẽ, từ giá trị tinh thần của cồng chiêng cùng
với sự khan hiếm của nó do cư dân bản địa Tây
Nguyên chưa có kỹ thuật đúc/gò đồng ở trình độ
cao mà từ xa xưa, người Tây Nguyên đã coi cồng
chiêng là một trong những tài sản có giá trị vật
chất to lớn. Số lượng cồng chiêng cùng với giá trị
của từng loại cồng chiêng chính là một trong
những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự giàu có
và quyền lực của chủ nhân trong hầu hết các tộc
người Tây Nguyên. Những ghi chép của người
Pháp ngay từ những ngày đầu họ có mặt ở miền
Trung Việt Nam và Tây Nguyên đã chứng tỏ điều
này. H. Maitre viết: “các sản vật trao đổi chính là
những chiếc cồng nổi tiếng của Trung Quốc và Bắc
kỳ. Cồng Trung Quốc to phẳng - tiếng Radê (Ê đê -
NTKV) gọi là knah - giá khoảng 25 đồng piastre
một chiếc2. Cồng Bắc kỳ phình ở giữa, bán thành
từng bộ 3 chiếc: một to, một nhỡ, một nhỏ. Giá của
một bộ cồng này ngang với một chiếc cồng Trung
Quốc lớn. Cồng Bắc kỳ được đúc tại Hà Nội và Nam
Định. Những người trưng thuế An Nam mang cồng
đổi lấy ngà voi, ngựa và đôi khi cả voi. Một chiếc
Knah có thể đổi được 1 kg kỳ nam, hoặc một sừng
tê giác, hoặc từ 10 tới 14 kg ngà voi, hoặc 1 con
ngựa tốt hoặc 2 con ngựa thường”3. Cũng tư liệu
từ nguồn này cho biết: Tại Bình Định, An Sơn4 là
một trung tâm buôn bán lớn. Đây là điểm cuối
cùng hàng hóa từ cao nguyên đổ về. “Nhưng luật
An Nam trừng trị nghiêm khắc những người An
Nam ở lại trên đất của người Thượng và những ai đi
quá An Sơn để vào Trung kỳ. Sự thực là những
người An Nam đã thiết lập được một sự giao
thương đáng kể với người Thượng nhưng không
một ai dám nghĩ tới việc ở hẳn lại. Về phần mình,
những người Thượng cũng xuống tới tận An Sơn
để mua bán nhưng không bao giờ vượt quá điểm
giới hạn đó”. “Năm 1840, các quan An Nam trao
cho thủ lĩnh Bahnar có ảnh hưởng tên là Kiêm một
bản sắc phong, theo đó, nhà vua của triều đình
Huế công nhận ông ta là thủ lĩnh của những người
Thượng và thay mặt mình ở vùng Thượng. Vị thủ
lĩnh đáng sợ và trung thành với người An Nam này
đã tiến hành những cuộc trao đổi, buôn bán quan
trọng với người An Nam và làm cho đường vào
Hinterland trở nên dễ dàng”5. 
Chúng ta cũng có thể tham khảo để so sánh
tương quan về giá giữa cồng chiêng với những tài
sản quý giá khác ở khu vực Bắc Tây Nguyên để thấy
rõ hơn giá trị của cồng chiêng ở thời điểm những
năm 30 của thế kỷ XX qua ghi chép của các quan lại
người Việt6: Để có được một bộ cồng chiêng theo
yêu cầu sử dụng thông thường của người Tây
Nguyên, với 11 chiếc, loại một thước tám, đồng
bào phải mua với giá 55 đồng, tương đương với 7
con trâu loại trung bình (sừng 1 gang), 11 con trâu
loại nhỏ (sừng mới mọc), trong khi đó, giá một
chiếc vòng đồng loại 1 sải, thương lái cũng chỉ bán
được cho người Thượng với giá 0,40 đồng; giá một
chuỗi hạt cườm to (chuỗi 50 hạt), thương lái cũng
chỉ bán được 0,50 đồng; giá một chuỗi hạt cườm
nhỏ (chuỗi vừa lọt đầu) đồng bào cũng chỉ mua với
giá 0,02 đồng.
