Suy nghĩ về nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay

TÓM TẮT

Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền

kinh tế phát triển. Mục đích cao đẹp nhất của nền giáo dục Việt Nam đã được khẳng định trong Luật

giáo dục do Quốc hội thông qua năm 2005 là ‘‘đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có

đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp

ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

pdf 6 trang yennguyen 4040
Bạn đang xem tài liệu "Suy nghĩ về nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Suy nghĩ về nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay

Suy nghĩ về nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay
124
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
SUY NGHĨ VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC 
ĐẠI HỌC TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC 
VIỆT NAM HIỆN NAY
Phạm Văn Hưng*
TÓM TẮT
Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền 
kinh tế phát triển. Mục đích cao đẹp nhất của nền giáo dục Việt Nam đã được khẳng định trong Luật 
giáo dục do Quốc hội thông qua năm 2005 là ‘‘đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có 
đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và 
chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp 
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ khóa: giáo dục, đào tạo, giải pháp, đổi mới
THOUGHTS ON IMPROVING THE QUALITY OF UNIVERSITY 
EDUCATION IN THE EDUCATION INNOVATION BACKGROUND 
IN VIET NAM 
ABSTRACT 
The important role of education training is the key factor and the driving force of the 
economic development. The noblest aim of Vietnam education affirmed in the Educational 
Vietnamese Law passed by Congress in 2005 is ‘’To train Vietnamese people to develop their ethics, 
knowledge, health, aestheticism and careers comprehensively, be loyal to the ideals of national 
independence and socialism; form and foster personalities, qualities and abilities of citizens to meet 
the requirements of constructing and defending the nation.”
Keywords: education, training, solutions, innovations
* Phòng Khảo thí và ĐBCLGD, Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương. 
Email: Pvhung@ktkt.edu.vn, ĐT: 0168.6820.018
1. THỰC TRẠNG NỀN GIÁO DỤC 
VIỆT NAM.
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục 
Việt Nam có những bước phát triển, có những 
thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng 
vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho 
công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất 
nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn 
chứa rất nhiều yếu kém, bất cập:
- Hiện nay giáo dục Việt Nam chỉ lo đào 
tạo số lượng sinh viên đầu ra mà quên đi vấn 
đề quan trọng là chất lượng đầu ra đó có đóng 
góp như thế nào vào sự nghiệp phát triển đất 
nước. Hàng loạt các kỹ sư, cử nhân ra trường 
nhưng thử hỏi có bao nhiêu người đạt được 
trình độ kỹ thuật của kỹ sư? Bao nhiêu người 
làm việc theo đúng ngành nghề mình đã học, 
đó là một sự lãng phí lớn. Trong một lần khảo 
125
Suy nghĩ về . . .
sát các doanh nghiệp tại tỉnh Bình Dương về 
chất lượng đào tạo đầu ra của sinh viên tại 
các trường Đại học, Cao đẳng có đáp ứng nhu 
cầu tuyển dụng của doanh nghiệp không? Thì 
khoảng 90% các doanh nghiệp đều cho rằng 
họ phải đào tạo lại toàn bộ các cử nhân, kỹ 
sư.. mới ra trường vì họ chỉ giỏi về lý thuyết 
nhưng khi áp dụng vào thực tế thì họ lại bỡ 
ngỡ. Như vậy có thể thấy rằng những kiến 
thức mà sinh viên học được trên ghế nhà 
trường chỉ là lý thuyết, giảng viên chưa cập 
nhật kiến thức thực tiễn tạo ra một lỗ hỏng lớn 
cho người học khi tốt nghiệp ra trường.
- Giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều hạn 
chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục; 
chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến 
phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng; so 
với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều 
nội dung chưa đạt; chưa thực sự là quốc sách 
hàng đầu.
- Nội dung, chương trình, phương pháp 
giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm 
hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã 
hội và lao động nghề nghiệp; chưa phát huy 
tính sáng tạo, năng lực thực hành của học 
sinh, sinh viên.
