Sức khỏe và hệ thống y tế ở Đông Nam Á: Sự đa dạng và dịch chuyển
Đông Nam Á là khu vực vô cùng đa dạng về xã
hội, kinh tế và chính trị tại mỗi quốc gia cũng như
trên toàn khu vực. Sự đa dạng này được định hình
bởi lịch sử, vị trí địa lý và vai trò là đầu mối giao
dịch thương mại, trung chuyển hàng hóa và dịch vụ.
Những yếu tố này không chỉ góp phần phân hóa tình
trạng sức khỏe của những người dân trong khu vực,
mà còn tạo nên sự đa dạng cho các hệ thống y tế của
các quốc gia trong khu vực. Sự phát triển kinh tế
nhanh chóng nhưng không đồng đều, đi kèm với tỷ
lệ dịch chuyển dân số và dịch tễ học khác nhau đã
làm gia tăng chênh lệch tình trạng sức khỏe và tạo
ra những thách thức y tế công cộng to lớn đối với hệ
thống y tế của các quốc gia, nhất là đối với việc
kiểm soát những bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện
và sự gia tăng của các bệnh không truyền nhiễm ở
người cao tuổi. Khi trong khu vực những hình thái
chăm sóc y tế mới đang được hình thành như tự chủ
hóa hệ thống y tế công (chính phủ sở hữu nhưng vận
hành theo các nguyên tắc tự chủ và có sự tham gia
của lĩnh vực y tế tư nhân) và các cơ chế tài chính
nhằm đạt được độ bao phủ toàn dân, vẫn có những
bài học cơ bản về cải cách và phân quyền hóa hệ
thống y tế. Những thách thức mới nổi lên cùng với
sự gia tăng thương mại trong các dịch vụ y tế, sự di
cư của nhân lực y tế, và y tế du lịch. Nằm giữa hai
nền kinh tế lớn mới trỗi dậy là Trung Quốc và Ấn
Độ, các quốc gia trong khu vực đang nỗ lực để tạo
ra một bản sắc chung cho khu vực, bất chấp sự đa
dạng của các quốc gia, nhằm tìm ra những giải pháp
phù hợp và hiệu quả cho những thách thức y tế trong
khu vực. Trong số đầu tiên của loạt sáu bài về sức
khỏe ở Đông Nam Á, chúng tôi xin giới thiệu đến
độc giả một bức tranh tổng quan về những thay đổi
dân số và dịch tễ học chính trong khu vực, những
thách thức mà các hệ thống y tế đang phải đương
đầu, và thu hút mối quan tâm của độc giả tới khả
năng hợp tác khu vực trong lĩnh vực y tế.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sức khỏe và hệ thống y tế ở Đông Nam Á: Sự đa dạng và dịch chuyển
4 Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2011, Số 18+19 (18+19) | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Đông Nam Á là khu vực vô cùng đa dạng về xã hội, kinh tế và chính trị tại mỗi quốc gia cũng như trên toàn khu vực. Sự đa dạng này được định hình bởi lịch sử, vị trí địa lý và vai trò là đầu mối giao dịch thương mại, trung chuyển hàng hóa và dịch vụ. Những yếu tố này không chỉ góp phần phân hóa tình trạng sức khỏe của những người dân trong khu vực, mà còn tạo nên sự đa dạng cho các hệ thống y tế của các quốc gia trong khu vực. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng nhưng không đồng đều, đi kèm với tỷ lệ dịch chuyển dân số và dịch tễ học khác nhau đã làm gia tăng chênh lệch tình trạng sức khỏe và tạo ra những thách thức y tế công cộng to lớn đối với hệ thống y tế của các quốc gia, nhất là đối với việc kiểm soát những bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện và sự gia tăng của các bệnh không truyền nhiễm ở người cao tuổi. Khi trong khu vực những hình thái chăm sóc y tế mới đang được hình thành như tự chủ hóa hệ thống y tế công (chính phủ sở hữu nhưng vận hành theo các nguyên tắc tự chủ và có sự tham gia của lĩnh vực y tế tư nhân) và các cơ chế tài chính nhằm đạt được độ bao phủ toàn dân, vẫn có những bài học cơ bản về cải cách và phân quyền hóa hệ thống y tế. Những thách thức mới nổi lên cùng với sự gia tăng thương mại trong các dịch vụ y tế, sự di cư của nhân lực y tế, và y tế du lịch. Nằm giữa hai nền kinh tế lớn mới trỗi dậy là Trung Quốc và Ấn Độ, các quốc gia trong khu vực đang nỗ lực để tạo ra một bản sắc chung cho khu vực, bất chấp sự đa dạng của các quốc gia, nhằm