Như vậy, cho đến cuối thập niên 30 của thế kỷ
XX, cồng chiêng vẫn là loại hàng hóa có giá trị nhất
trong những mặt hàng mà thương lái người Kinh
bán cho đồng bào các tộc người thiểu số Tây
Nguyên. Chính vì giá trị và giá cả của nó nên chắc
chắn không phải bất kỳ gia đình Jrai, Bahnar nào
cũng mua được cồng chiêng, mà chỉ những người
giàu có mới có thể mua được loại tài sản này.Và,
như thế, việc có nhiều cồng chiêng, nhất là những
bộ cồng chiêng đắt tiền còn chứng tỏ cả quyền lực
của các chủ nhân.
Hiện nay, người Tây Nguyên sử dụng phổ biến
các loại cồng chiêng có nguồn gốc khác nhau:
chiêng Lào, chiêng Yoăn (của người Kinh làm),
chiêng Kur đưa từ Campuchia sang. Từ sau ngày
giải phóng, cồng chiêng của người Mường vùng
Thanh Hóa cũng là một loại được người Bahnar và
Jrai ưa thích. Theo nghệ nhân chỉnh sửa cồng
chiêng Nay Phai (ở huyện Krông Pa), ngoài những
loại cồng chiêng trên, còn có một loại cồng
chiêng quý của người Jrai mà ông gọi là chiêng
“Nga” và giải thích là nó có nguồn gốc từ nước
Nga. Chúng tôi đang đặt câu hỏi, phải chăng, đây
là những chiếc cồng chiêng có nguồn gốc từ
Trung Quốc mà H. Maitre đã nhắc. Trong số những
loại cồng chiêng trên, loại đến nay vẫn có giá trị
cao nhất trong trao đổi, mua bán là chiêng Lào
với các tên như Pát, Pơxơi Trên thực tế, rất hiếm
gặp một bộ cồng chiêng mà tất cả các chiếc trong
bộ đó là chiêng Lào.
Ngày nay, cùng với việc hàng hóa ngày càng
phong phú, việc giao thương nội hạt và giao
thương với bên ngoài ngày càng dễ dàng, việc đưa
cồng chiêng vào Tây Nguyên không còn quá khó
khăn, việc sử dụng tiền các loại ngày càng phổ
biến nên cồng chiêng không còn được dùng trong
trao đổi như những vật ngang giá, cùng với đó,
điều kiện kinh tế - xã hội trong khu vực đồng bào
Bahnar, Jrai đã có nhiều thay đổi, nhất là thay đổi
trong cơ cấu cây trồng, làm cho vai trò của cồng
chiêng trong đời sống của cư dân Bahnar, Jrai ngày
càng suy giảm. Giá trị tinh thần, vật chất của cồng
chiêng không còn được như xưa. Tuy nhiên, đối với
lớp người cao niên thì cồng chiêng vẫn là những
vật linh thiêng, là nguồn tài sản không thể thay
thế, có lẽ, đó cũng là lý do cho đến tận hôm nay,
vẫn còn có nhiều gia đình Bahnar, Jrai lưu giữ trong
nhà trên 5 bộ cồng chiêng.
2. Không gian văn hóa cồng chiêng - những
thăng trầm trong quá trình đô thị hóa 
2.1. Nguy cơ mai một của không gian văn hóa
cồng chiêng trước thời điểm di sản văn hóa phi vật
thể này được UNESCO ghi danh
Những người quan tâm đến văn hóa cồng
chiêng, âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên đều dễ
dàng nhận thấy nguy cơ mai một qua sự suy giảm
nhanh chóng về số lượng cồng chiêng ở các tỉnh
Tây Nguyên. Ở thời điểm năm 1980, tỉnh Gia Lai -
Kon Tum có hàng chục ngàn bộ cồng chiêng, con
số cồng chiêng của mỗi làng đến hàng chục bộ,
không ít gia đình giàu có cất giữ trong nhà trên
dưới 10 bộ cồng chiêng. Nhưng, đến năm 2004, số
lượng cồng chiêng của tỉnh Gia Lai chỉ còn 5.117
bộ; tỉnh Lâm Đồng cũng chỉ còn 3.113 bộ. Ở Đak
Lăk, trong vòng 10 năm, từ 1982 - 1992 mất đi
5.325 bộ cồng chiêng và 10 năm tiếp đó, từ năm
1993 - 2003, tỉnh này tiếp tục bị mất 850 bộ7. Trong
những thập niên ấy, "chảy máu cồng chiêng" trở
thành cụm từ phổ biến nhất khi người ta bàn về
cồng chiêng Tây Nguyên.