- Chất lượng giáo dục có mặt bị buông 
lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối 
sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy 
“chữ”, còn dạy “người” và dạy “nghề” vẫn 
yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, 
lối sống, lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ 
năng thực hành, kỹ năng sống
- Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều 
yếu kém, cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, 
còn nhiều lúng túng. Đội ngũ cán bộ quản lý 
giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức 
và năng lực của một bộ phận còn thấp.
- Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa 
theo kịp yêu cầu đổi mới-phát triển đất nước 
trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường 
và hội nhập quốc tế; khoa học giáo dục chưa 
được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên 
cứu khoa học giáo dục còn nhiều bất cập.
2. NGUYÊN NHÂN
2.1. Về phía người dạy:
Mặc dù chất lượng và số lượng của lực 
lượng đội ngũ giảng viên ngày một nâng cao 
nhưng phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu 
mang tính thuyết giảng, làm người học tiếp 
thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy 
mang nặng lý thuyết, thiếu cập nhật thực tiễn. 
Mặt khác, việc sử dụng các phương tiện phục 
vụ cho giảng dạy chưa nhiều do vậy mà không 
thể truyền tải hết lượng thông tin cần cung cấp 
cho người học, số thời gian của giảng viên 
dành cho lên lớp tại các trường quá lớn, cho 
nên hạn chế thời gian nghiên cứu khoa học và 
nghiên cứu thực tế. 
Giảng viên thường dạy cho sinh viên 
những kiến thức cụ thể, những hiểu biết mà 
mình tích lũy được trong kinh nghiệm giảng 
dạy mà không chú trọng đến việc dạy nghề 
cho sinh viên.Các giảng viên thường ít cập 
nhật kiến thức chuyên môn liên quan đến nhu 
cầu thực tế.Bài giảng của thầy đôi khi không 
còn phù hợp với tình hình xã hội hiện tại. Nếu 
sinh viên chỉ học ở trường, không có điều kiện 
va chạm với cuộc sống bên ngoài thì khả năng 
thích ứng với nhu cầu xã hội là thấp vì khoảng 
cách giữa lý thuyết và thực tế là khá xa.
 2.2. Về phía người học 
 Hiện nay, chất lượng đào tạo tại các 
trường THPT vẫn còn mang nặng về chỉ tiêu 
tốt nghiệp chưa thực sự chú trọng đến chất 
lượng đầu ra vì vậy chất lượng đầu vào của 
nhiều trường đại học, cao đẳng quá thấp, chủ 
yếu tập trung vào các trường xét tuyển,
 Tính chủ động sáng tạo trong học tập và 
nghiên cứu của sinh viên nhìn chung chưa cao, 
126
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
thiếu tư duy khoa học, đại đa số học thụ động, 
học theo phong trào, học cho qua “học theo 
hội chứng bằng cấp”, do vậy khi tốt nghiệp 
chưa đủ kiến thức để đáp ứng được yêu cầu 
của thực tế và bị thực tiễn chối bỏ. 
2.3. Về chương trình đào tạo 
Chương trình đào tạo của chúng ta vẫn 
còn chậm cải tiến đổi mới, thiếu tính cập nhật, 
lý thuyết chưa gắn với thực tiễn, các môn học 
quá nhiều và cơ cấu thời lượng chưa hợp lý, 
dẫn tới sinh viên học quá nhiều nhưng kiến 
thức lại chưa phù hợp với thực tiễn. 
 Nội dung chương trình và sách giáo khoa 
chưa phù hợp, nặng về lý thuyết, chưa quan 
tâm đến giáo dục tình cảm và hành động cho 
học sinh. Ngoài ra, Bộ Giáo dục và đào tạo quy 
định các trường đại học phải thực hiện theo 
chương trình khung mà Bộ Giáo dục yêu cầu. 