tìm ra những giải pháp phù hợp và hiệu quả cho những thách thức y tế trong khu vực. Trong số đầu tiên của loạt sáu bài về sức khỏe ở Đông Nam Á, chúng tôi xin giới thiệu đến độc giả một bức tranh tổng quan về những thay đổi dân số và dịch tễ học chính trong khu vực, những thách thức mà các hệ thống y tế đang phải đương đầu, và thu hút mối quan tâm của độc giả tới khả năng hợp tác khu vực trong lĩnh vực y tế. Sức khỏe và hệ thống y tế ở Đông Nam Á SỰ ĐA DẠNG VÀ DỊCH CHUYỂN Virasakdi Chongsuvivatwong, Kai Hong Phua, Mui Teng Yap, Nicola S Pocock, Jamal H Hashim, Rethy Chhem, Siswanto Agus Wilopo, Alan D Lopez Người dịch: Đỗ Mai Hoa và Phạm Thùy Linh | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2011, Số 18+19 (18+19) 5 Giới thiệu Đông Nam Á bao gồm mười quốc gia độc lập nằm dọc rìa lục địa châu Á và các quần đảo ngoài khơi - Brunei, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Indonesia, Việt Nam, Lào, Campuchia, và Myanmar (Burma) (Hình 1) - được biết đến với tên gọi chung là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Khu vực có hơn nửa tỷ người, phân bố ở các quốc gia đa dạng, từ những quốc gia có nền kinh tế mạnh như Singapore tới các nền kinh tế nghèo hơn như Lào, Campuchia, và Myanmar (xem bảng) [1-7]. Thông điệp chính • Sự đa dạng địa lý, lịch sử cũng như văn hóa, kinh tế, xã hội đã góp phần tạo nên sự phân hóa cao trong tình hình sức khỏe và hệ thống y tế trong mỗi quốc gia cũng như trên toàn khu vực Đông Nam Á. • Sự chuyển dịch dân số đang diễn ra với tốc độ nhanh nhất so với các khu vực khác trên thế giới, dưới dạng giảm tỷ suất sinh, già hóa dân số và chuyển dịch từ nông thôn lên thành thị. Sự chuyển dịch dịch tễ học cũng đang diễn ra, gánh nặng bệnh tật chuyển từ các bệnh truyền nhiễm sang các bệnh mạn tính. • Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, chuyển dịch dân số và mật độ dân số cao đang làm dấy lên những quan ngại về những bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện, đồng thời những vụ dịch bùng phát cũng thúc đẩy hợp tác trong khu vực để chia sẻ thông tin và tiến bộ trong hệ thống giám sát dịch bệnh. • Đặc điểm địa chất khác thường đã khiến khu vực Đông Nam Á trở thành khu vực có nhiều thiên tai nhất trên thế giới, nhạy cảm hơn với các thảm họa tự nhiên và nhân tạo ảnh hưởng tới sức khỏe như động đất, bão lụt và ô nhiễm môi trường. Biến đổi khí hậu cùng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng có thể tăng tốc độ lây lan của các bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện. • Các hệ thống y tế trong khu vực kết hợp giữa công và tư, về cơ chế cung cấp và tài chính, với những hình thái tổ chức mới như bệnh viện công tự chủ, và cải tiến cung cấp dịch vụ nhằm cạnh tranh với thị trường y tế tư nhân và sự phát triển y tế du lịch. • Các hệ thống y tế trong khu vực rất đa dạng, từ cơ chế tài chính dựa trên nguồn thuế đến bảo hiểm xã hội và chi trả trực tiếp. Đã có nỗ lực lớn hơn nhằm tăng độ bao phủ cho toàn quần thể nhưng vẫn cần nhiều nỗ lực hơn để đảm bảo người nghèo có thể tiếp cận dịch vụ y tế. • Chi tiêu y tế tư đang tăng lên so với chi tiêu của chính phủ, với nhiều hình thái tài chính mới như phí sử dụng, cải thiện mục tiêu bao cấp, và thu hồi chi phí. Tài chính y tế có thể được tái cấu trúc mạnh hơn nhằm đáp ứng với sự chuyển dịch tỷ lệ phụ thuộc trong dân số tương lai, ví dụ như áp dụng tiết kiệm y tế và bảo hiểm xã hội trong chăm sóc lâu dài. · Hình thức công-tư kết hợp có tiềm năng cùng với sự tăng trưởng kinh tế thông qua hội nhập ASEAN và hợp tác y tế khu vực, mặc dù hiện tại vẫn được chia trong hai khu vực khác nhau thuộc Tổ chức Y tế Thế giới. Khi so sánh với Ấn Độ và Trung Quốc, Đông Nam Á ít nổi bật hơn trong nền kinh tế và chính trị cũng như trong nền y học toàn cầu. Chiến lược tìm kiếm