Sự suy giảm về số lượng cồng chiêng cũng
đồng nghĩa với những sinh hoạt cộng đồng, gia
đình gắn với cồng chiêng dần thưa vắng. Hay nói
một cách chính xác hơn, những nghi lễ truyền
thống của gia đình, cộng đồng vắng dần làm cho
người ta không còn cần đến cồng chiêng - “linh
khí” quan trọng trong những cuộc "giao tiếp" giữa
con người với các thần linh. Trên các buôn làng cao
nguyên, mùa lễ hội tháng ba dường như cũng
"nhạt" đi khi cây cao su, cà phê ngày càng lấn át
không gian của Yang Hri - Thần lúa; những chiếc
giếng khoan thay dần những giọt nước tưởng sẽ
trường tồn với các buôn làng 
Cồng chiêng mất đi, những bài chiêng cổ cũng
"theo" người già sang "thế giới ông - bà", thang âm
của những dàn chiêng cổ cứ thế đi dần vào quên
lãng. Từ một vài bộ cồng chiêng được chỉnh sửa để
có thang âm của âm nhạc phương Tây, treo lên
thành giàn, cho một người biểu diễn như những
nhạc cụ gõ thông thường, phong trào cải tiến cồng
chiêng lan dần khắp các cao nguyên của người Jrai,
Bahnar, Xơ Đăng, Ê Đê, Mơ Nông trong suốt thập
niên 90 của thế kỷ XX. Đây cũng là khoảng thời
gian cồng chiêng chỉ còn là tiếc nuối của những
người già. Có lần ghé thăm một gia đình người Jrai
ở buôn Ama Djơng, thị xã Ayun Pa, thấy trong nhà
chỉ còn duy nhất một chiếc Sa lớn trong bộ chiêng
Kơđơ - một loại cồng chiêng vốn rất quý của tộc
người này, tôi hỏi cụ bà chủ nhà về những chiếc
còn lại, cụ buồn rầu trả lời: "con mình bán hết rồi,
mình phải giữ lại một chiếc để khi chết đi thì úp
vào ngực". Đối với đám thanh niên, khi nói chuyện
đánh cồng chiêng, họ nghiễm nhiên coi đó là việc
của những người già, của lớp người "lạc hậu".
2.2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
hồi sinh nhưng có nhiều chuyển biến cả về hình thức
và nội dung
Trong cuộc trò chuyện với giáo sư William
Logan (Bill) - người thường cộng tác với văn
phòng UNESCO Việt Nam - khi ông vừa từ Úc
sang để lấy tư liệu viết cuốn sách “Việt Nam: Di
sản của một quốc gia” (Vietnam: Heritage of a Na-
tion) và ghé Pleiku vào ngày 6/10/2010, khi nói
về thực trạng của Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên, tôi cho ông biết, di sản văn
hóa này "đang hồi sinh". Nay đi đến buôn làng
nào ở Gia Lai, nếu yêu cầu được xem trình diễn
cồng chiêng, ông cũng sẽ được đáp ứng; cồng
chiêng hiện không chỉ thân thuộc với người già,
mà nhiều thanh, thiếu niên Jrai, Bahnar cũng rất
hứng thú với di sản văn hóa này; trong những
năm qua, số lượng cồng chiêng ở Gia Lai đã tăng
từ con số 5.117 bộ năm 2004 lên 5.655 bộ vào đợt
S 2 (51) - 2015 - Di sn vn h‚a phi vt th
63
64
Nguyucthn Th Kim VŽn: Kh“ng gian vn hoŸ...
kiểm kê năm 2008. Ở một xã của huyện La Grai
đã có hơn 500 bộ cồng chiêng, có gia đình ở xã
La O (huyện này) đang lưu giữ 9 bộ chiêng quý
Ông có vẻ ngạc nhiên và quan tâm đến những
nguyên nhân, giải pháp làm nên điều kỳ diệu ấy
trong câu chuyện của tôi: 
Một là: việc Không gian văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên được UNSECO công nhận là di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, làm cho các
chủ nhân của di sản thêm tự hào về giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc mình nói chung, văn hóa
cồng chiêng nói riêng và ngày càng trân trọng,
quan tâm bồi đắp, làm giàu thêm cho di sản. 