2.4. Phương pháp
Hiện nay giảng viên tại các trường chủ yếu 
vẫn sử dụng phương pháp giảng dạy truyền 
thống “thầy đọc, trò chép”. Phương pháp dạy 
và học hiện nay chủ yếu chạy theo chương 
trình, đối phó với các kỳ thì. Sự đổi mới về 
phương pháp giảng dạy trong các trường hiện 
nay chỉ mang tính hình thức. Thiết bị giảng 
dạy như: máy chiếu, video  chỉ là phương 
tiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng giảng 
dạy nhưng quan trọng hơn cả là việc ý thức 
được giáo dục phải mang tính sáng tạo, tinh 
thần trách nhiệm thể hiện qua việc cải tiến 
về phương pháp và chương trình học thì vẫn 
chưa được chú trọng. 
2.5. Kỹ năng mềm thiếu và yếu
Bên cạnh việc thiếu kinh nghiệm làm 
việc thì không ít bạn trẻ đánh mất cơ hội lập 
nghiệp do thiếu kỹ năng mềm. Nhiều người 
không nhận thức đúng, đủ về vấn đề này. Hầu 
hết rất bị động, hiểu mơ hồ về kỹ năng mềm, 
vai trò của kỹ năng mềm đối với công việc 
của mình. Điều này khiến cho kỹ năng mềm 
của sinh viên hiện nay còn yếu.
3. GIẢI PHÁP
Những tồn tại trên đã làm ảnh hưởng lớn 
đến chất lượng giáo dục mà nguyên nhân 
chính vẫn là tư duy của người dạy, người học 
và cơ chế quản lý chưa phù hợp đã tạo những 
“Sản phẩm” chất lượng kém vừa thiếu kiến 
thức, kỹ năng nghề nghiệp, phương pháp làm 
việc vừa kém về năng lực nhận thức, tư duy 
và phương pháp nghiên cứu khoa học, xã hội 
không thừa nhận và rồi “Sản phẩm” của giáo 
dục đào tạo đại học không có chỗ đứng trên 
thị trường, người học xong đại học khó hoặc 
không tìm được việc làm. 
Mục tiêu giáo dục của ta hiện nay là “Nâng 
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân 
tài ”. Vì vậy, muốn thực hiện được mục tiêu 
giáo dục đề ra chúng ta cần phải có những giải 
pháp để nâng cao chất lượng giáo dục:
- Thứ nhất: Tăng lương giáo viên
Hiện nay, theo bảng thống kê khảo sát cho 
thấy rằng với thang bảng lương đang áp dụng, 
ngành giáo dục thật khó để thu hút được đội 
ngũ giáo viên giỏi. bởi khi ra trường một sinh 
viên học về kỹ thuật, hay thương mại, kinh tế 
nếu làm cho một doanh nghiệp tư nhân trong 
nước cũng có thể có mức lương khởi điểm từ 
4 - 5 triệu đồng/tháng, và nếu làm cho các tổng 
công ty, tập đoàn lớn hay các doanh nghiệp có 
vốn đầu tư nước ngoài thì mỗi tháng bình quân 
có thể thu nhập từ 8 - 10 triệu đồng, thậm chí 
hơn nữa. Với mức lương đó, nhìn vào thang 
bảng lương giáo dục, người thầy không khỏi 
chạnh lòng. Bởi vì, một giảng viên có thâm 
niên 10 năm kinh nghiệm tại các trường đại 
học lớn của Việt Nam cũng không thể có được 
mức lương ngang bằng một sinh viên vừa tốt 
nghiệp đại học, làm cho doanh nghiệp có vốn 
đầu tư nước ngoài. So sánh nhỏ này cho thấy 
127
Suy nghĩ về . . .
chừng nào chúng ta chưa thay đổi hệ thống 
thang bảng lương ngành giáo dục, chừng đó 
chúng ta vẫn không thể có được đầu vào tốt 
cho ngành sư phạm.
Như vậy xét về mặt kinh tế, chi phí chúng 
ta đánh mất trong tương lai cho vấn đề này sẽ 
còn cao hơn rất nhiều so với việc tăng lương 
cho giáo viên. Vì một giáo viên kém ảnh 
hưởng đến hàng trăm người, và thậm chí ảnh 
hưởng đến cả nhiều thế hệ. Như vậy, phải tăng 
lương thì ngành giáo dục mới có cơ hội chiêu 
mộ được người tài.