và tiêu chí chọn lựa Chúng tôi sử dụng số liệu định lượng và định tính từ các tài liệu hàn lâm và tài liệu chưa được đăng tải chính thống để xem xét thực trạng sức khỏe ở Đông Nam Á. Chúng tôi sử dụng các thuật ngữ tìm kiếm là "sức khỏe/y tế", "thống kê y tế", "các hệ thống y tế", "phát triển kinh tế - xã hội", và "Đông Nam Á". Số liệu được thu thập sau khi các chuyên gia khu vực kêu gọi thu thập thông tin về một số chủ đề liên quan tới y tế (địa lý, lịch sử, dân số, dịch tễ và hệ thống y tế). Số liệu được thu thập từ tháng 6 năm 2009 đến tháng 6 năm 2010. Số liệu định lượng được hồi cứu từ cơ sở dữ liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), Ngân hàng Thế giới và Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc (LHQ), cũng như từ các tài liệu khoa học khác. Thông tin định tính được thu thập từ tài liệu chưa được đăng tải chính thống (như các báo cáo của TCYTTG) cũng như các tài liệu hàn lâm, bao gồm cả các bài báo đã được phản biện và các chương từ những cuốn sách đã xuất bản. Số liệu được thẩm định chặt chẽ và phân tích để tìm ra xu hướng, dự đoán và các mối liên quan giữa tình trạng kinh tế xã hội với những đo lường về sức khỏe quần thể. 6 Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2011, Số 18+19 (18+19) | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Bài báo đầu tiên trong loạt sáu bài về sức khỏe ở Đông Nam Á này phân tích những dịch chuyển dân số và dịch tễ học của khu vực nhằm chỉ ra những thách thức mà các hệ thống y tế phải đương đầu và nhấn mạnh tiềm năng hợp tác khu vực trên lĩnh vực y tế. Bài tổng quan này đưa ra bối cảnh để chúng ta có thể bàn luận kỹ hơn về những vấn đề y tế cụ thể sẽ được trình bày trong 5 báo cáo tiếp theo trong số này về sức khỏe bà mẹ và trẻ em[8] các bệnh truyền nhiễm[9], các bệnh không truyền nhiễm[10], những thách thức với nguồn nhân lực y tế[11] và cải cách tài chính y tế[12]. Sự chuyển dịch dân số và sức khỏe Đô thị hóa Đông Nam Á có khoảng 600 triệu dân, chiếm 9% dân số thế giới, với Indonesia có dân số đông nhất (xếp thứ tư trên thế giới) và Brunei có ít dân nhất (xem bảng). Gần một nửa dân số khu vực (43%) sống ở thành thị, ít hơn trung bình của thế giới, nhưng dao động lớn giữa các quốc gia, từ 15% ở Campuchia đến 100% ở Singapore. Mật độ dân số trung bình của khu vực là 133người/km², song lại có sự khác biệt thực sự giữa các quốc gia và trong một số quốc gia cá biệt. Mật độ dân số thay đổi từ mức thấp với 27người/km² ở Lào tới cao với 7.022người/km² ở Singapore[16]. Mật độ dân số ở hai thành phố lớn của Đông Nam Á, là Jakarta và Manila, còn cao hơn nhiều, ở mức hơn 10.000người/km²[17]. Mặc dù có tổng số dân tương đương nhau (vào khoảng 14 triệu), nhưng diện tích trải dài hơn của Manila và Jakarta giúp hai thành phố này có mật độ dân số ít dày đặc hơn Mumbai và Delhi (đứng thứ 15 và 17 trên thế giới so với thứ 1 và thứ 13). Thành phố lớn tiếp theo ở Đông Nam Á, Bangkok, đứng thứ 39. Mặc dù đô thị hóa được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng trong khu vực, dân cư khu ổ chuột còn thiếu thốn hơn ở bất cứ nơi nào khác, với khoảng ¼ sống trong điều kiện thiếu thốn cùng cực (theo định nghĩa nhà ở của LHQ, một ngôi nhà ổ chuột thiếu từ 3 điều kiện trở lên trong số sau: tiếp cận với nguồn nước, tiếp cận với vệ sinh, tiếp cận với đất an cư, cấu trúc nhà bền vững, và đủ không gian sống)[18,19]. Xu hướng bệnh tật và tử vong Mặc dù tuổi thọ ở tất cả các quốc gia trong khu vực đã được cải thiện, nhưng vẫn có sự khác biệt lớn về tỷ lệ cải thiện. Hầu hết các quốc gia đã có tuổi thọ tăng liên tục từ những năm 1950. Trong một số trường hợp (như Myanmar, Campuchia) chế độ chính trị và những mâu thuẫn trong lịch sử đã tác động tới tiến trình bệnh dịch, ví dụ như dịch HIV ở Thái Lan (Hình 2). Tốc độ tăng tuổi