Từ khi người Pháp có mặt ở Tây Nguyên, các tộc
người trên vùng đất này thường bị coi là lạc hậu.
Dưới thời Ngô Đình Diệm, cùng với chính sách
"đồng hóa" người Thượng do chính quyền trung
ương đặt ra, các địa phương còn đặt thêm những
quy định riêng: Tỉnh trưởng Đăk Lăk bắt buộc
những người Ê Đê muốn vào thành phố Buôn Ma
Thuột phải mặc quần dài và áo sơ-mi; ở Pleiku,
người Jrai không được làm nhà sàn mà phải làm
nhà trệt như người Việt8; những năm đầu giải
phóng, đã có lúc, có nơi cuộc vận động đồng bào
"xóa khố" được triển khai. Những việc làm trên,
cùng những điều mắt thấy, tai nghe, đã làm cho
đồng bào các tộc người Tây Nguyên bị ám ảnh
rằng, phong tục, tập quán nói riêng, văn hóa cổ
truyền nói chung của tộc người mình là lạc hậu. Tư
tưởng này làm cho giới trẻ chỉ quan tâm đến việc
học theo, bắt chước những gì mà họ cho là thuộc
về một xã hội văn minh. 
Sau khi Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên được UNESCO công nhận, các phương tiện
thông tin đại chúng đã dành nhiều thời lượng tuyên
truyền cho di sản, giới thiệu những cái hay, cái đẹp,
cái độc đáo trong di sản văn hóa thế giới này, làm
cho người Tây Nguyên, đặc biệt là lớp trẻ biết yêu
và ngày càng trân trọng vốn văn hóa truyền thống
tốt đẹp của tộc người mình. Từ đây, số người trẻ
tham gia vào các đội cồng chiêng ngày càng nhiều.
Ngày nay, hình ảnh những đội cồng chiêng thiếu
nhi, hay những bé trai từ 7 - 10 tuổi say sưa trình
diễn trong các chương trình cồng chiêng không còn
hiếm. Văn hóa cồng chiêng đã thật sự kết nối được
các thế hệ, các cộng đồng dân cư, các dân tộc và là
tiếng nói chung của nhiều quốc gia 
Hai là: việc các địa phương quan tâm tạo điều
kiện, hỗ trợ cho đồng bào tổ chức các lễ hội có sử
dụng cồng chiêng đã làm cho không gian văn hóa
cồng chiêng được phục hồi nhanh tại cộng đồng. 
Sau nhiều năm, do ranh giới giữa văn hóa
truyền thống và mê tín dị đoan chưa được phân
định rõ ràng, nhiều lễ hội cổ truyền chưa được
quan tâm đúng mức. Những năm gần đây, chính
quyền các cấp đã động viên các cộng đồng tổ
chức lễ hội truyền thống tại các buôn làng. Nhiều
địa phương, chính quyền còn hỗ trợ một phần
kinh phí cho đồng bào khôi phục những lễ hội cổ
truyền có sử dụng cồng chiêng: ở Đăk Lăk, một số
huyện đã hỗ trợ một phần kinh phí cho chủ các
bến nước một số buôn Ê Đê mua sắm đầy đủ lễ vật
làm lễ cúng bến nước; ở Gia Lai, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đã phối hợp với Vụ Văn hóa dân
tộc nghiên cứu, phục dựng thành công lễ hội
Sơmah Kơ Cham (lễ đón năm mới) của người Bah-
nar ở làng Tơnung 1, xã Ya Ma, huyện Kông Chro.