- Thứ hai: Tiếp tục đổi mới nội dung, 
phương pháp giáo dục
Ngành giáo dục chúng ta phải từng 
bước đổi mới nội dung sách giáo khoa, loại 
bỏ những kiến thức không thiết thực, bổ 
sung những nội dung cần thiết theo hướng 
bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật những 
tiến bộ khoa học, công nghệ, tăng nội dung 
công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ 
thuật tổng hợp và năng lực thực hành. 
Đổi mới phương pháp giảng dạy áp dụng 
phương pháp “Dạy ít, học nhiều”, chúng ta 
cần tập trung nâng cao chất lượng học tập của 
sinh viên bằng cách tạo thêm nhiều “khoảng 
trống” trong chương trình học để giáo viên có 
thể thực hiện những kế hoạch giảng dạy riêng, 
cùng sinh viên định hình một môi trường giáo 
dục riêng và bồi dưỡng nghiệp vụ.
Với mô hình “Dạy ít, học nhiều” thì kiểu 
học vẹt, học vì thành tích và phong cách 
giảng dạy “dành cho với tất cả mọi người” 
sẽ bị loại bỏ. Thay vào đó, sinh viên sẽ chủ 
động hơn trong học tập, khám phá tri thức 
thông qua các thí nghiệm, trải nghiệm thực tế, 
học các kỹ năng sống và xây dựng nhân cách 
nhờ chiến lược đào tạo hiệu quả và sáng tạo. 
Ngoài ra, sinh viên cũng có thêm nhiều cơ hội 
học tập và rèn luyện toàn diện để phát triển 
tư duy, nhân cách và những tố chất để thành 
công trong tương lai.
Mô hình “Dạy ít, học nhiều” được thực 
hiện từng bước một chứ không phải là một 
bước chuyển đột ngột. Một ví dụ về việc thực 
hiện mô hình này là sự ra đời của chương 
trình “Project Work” vào năm 2000, cho phép 
sinh viên học cách làm việc nhóm và áp dụng 
kiến thức vào thực tế.
Project Work là một phương pháp đào tạo, 
theo đó các môn học sẽ được tích hợp, kết 
nối với nhau giúp sinh viên khám phá sự gắn 
kết và thống nhất giữa chúng. Project Work sẽ 
giúp sinh viên phát triển kỹ năng trong 4 lĩnh 
vực sau:
• Áp dụng kiến thức: Sinh viên được học 
các kỹ năng nghiên cứu cơ bản, áp dụng 
và lưu chuyển kiến thức giữa các môn học 
khác nhau và tạo mối liên hệ giữa chúng.
• Truyền thông: Sinh viên học cách truyền 
đạt ý tưởng một cách rõ ràng và hiệu quả.
• Hợp tác: Sinh viên phát triển các kỹ năng 
xã hội thông qua các bài tập làm việc 
nhóm nhằm đạt mục tiêu chung.
• Học tập độc lập: Sinh viên phải chịu trách 
nhiệm và tự quản lý sự học của mình, phát 
triển thái độ học tập và nghiên cứu tích cực.
Theo mô hình mới này, người học phải là 
người chủ động trong quá trình học; giáo viên 
chỉ đóng vai trò hướng dẫn, khuyến khích và 
hỗ trợ. Mô hình học tập tích cực bao gồm 4 
yếu tố sau:
• Học sinh chịu trách nhiệm và tự quản lý 
việc học của mình. Họ phải xác định mục 
tiêu học tập rõ ràng và biết phải làm gì để 
thực hiện mục tiêu đó, cũng như xây dựng 
tiêu chuẩn đánh giá chất lượng học cho 
riêng mình.
• Học sinh biết đưa ra chiến lược học 
tập hiệu quả. Họ biết cách học, cải tiến 
128
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
phương pháp học và áp dụng kiến thức 
một cách sáng tạo.
• Học sinh biết hợp tác với bạn bè. Họ hiểu 
rằng học tập là một hoạt động xã hội, rằng 
mỗi người có một quan điểm khác nhau 
về cùng một vấn đề, và việc trao đổi ý 
kiến, chia sẻ kiến thức sẽ làm cho việc 
học thêm phong phú và chất lượng.