thọ bị chậm lại chủ yếu do tốc độ giảm tỷ lệ tử vong ở người trưởng thành chậm[15]. Trong suốt 50 năm qua, việc giảm chênh lệch tuổi thọ giữa các quốc gia đã có rất ít tiến triển, khoảng cách vẫn còn ở mức xấp xỉ 20 năm. Ở một số quốc gia khác, giảm tỷ suất sinh lại là yếu tố chính khiến cho dân số bị già hóa. Tốc độ và thời gian giảm tỷ suất sinh thay đổi rất lớn giữa các quốc gia trong khu vực (phụ lục trên web, trang 1). Singapore có tỷ lệ giảm sớm nhất và nhanh nhất - tổng tỷ suất sinh giảm từ 6 trẻ/1 phụ nữ vào năm 1957 xuống còn 2,1 vào giữa thâp niên 70 và từ năm 2003, Singapore nằm trong số những quốc gia có tỷ suất sinh siêu thấp (bảng)[20]. Tỷ suất sinh của Thái Lan cũng tương tự như Singapore, dù bắt đầu giảm muộn hơn một chút; hiện nay đây là quốc gia duy nhất trong khu vực có tỷ suất sinh thấp hơn tỷ suất thay thế. Việt Nam, Brunei, và Indonesia đều có tỷ suất sinh xấp xỉ tỷ suất thay thế. Trong khi tổng tỷ suất sinh ở Lào, Campuchia và Philippines sẽ tiếp tục tăng lên trên 3 trẻ/1 phụ nữ. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng và các chương trình kế hoạch hóa gia đình mạnh mẽ dường như có tác động tới giảm tỷ suất sinh. Điều thú vị là M A L A Y S I A I N D O N E S I A PAPUA NEW GUINEA C H I N A PHILIPPINES THAILAND VIETNAMCAMBODIA LAOS BRUNEI TAIWAN SINGAPORE I r ra w ad d y M ekong S a lw e e n C ha ng Ji an g E A S T I N D I E S E a s t C h i n a S ea S o u t h C h i n a S e a C e l e b e s S e a P h i l i p p i n e S e a Bangkok Kuala Lumpur Bandar Seri Begawan Jakarta Ho Chi Minh Shanghai Manila Phnom Penh Pontianak T’ai-pei Yangon Hanoi Hong Kong Da Nang Vientiane Wuhan Hue Xi’an Moulmein MYANMAR Hình 1. Khu vực Đông Nam Á | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2011, Số 18+19 (18+19) 7 khẳng định trên đúng với Indonesia, nhưng lại không đúng lắm đối với Brunei và Malaysia, mặc dù cả ba quốc gia đều có chung một tôn giáo chủ đạo là Đạo Hồi[21] Malaysia tiến hành chính sách khuyến khích sinh đẻ từ cuối thập niên 70 dưới thời Thủ tướng Mahathir Mohammad[22] Đạo Thiên chúa cùng với những chuẩn mực văn hóa ủng hộ gia đình đông con cũng là yếu tố tác động lớn tới tỷ lệ sử dụng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình thấp ở Philippines[23]. Tỷ suất sinh cao ở Campuchia và Lào liên quan tới trình độ học vấn thấp, phản ánh qua tỷ lệ học sinh trung học cơ sở ở mức 25-44%, so với những nơi khác trong khu vực ở mức 61-90% (và Việt Nam ở mức 72%)[24]. Theo Cleland[25], mặc dù học vấn ám chỉ khả năng nhận thức để có thể sử dụng các biện pháp tránh thai, kỹ năng xã hội và tâm lý có được do học vấn cao hơn có thể giúp mọi người "thể hiện mong muốn trì hoãn hay giới hạn số lần sinh con thông qua sử dụng các biện pháp tránh thai [và] họ có nhiều khả năng sử dụng các dịch vụ y tế cân đối hơn cho một loạt nhu cầu khác nhau bao gồm chăm sóc trước và trong khi sinh, tiêm chủng cho trẻ và chữa trị bệnh [giúp cho trẻ có khả năng sống cao hơn]". Di dân Phát triển kinh tế và dân số đã tạo ra sự di dân trên toàn khu vực, chủ yếu để làm các công việc thời vụ, đồng thời cũng để tái định cư[26]. Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và tốc độ tăng trưởng dân số cũng như nhân công nội địa chậm lại do giảm tỷ suất sinh đã khiến cho các quốc gia như Singapore mở cửa cho người ngoại quốc với mọi loại trình độ, kỹ năng khác nhau nhập cư tìm việc làm, và cho phép những lao động kỹ thuật cao được định cư vĩnh viễn. Philippines, Indonesia, và Việt Nam là những quốc gia xuất khẩu lao động chính trong khi Malaysia và Thái Lan vừa nhập lao động vừa xuất lao động ra nước ngoài. Bên cạnh thị trường lao động trong khu vực, các quốc gia ở Đông Nam Á cũng gửi lao động ra ngoài khu vực và nhận lao động từ khu vực khác. Tuy nhiên, từ thập niên 80, lao động di