Đây là làng nằm trong vùng căn cứ cách mạng của
tỉnh những năm kháng chiến chống Mỹ, điều kiện
kinh tế hiện vẫn rất khó khăn. Hằng năm, bà con
đều tổ chức Sơmăh kơ Cham, nhưng không thể
tiến hành một lễ hội với đầy đủ lễ vật như mong
muốn. Vì vậy, việc nghiên cứu, phục dựng lễ hội
Sơmăh kơ Cham không chỉ giúp các nhà nghiên
cứu nắm bắt được toàn bộ quy trình của lễ hội,
thực hiện được bộ phim tài liệu có giá trị về một
sinh hoạt văn hóa dân gian của người Bahnar, mà
còn đem lại cho đồng bào một không khí lễ hội
tưng bừng, làm cho người dân đặc biệt phấn khởi,
háo hức đón nhận và tham gia vào lễ hội. Năm
2009, sau khi Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Gia
Lai phục dựng thành công nghi lễ cầu mưa của
Yang Pơtao Apui (thần vua Lửa) thì nghi lễ này
cũng được nhiều làng ở các huyện thuộc thung
lũng Ayun Pa khôi phục. 
Ba là: việc tổ chức các cuộc giao lưu, gặp gỡ,
liên hoan và đưa các đoàn cồng chiêng Tây
Nguyên tham gia các chương trình giao lưu văn
hóa ở nước ngoài đã tạo cơ hội cho đồng bào được
giới thiệu cái hay, cái đẹp của dân tộc mình với các
cộng đồng dân cư khác, đồng thời cũng hiểu thêm
về văn hóa cồng chiêng của các dân tộc, quốc gia
khác để làm giàu thêm vốn văn hóa của dân tộc
mình. Đây cũng là một nhu cầu, một yếu tố kích
thích để không gian văn hóa cồng chiêng nhanh
chóng phục hồi.
Ngày 28/3/2006, tức 4 tháng sau khi di sản
được UNESCO ghi danh, tại sân vận động thành
phố Pleiku, cuộc hội ngộ đầu tiên của 11 tộc
người là chủ nhân của Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên đã diễn ra tưng bừng, hứng
khởi trong lễ đón nhận bằng công nhận của UN-
ESCO do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng 5
tỉnh Tây Nguyên tổ chức. Một năm sau đó, năm
2007, tại công viên Diên Hồng thành phố Pleiku,
Viện Văn hóa - Nghệ thuật cùng các tỉnh Tây
Nguyên đã tổ chức thành công "Gặp gỡ các nghệ
nhân chỉnh chiêng". Đây là cuộc "kiểm kê" bước
đầu về lực lượng quan trọng nhất trong các nghệ
nhân của loại hình văn hóa cồng chiêng. Cuộc
"gặp gỡ" này đã giúp các nhà quản lý nắm được
số lượng, kỹ năng của những nghệ nhân cồng
chiêng tài giỏi nhất, nhằm hoạch định một
chương trình hành động quan trọng và thiết thực
trong các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị
của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Đến Festival Cồng chiêng Quốc tế năm 2009 tại
Gia Lai, sự hiện diện của hơn 60 đoàn cồng chiêng
(thuộc 22 tộc người có cồng chiêng trong nước, 5
quốc gia có cồng chiêng trong khu vực) với nhiều
hoạt động trình diễn thật sự là một cuộc biểu
dương lực lượng văn hóa cồng chiêng, âm nhạc
cồng chiêng chưa từng có, đáp ứng nhu cầu được
giao lưu, được giới thiệu cái hay, cái đẹp trong văn
hóa cồng chiêng của tộc người mình với những
tộc người khác. Ở các địa phương, những cuộc
liên hoan cồng chiêng từ cấp xã, đến huyện, tỉnh
cũng được tổ chức thường xuyên, khuyến khích
đồng bào tham gia ngày càng tích cực vào các
sinh hoạt văn hóa gắn với cồng chiêng.
Các đơn vị thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
cũng quan tâm đến việc tổ chức cho các đoàn cồng
chiêng của các tộc người Tây Nguyên tham gia vào
các chương trình hoạt động văn hóa - nghệ thuật
của các quốc gia trên thế giới. Một số đoàn cồng
chiêng của các tộc người Tây Nguyên đã được tham
gia vào các hoạt động trình diễn tại Mỹ, Italia, Hàn
Quốc và để lại ấn tượng tốt đẹp trong cộng đồng
quốc tế, góp phần làm nên thành công của kênh
ngoại giao văn hóa những năm qua. 