• Học sinh luôn được khuyến khích trong 
suốt quá trình học. Họ thấy được niềm vui 
và sự hứng khởi cũng như lợi ích của việc 
học tập.
Bên cạnh đó, vai trò của giáo viên cũng sẽ 
thay đổi: Giáo viên chỉ là người hướng dẫn. 
Họ tạo một môi trường học tập trong đó học 
sinh hợp tác với nhau để giải quyết vấn đề và 
thực hiện những nhiệm vụ thực tế. Giáo viên 
là người cùng học với học sinh chứ không 
phải người cung cấp lời giải.
Đây không chỉ là sự thay đổi về chính 
sách giáo dục mà còn là sự thay đổi căn bản 
về phẩm chất và tư duy của cả thầy và trò. Kế 
hoạch này thật sự rất khó thực hiện nếu xã hội 
vẫn còn quá coi trọng điểm số và thành tích.
- Tăng cường cơ sở vật chất cho các 
trường học, đưa Tin học vào quản lý và Đổi 
mới công tác quản lý giáo dục:
 Thay thế, bổ sung cơ sở vật chất và thiết 
bị cho các trường phổ thông, trường dạy nghề, 
trường đại học. Tích cực đưa Tin học vào 
giảng dạy, thay đổi phương pháp dạy học theo 
hướng tích cực. 
 Hiện nay ngành giáo dục đang lệ thuộc 
nhiều vào các lực lượng khác ngoài ngành, 
ví dụ tỉ lệ tốt nghiệp, tỉ lệ lên lớp, lưu ban . 
“bệnh thành tích” đang làm cho ngành mất đi 
tính độc lập, chủ động, thậm chí quản lý nhân 
sự ở các ngành học phổ thông cũng không phải 
thuộc ngành giáo dục quản lý. Nên có định 
hướng quản lý ngành giáo dục theo ngành dọc 
toàn bộ, độc lập chỉ đạo về chuyên môn, nhân 
sự, ngân sách, thanh tra kiểm tra, kể cả xây 
dựng cơ bản, cơ sở vật chất thì ngành mới 
chủ động thay đổi phương pháp giáo dục .
Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về 
giáo dục trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh cải cách 
hành chính giáo dục. Thống nhất một đầu mối 
quản lý nhà nước về giáo dục; quản lý theo 
pháp quyền trên cơ sở một hệ thống pháp luật 
giáo dục đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ giữa 
các Bộ, ngành, địa phương và triệt để phân cấp 
quản lý giáo dục; tăng quyền tự chủ và trách 
nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục, nhất là 
các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề 
nghiệp. Tăng hiệu lực quản lý nhà nước về giáo 
dục trong toàn ngành ở tất cả các cấp quản lý 
nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh 
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra 
giáo dục; chuyển dần quản lý nhà nước về 
giáo dục nặng về hành chính sang quản lý 
chất lượng và từ quản lý nhà nước theo cách 
kiểm soát sang giám sát mọi hoạt động giáo 
dục. Nâng cao vai trò các tổ chức xã hội nghề 
nghiệp giáo dục như Hội Giáo chức, Hội 
Khuyến học, liên hiệp hội các trường ngoài 
công lập trong phát triển giáo dục.
Bộ giáo dục và đào tạo nên giao cho các 
Trường tự chủ trong việc biên soạn chương 
trình khung. Chương trình khung của Bộ là 
chương trình chuẩn để các trường dựa vào 
đó tự thiết kế chương trình cho mình, như thế 
mỗi trường đại học sẽ có chương trình đặc 
thù mang thế mạnh riêng. Đối với những môn 
chuyên ngành, trường sẽ giao cho khoa chủ 
động xây dựng chương trình. Như vậy chương 
trình giảng dạy sẽ hữu dụng hơn vì dựa vào 
nhu cầu thực tế của xã hội và trình độ của sinh 
viên, khoa sẽ điều chỉnh và cải tiến chương 
trình học một cách khoa học và kịp thời.
129
Suy nghĩ về . . .