cư đã thay đổi điểm đến từ các quốc gia như Mỹ và Trung Đông sang các quốc gia trong châu Á[26]. Có rất nhiều di cư trái phép hoặc không có giấy tờ cũng như phong trào di chuyển nơi ăn chốn ở trong khu vực[27,28]. Những nhóm này đặc biệt dễ bị tổn thương bởi "người dân di cư không có giấy tờ phơi nhiễm với nhiều nguy cơ sức ... ràng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN nhằm tăng ưu thế cạnh tranh của khu vực như một cơ sở sản xuất hướng tới thị trường thế giới. Các nhà lãnh đạo ASEAN đã xác định y tế là lĩnh vực ưu tiên cho hội nhập trên toàn khu vực. Từ quan điểm kinh tế, mở cửa thị trường y tế hứa hẹn đem lại những lợi ích kinh tế to lớn. Đồng thời, quá trình này cũng có thể làm tăng thêm thách thức hiện hữu liên quan tới khuyến khích tiếp cận y tế công bằng hơn trong các quốc gia. Nó cũng có thể dẫn tới những kết quả không mong đợi như chỉ có những người giàu có mới được hưởng lợi từ sự tự chủ hóa theo chính sách thương mại trong y tế. Y tế và chính sách thương mại có thể mâu thuẫn với nhau. Ví dụ như, sử dụng thuốc lá là nguyên nhân có thể dự phòng rất lớn của những bệnh không truyền nhiễm và tử vong ở nhiều quốc gia ASEAN[68]. Tất cả các thành viên ASEAN (ngoại trừ Indonesia) đã tuân theo Hiệp ước khung về kiểm soát thuốc lá (FCTC)[69] và mọi quốc gia đều đã thực thi một số chính sách kiểm soát thuốc lá. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia này vẫn tham gia ở nhiều mức độ khác nhau vào việc đầu tư hay khuyến khích ngành công nghiệp sản xuất thuốc lá, và thường viện lý do để xóa đói giảm nghèo. Rõ ràng có sự mâu thuẫn ở mỗi quốc gia khi vừa tìm cách ngăn ngừa hút thuốc vì mục tiêu sức khỏe, lại vừa chủ động khuyến khích thuốc lá vì lợi ích kinh tế của quốc gia mình, dẫn tới tổn hại cho nỗ lực thực thi FCTC[70]. Ví dụ, sản xuất thuốc lá là hợp pháp; các nguyên tắc chính sách bị vi phạm, và chính phủ có thể hợp tác trực tiếp với các công ty thuốc lá đa quốc gia thông qua việc sửa đổi chính sách kiểm soát. Xuất khẩu thuốc lá trong khu vực ASEAN cũng đe dọa mục tiêu hợp tác y tế của khối. Việc loại bỏ vốn nhà nước trong các công ty thuốc lá[71] và cam kết mạnh mẽ hơn nữa của chính phủ nhằm kiểm soát việc sử dụng và quảng bá thuốc lá là yêu cầu cấp bách đối với các quốc gia ASEAN hiện nay. Các vấn đề liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm như dược phẩm thiết yếu cũng là vấn đề mà nhiều quốc gia đang quan tâm. Thái Lan bắt đầu quy định cấp phép thuốc bắt buộc từ năm 2008. Indonesia đã kêu gọi xây dựng khẩn cấp một hệ thống mới để tiếp cận virus và chia sẻ một cách công bằng hơn những lợi ích có được từ việc sử dụng virus cúm trong nghiên cứu (nay được biết đến với 14 Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2011, Số 18+19 (18+19) | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tài liệu tham khảo 1. Population Reference Bureau. World population data sheet 2009. (accessed Mar 11, 2010). 2. Population Division of the Department of Economic and Social Affairs of the UN Secretariat. World population prospects: the 2008 revision highlights. New York, NY, USA: United Nations, 2009. wpp2008_highlights.pdf (accessed Nov 22, 2010). 3. Statistics Singapore. Key annual indicators. sg/stats/keyind.html#popnarea (accessed Mar 11, 2010). 4. UN Statistics Division. Social Indicators. eracy.htm (accessed Mar 11, 2010). 5. WHO. World Health Statistics 2009. (accessed Nov 11, 2009). 6. UN Social Indicators 2009. alth.htm (accessed Mar 11 2010). 7. UN Population Fund. State of world population 2009. unfpa.org/swp/2009/en/indicators.shtml (accessed Mar 11, 2010). 8. Acuin CS, Khor GL, Liabsuetrakul T, et al. Maternal, neonatal, and child health in southeast Asia: towards greater collaboration. Lancet 2011; published online Jan 25. DOI:10.1016/S0140-6736(10)62049-1. 