Ngoài ra, nhiều hoạt động trong khuôn khổ
các chương trình nhằm bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa cồng chiêng cũng đã được tổ chức tại các
tỉnh, như trang bị cồng chiêng cho các cộng đồng
không còn cồng chiêng; đưa cồng chiêng vào
truyền dạy trong các trường dân tộc nội trú; mở
lớp truyền dạy chỉnh chiêng để nhân rộng lực
lượng này, tạo điều kiện cho cồng chiêng được
hồi sinh. 
Như vậy, với chức năng là một “linh khí”, cồng
chiêng cần có môi trường văn hóa để tồn tại. Môi
trường văn hóa ấy bao gồm cả môi trường tín
ngưỡng; môi trường thiên nhiên; môi trường
dân trí... và lòng tự tôn dân tộc. Chỉ có niềm tin
mới làm cho cộng đồng thật sự trân trọng “linh
khí” - phương tiện chuyển tải ý nguyện của con
người đến thần linh Cùng với quá trình đô thị
hóa, điều kiện kinh tế và trình độ dân trí trong
vùng đồng bào các tộc thiểu số ngày càng được
nâng lên, việc duy trì môi trường văn hóa truyền
thống cho cồng chiêng ở Tây Nguyên nói chung,
Gia Lai nói riêng cần được xác định là một trong
những nhân tố quan trọng trong công tác bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể
đặc sắc này./. 
N.T.K.V
Chú thích:
1- Nguyễn Thị Kim Vân, Đến với lịch sử văn hóa Bắc Tây
Nguyên, Nxb. Đà Nẵng, 2007.
2- H. Maitre chú thích: “đồng piastre lúc đó có giá trị cao.
Lúc đó người ta chỉ dùng đồng piastre Mễ Tây Cơ
(Mexico/Mehico - NTKV chú thích) có giá trị bằng 4,5 frăng”. 
3- H. Maitre (1912), Les jungles des hauts - plateaux du Viet-
nam central, Paris. Bản dịch, tr. 227 - 228.
4- Nay là An Khê (Gia Lai).
5- H. Maitre (1912), Les jungles des hauts - plateaux du Viet-
nam central, Paris. Bản dịch, tr. 236.
6- Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi (1937), Mọi Kon
Tum, Huế, tr.16 .
7- Viện Văn hóa - Thông tin, Kiệt tác truyền khẩu và phi vật
thể của nhân loại Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên,
Nxb. Thế giới, H, 2006, tr. 52. 
8- Lê Đình Chi (1974), Vấn đề đồng bào Sơn cước tại Việt
Nam cộng hòa, Luận án Tiến sĩ Luật khoa, Trường Đại học Luật
khoa Sài Gòn, tr. 168 - 171.
Tài liệu tham khảo:
1- Lê Đình Chi (1974), Vấn đề đồng bào Sơn cước tại Việt
Nam cộng hòa, Luận án Tiến sĩ Luật khoa, Trường Đại học Luật
khoa Sài Gòn.
2- Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi (1937), Mọi Kon
Tum, Huế. 
3- H. Maitre (1912), Les jungles des hauts - plateaux du Vietnam
central, Paris. Bản dịch: Rừng người Thượng, Nxb. Tri thức, 2008.
4- Nguyễn Thị Kim Vân, Đến với lịch sử văn hóa Bắc Tây
Nguyên, Nxb. Đà Nẵng, 2007.
5- Viện Văn hóa - Thông tin, Kiệt tác truyền khẩu và phi vật
thể của nhân loại Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên,
Nxb. Thế giới, H, 2006.
(Ngày nhận bài: 19/3/2015; Ngày phản biện đánh giá:
21/4/2015; Ngày duyệt đăng bài: 29/4/2015).
S 2 (51) - 2015 - Di sn vn h‚a phi vt th
65

File đính kèm:

  • pdfkhong_gian_van_hoa_cong_chieng_gia_lai_trong_qua_trinh_do_th.pdf