Một điểm quan trọng nữa là tuyển sinh, 
chúng ta cần trao lại quyền tuyển sinh cho các 
trường, để các trường tự quyết định phương 
thức tuyển sinh. Tức là có những trường chỉ xét 
tuyển thôi theo kết quả thi tốt nghiệp, không 
cần thi tuyển chung, cồng kềnh, tốn kém. 
 - Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động 
lực cho người dạy, người học:
Nguồn lực đội ngũ nhà giáo và cán bộ 
quản lý giáo dục là vốn quý nhất, là động lực, 
là nhân tố đảm bảo cho lợi thế giáo dục nước ta 
phát triển và cạnh tranh được với các nền giáo 
dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. 
Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giỏi là 
chìa khóa, là nhân tố trung tâm cho sự nghiệp 
giáo dục phát triển. Do vậy, phải đặt trọng tâm 
vào tạo bước chuyển biến chất lượng đội ngũ 
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. 
Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo 
và cán bộ quản lý giáo dục trong toàn ngành 
là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài bởi vì sự 
nghiệp giáo dục nước ta luôn phát triển đặt ra 
yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về trình độ, 
chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm 
của nhà giáo và năng lực lãnh đạo, quản lý 
của cán bộ quản lý giáo dục. Trách nhiệm của 
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không chỉ 
là trách nhiệm với hiện trạng giáo dục nước ta 
hôm nay mà còn là trách nhiệm với quá khứ 
và tương lai. 
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng 
giáo dục, phải được xã hội tôn vinh, vì thế 
giáo viên có đủ đức, đủ tài. Muốn nâng cao 
chất lượng dạy và học trước hết phải nâng cao 
chất lượng đào tạo của các trường Sư phạm .
- Thay đổi cách tuyển chọn cán bộ, 
đánh giá giáo viên
Mặc dù gần đây một số địa phương đã đổi 
mới cách tuyển chọn cán bộ. Nhưng, các kỳ 
thi công chức chưa hẳn đã thực sự khách quan. 
Đã đến lúc chúng ta cần siết chặt việc thi tuyển 
công chức, có cơ chế thi tuyển minh bạch hơn. 
Thanh tra ngành GD đi sâu vào đánh giá chất 
lượng giờ giảng của từng ứng viên thay vì 
thông qua các bài viết kiểm tra kiến thức chung 
chung. Kẽ hở trong thi tuyển công chức sẽ tạo 
ra cơ hội để những thầy, cô giáo không đủ năng 
lực lại làm nhiệm vụ "trồng người".
3. KẾT LUẬN
Nhìn lại đoạn đường phát triển của giáo 
dục nước nhà, trong những thập kỷ qua, nền 
giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, 
có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần 
quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân 
lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi 
mới đất nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục 
đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, 
chính những yếu kém, bất cập này đã làm cho 
chúng ta đã lùi đi rất nhiều so với các nước 
trong khu vực và quốc tế. Qua phần đánh giá 
thực trạng nền giáo dục Việt Nam ở trên mong 
muốn rằng mọi người sẽ có cái nhìn khách 
quan hơn về nền giáo dục nước nhà, từ đó mỗi 
cá nhân sẽ tự vạch ra những con đường riêng, 
hướng đi riêng, cũng như những giải pháp cho 
phù hợp với vai trò của mình.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đặng Quốc Bảo, Bùi Việt Phú, 2013, Một số góc nhìn về phát triển và quản lý giáo dục.
[2]. Bùi Minh Hiền (chủ biên), Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo (2006), Quản lý giáo dục, NXB Đại học 
sư phạm, Hà Nội.
[3]. Thái Duy Tuyên (2007), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[4]. Trần Bá Hoành, Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa, NXB Đại học Sư 
phạm Hà Nội.
[5]. Thanh Trà- Huyền Trang, 2009, Cải cách giáo dục Singapore, Tạp trí giáo dục Việt Nam.net.
[6]. Nguyễn Minh Hải, 2012, Thực Trạng nền giáo dục Việt Nam, Trường Đại Học Kiến Trúc Thành 
Phố Hồ Chí Minh.

File đính kèm:

  • pdfsuy_nghi_ve_nang_cao_chat_luong_giao_duc_dai_hoc_trong_boi_c.pdf