9. Coker RJ, Hunter BM, Rudge JW, Liverani M, Hanvoravongchai P. Emerging infectious diseases in southeast Asia: regional challenges to control. Lancet 2011; published online Jan 25. DOI:10.1016/S0140- 6736(10)62004-1. 10. Dans A, Ng N, Varghese C, Tai ES, Firestone R, Bonita R. The rise of chronic non-communicable diseases in southeast Asia: time for action. Lancet 2011; published online Jan 25. DOI:10.1016/S0140-6736(10)61506-1. 11. Kanchanachitra C, Lindelow M, Johnston T, et al. Human resources for health in southeast Asia: shortages, distributional challenges, and international trade in health services. Lancet 2011; published online Jan 25. DOI:10.1016/S0140-6736(10)62035-1. 12. Tangcharoensathien V, Patcharanarumol 12 W, Ir P, et al. Health-Financing reforms in southeast Asia: challenges in achieving universal coverage. Lancet 2011; published online Jan 25. DOI:10.1016/S0140-6736(10)61890-9. 13. Rajaratnam JK, Marcus JR, Flaxman A, et al. Neonatal, postneonatal, childhood, and under-5 mortality for 187 countries, 1970-2010: a systematic analysis of progress towards Millennium Development Goal 4. Lancet 2010; 375: 1988-2008. 14. Hogan MC, Foreman KJ, Naghavi M, et al. Maternal mortality for 181 countries, 1980-2008: a systematic analysis of progress towards Millennium Development Goal 5. Lancet 2010; 375: 1609-23. 15. Rajaratnam JK, Marcus JR, Levin-Rector A, et al. Worldwide mortality in women and men aged 15-59 years from 1970 to 2010: a systematic analysis. Lancet 2010; 375: 1704-20. 16. UN Population Division. World population prospects: the 2008 revision population database. asp?panel=2 (accessed June 28, 2010). 17. City Mayors Statistics. The largest cities in the world by land area, population and density. largest-cities- density-125.html (accessed June 22, 2010). 18. Leete R. Human development and urbanisation. Ethos 2008; June (World Cities Summit Issue): 88-97. 19. UN-Habitat. State of the World's Cities 2006/7: the Millennium Goals and Urban Sustainability. London, UK: Earthscan, 2006: 27. 20. Jones G, Tay Straughan P, Chan A, eds. Ultra-low fertility in Pacific Asia: trends, causes and policy issues. Abingdon, UK: Routledge, 2008. 21. Robinson WC, Ross JA. Family planning: the quiet revolution. In: Robinson WC, Ross JA, eds. The global family planning revolution: hree decades of policies and programs. Washington, DC, USA: The World Bank, 2007: 421-49. 22. Govindasamy P, Davanzo J. Ethnicity and fertility differentials in peninsular Malaysia: do policies matter? Popul Dev Rev 1992; 18: 243-67. 23. Costello MP, Casterline JB. Fertility decline in the Philippines: current status, future prospects. In: UN Department of Economic and Social Affairs Population Division. Completing the fertility transition. h t t p : / / w w w . u n . o r g / e s a / p o p u l a t i o n / p u b l i c a t i o n s / completingfertility/completingfertility.htm (accessed Aug 5, 2010). | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2011, Số 18+19 (18+19) 15 24. UN Educational, Scientific and Cultural Organisation. Regional overview: east Asia and the Paci?c. h t t p : / / u n e s d o c . u n e s c o . o r g / images/0018/001866/186631e.pdf (accessed Aug 6, 2010). 25. Cleland J. Education and future fertility trends, with special reference to mid-transitional countries. In: UN Department of Economic and Social A?airs Population Division. Completing the fertility transition. h t t p : / / w w w . u n . o r g / e s a / p o p u l a t i o n / publications/completingfertility/completingfertility.htm (accessed Aug 5, 2010). 26. Skeldon R. The future of labor migration in Asia: patterns, issues, policies. Research and Seminars, October 1998. ucdavis.edu/rs/more.php?id=58_0_3_0 (accessed June 28, 2010). 27. Chavez JJ. Social policy in ASEAN: the prospects for integrating migrant labour rights and protection. Glob Soc Policy 2007; 7: 378. 28. Abella M. Social issues in the management of labour migration in Asia and the Pacific. UN Economic and Social Commission for Asia and the Pacific. Asia Pac Popul J 2005; 20: 61-86. 29. Population Reference Bureau. Graphics bank: aging, speed of aging in selected countries. h t t p : / / w w w . p r b . o r g / H o m e / P u b l i c a t i o n s / GraphicsBank/Aging.aspx (accessed Jan 14, 2010). 30. Zoubanov A. Population ageing and population decline: government views and policies. Paper prepared for the Expert Group Meeting on Policy Responses to Population Ageing and Population Decline; New York, NY, USA; Oct 16-18, 2000. 31. Atoh M, Kandiah V, Ivanov S. The second demographic transition in Asia? Comparative analysis of the low fertility situation in east and south-east Asian countries. Jpn J Popul 2004; 2: 42-75. 32. Mujahid G. Population ageing in east and southeast Asia: current situation and emerging challenges. Bangkok, Thailand: UN Population Fund, 2002. Publications/2006/papers%20in%20pop%20agening%20no .%201%20(2006).pdf (accessed Feb 7, 2010). 33. Mertens TE, Low-Beer D. HIV and AIDS: where is the epidemic going? Bull World Health Organ 1996; 74: 121-29. 34. Chropapawon C, Porapakkham Y, Sablon O, Panjajaru R, Jhantharatat B. Thailand's national death registration reform: verifying the causes of death between July 1997 and December 1999. Asia Pac J Public Health 2005; 17: 110-16. 35. Killmarx Ph, Palanuvei T, Limpakarnjanarat K, Chitarakorn A, St Louis ME, Mastro TD. Seroprevalence of HIV among female sex workers in Bangkok: evidence of ongoing infection risk after the "100% condom program" was implemented. J Acquir Immune De?c Syndr 1999; 21: 313-16. 36. Lybecker KM, Fowler E. Compulsory licensing in Canada and Thailand: comparing regimes to ensure legitimate use of the WTO rules. J Law Med Ethics 2009; 37: 222-39. 37. Thanawuth N, Chongsuvivatwong V. Late HIV diagnosis and delay in CD4 count measurement among HIV-infected patients in Southern Thailand. AIDS Care 2008; 20: 43-50. 38. Raguenaud ME, Isaakidis P, Zachariah R, et al. Excellent outcomes among HIV+ children on ART, but unacceptably high pre-ART mortality and losses to follow- up: a cohort study from Cambodia. BMC Pediatr 2009; 9: 54. 39. WHO. Preventing diseases through healthy environments. Geneva, Switzerland: World Health Organization, 2006. 40. Kovat RS, Bouma MJ, Hajat S, Worrall E, Haines A. El Ni#o and health. Lancet 2003; 362: 1481-89. 41. ASEAN Secretariat. Implementing the road map for an ASEAN community 2015. Annual report 2008-2009. Jakarta, Indonesia: ASEAN Secretariat, 2009. 42. United States Geological Survey. Earthquake glossary: ring of fire. 2009. of %20Fire (accessed Aug 12, 2010). 43. Awang MB, Jaafar AB, Abdullah AM, et al. Air quality in Malaysia: impacts, management issues and future challenges. Respirology 2000; 5: 183-96. 44. Tacconi L. Fires in Indonesia: causes, costs and policy implications. Jakarta, Indonesia: Center for International Forestry Research, 2003. 45. Brauer M, Jamal HH. Indonesian fires: crisis and reaction. Environ Sci Technol 1998; 32: 404a-07a. 46. Frankenberg E, McKee D, Thomas D. Health consequences of forest fires in Indonesia. Demography 2005; 42: 109-29. 47. Emmanuel SC. Impact to lung function of haze from forest fires: Singapore's experience. Respirology 2000; 5: 175-82. 16 Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2011, Số 18+19 (18+19) | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 48. Mott JA, Mannino DM, Alverson CJ, et al. Cardio respiratory hospitalizations associated with smoke exposure during the 1997 Southeast Asian forest fires. Int J Hyg Environ Health 2005; 208: 75-85. 49. Reiter P. Climate change and mosquito-borne disease. Environ Health Perspect 2001; 109: 141-61. 50. Patz JA, Campbell-Lendrum D, Holloway T, Foley JA. Impact of regional climate change on human health. Nature 2005; 438: 310-17. 51. Tangcharoensathien V, Hanvoravongchai P, Pitayarangsarit S, Kasemsup V. Health impacts of rapid economic change in Thailand. Soc Sci Med 2000; 51: 789- 807. 52. Phua KH. Comparative health care financing systems, with special reference to east Asian countries. Res Healthc Financ Manage 1999; 5: 113-33. 53. Phua KH, Chew AH. Towards a comparative analysis of health systems reforms in the Asia-Pacific region. Asia Pac J Public Health 2002; 14: 9-16. 54. Waters H, Saadah F, Pradhan M. The impact of the 1997-98 East Asian economic crisis on health and health care in Indonesia. Health Policy Plan 2003; 18: 172-81. 55. Chang SS, Gunnel D, Sterne JA, Lu TH, Cheng AT. Was the economic crisis 1997-1998 responsible for rising suicide rates in east/southeast Asia? A timetrend analysis for Japan, Hong Kong, S. Korea, Taiwan, Singapore and Thailand. Soc Sci Med 2009; 68: 1322. 56. Singh AR, Patel M. Children and the economic crisis. Glob Soc Policy 2009; 9 (suppl): 5-9. 57. WHO. Promoting health and equity: evidence, policy and action-cases from the western Pacific region. Manila, Philippines: WHO Western Pacific Regional Office, 2009. 58. Phua KH. Privatization and restructuring of health services in Singapore. Singapore: Times Academic Press for the Institute of Policy Studies, 1991. 59. Barraclough S. The growth of corporate private hospitals in Malaysia: contradictions in health system pluralism. Int J Health Serv 1997; 27: 643-59. 60. Barraclough S. Constraints on the retreat from a welfare-oriented approach to public health care in Malaysia. Health Policy 1999; 47: 53-67. 61. Barraclough S. The politics of privatization in the Malaysian health care system. Contemp Southeast Asia 2000; 22: 340-59. 62. Preker AS, Harding A, eds. Innovations in health service delivery: the corporatization of public hospitals. Washington DC, USA: World Bank, 2003. 63. Phua KH. Saving for health. World Health Forum 1987; 8: 38-41. 64. Phua KH. The savings approach to long term care financing in Singapore. J Aging Soc Policy 2001; 13: 169- 83. 65. WHO. Social health insurance: selected cases from Asia and the Pacific. Manila, Philippines, and New Delhi, India: Western Pacific Regional Office and South-East Asia Regional Office for WHO, 2005. 66. World Bank. East Asia decentralizes: making local government work. Washington, DC, USA: World Bank, 2005. 67. WHO. Health in Asia and the Pacific. New Delhi, India: South-East Asia Regional Office and Western Paci?c Regional Office for WHO, 2008. 68. Ezzati M, Lopez AD. Measuring the accumulated hazards of smoking: global and regional estimates for 2000. Tob Control 2003; 12: 79-85. 69. Collin J. Global health, equity and the WHO Framework Convention on Tobacco Control. Glob Health Promot 2010; 17: 73-75. 70. Barraclough S, Morrow M. The political economy of tobacco and poverty alleviation in southeast Asia: contradictions in the role of the state. Glob Health Promot 2010; 17: 40-50. 71. Lin V. The Framework Convention on Tobacco Control and health promotion: strengthening the ties. Glob Health Promot 2010; 17: 76-80. 72. WHO. Pandemic influenza preparedness: sharing of influenza viruses and access to vaccines and other benefits. Report by the Secretariat, Nov 27, 2008. Geneva, Switzerland: World Health Organization, 2008. EB124/B124_4- en.pdf (accessed Nov 22, 2010).
File đính kèm:
- suc_khoe_va_he_thong_y_te_o_dong_nam_a_su_da_dang_va_dich_ch.pdf