Tác động của chính sách ruộng đất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ

TÓM TẮT

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp nghị Genève năm 1954, Mỹ

thay chân Pháp tiến hành cai trị miền Nam theo lối chủ nghĩa thực dân kiểu mới.

Trong suốt 20 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, đế

quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn luôn coi “cải cách điền địa” và “bình định nông

thôn” là “quốc sách”, là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của cuộc chiến.

Nông dân - nông thôn đã trở thành đối tượng, địa bàn giành giật quyết liệt giữa ta và

địch trong suốt cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt. Chính những chính sách ruộng

đất của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa và chính quyền Cách mạng đã tạo nên sự thay đổi

to lớn về kinh tế - xã hội ở nông thôn miền Nam giai đoạn này. Bài viết này tập trung

vào hai vấn đề chính: một là chính sách ruộng đất của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa và

của chính quyền Cách mạng, hai là tác động của những chính sách đó đối với nông

nghiệp, nông thôn miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ

pdf 12 trang yennguyen 580
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của chính sách ruộng đất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của chính sách ruộng đất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ

Tác động của chính sách ruộng đất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 
97 
 TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH RUỘNG ĐẤT ĐỐI VỚI 
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở MIỀN NAM VIỆT NAM 
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ 
Phạm Thị Phương Thúy1 
TÓM TẮT 
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp nghị Genève năm 1954, Mỹ 
thay chân Pháp tiến hành cai trị miền Nam theo lối chủ nghĩa thực dân kiểu mới. 
Trong suốt 20 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, đế 
quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn luôn coi “cải cách điền địa” và “bình định nông 
thôn” là “quốc sách”, là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của cuộc chiến. 
Nông dân - nông thôn đã trở thành đối tượng, địa bàn giành giật quyết liệt giữa ta và 
địch trong suốt cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt. Chính những chính sách ruộng 
đất của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa và chính quyền Cách mạng đã tạo nên sự thay đổi 
to lớn về kinh tế - xã hội ở nông thôn miền Nam giai đoạn này. Bài viết này tập trung 
vào hai vấn đề chính: một là chính sách ruộng đất của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa và 
của chính quyền Cách mạng, hai là tác động của những chính sách đó đối với nông 
nghiệp, nông thôn miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. 
Từ khóa: Cải cách điền địa, người cày có ruộng, chính sách ruộng đất 
1. Mở đầu 
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu 
nước của nhân dân ta (1954 - 1975) 
dưới sự lãnh đạo của Đảng được xem là 
một trong những cuộc chiến tranh bảo 
vệ Tổ Quốc vĩ đại nhất của dân tộc Việt 
Nam. Đế quốc Mỹ khi can thiệp vào 
miền Nam phải đối đầu với một dân tộc 
vừa giành thắng lợi trong cuộc Cách 
mạng tháng 8 - 1945, trong cuộc kháng 
chiến chống Pháp (1945 - 1954) và đại 
đa số dân tộc ấy lại là nông dân. Do 
vậy, một trong những vấn đề mà chúng 
buộc phải quan tâm là nông dân và gắn 
với nông dân là ruộng đất, vì từ sau 
Cách mạng tháng 8 - 1945 nông dân đã 
vươn lên nắm lấy chính quyền ở nông 
thôn và làm chủ một phần ruộng đất. 
Chính vì vậy trong suốt 20 năm 
xâm lược miền Nam, đế quốc Mỹ và 
chính quyền Sài Gòn đã công khai 
giành giật trận địa nông nghiệp với 
Cách mạng bằng những chính sách 
ruộng đất hết sức phản động nhằm xóa 
bỏ thành quả cách mạng, tranh thủ, lôi 
kéo và tách nông dân ra khỏi sự ảnh 
hưởng của Cách mạng với mục đích 
cuối cùng là áp đặt chủ nghĩa thực dân 
mới vào miền nam Việt Nam. 
2. Nội dung 
2.1. Chính sách ruộng đất của 
chính quyền Mỹ - Việt Nam Cộng hòa 
và chính quyền Cách mạng qua các 
giai đoạn 
- Giai đoạn 1955 - 1960: 
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, theo 
quyết định của Hiệp định Genève, Việt 
Nam bị phân chia làm hai miền Nam - 
Bắc. Lợi dụng sự suy yếu của Pháp, Mỹ 
nhảy vào miền Nam, đưa tay sai Ngô 
Đình Diệm lên nắm chính quyền. 
Khác với Pháp, Mỹ sớm nhận thức 
được vấn đề nông thôn - nông dân - 
ruộng đất. Do vậy, chúng đã giúp Diệm 
thực hiện “cải cách điền địa”. Tuy 
nhiên, mục đích “cải cách điền địa” của 
Diệm không nhằm tạo lập chủ nghĩa tư 
bản ở nông thôn mà là duy trì quan hệ 
1Trường Đại học Đồng Nai 
Email: lephamphuonglinh2014@gmail.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 
98 
sản xuất phong kiến, khôi phục giai cấp 
địa chủ - chỗ dựa về mặt xã hội của 
chính quyền Diệm. Nội dung chương 
trình “cải cách điền địa” của Mỹ - Diệm 
được thể hiện trong các dụ số 2 (8-1-
1955), dụ số 7 (5-2-1955) và dụ số 57 
(20-10-1956) [1, tr. 24-25]. 
Dụ số 2 và dụ số 7 quy định việc 
lập “khế ước tá điền” tức là bắt nông 
dân phải thừa nhận về mặt pháp lý 
quyền sở hữu ruộng đất của địa chủ trên 
những ruộng mà cách mạng đã cấp cho 
nông dân. “Điều đó có nghĩa là người 
nông dân phải quay lại với thân phận 
làm thuê cuốc mướn của người tá điền 
với mức tô phổ biến tăng lên. Nhiều địa 
chủ trong kháng chiến chống Pháp phải 
bỏ chạy vào thành phố, nay quay về 
nông thôn đòi ruộng đất, tăng tô, thậm 
chí truy tố những năm mà chúng không 
thu được” [2, tr. 196]. 
Dụ số 57 quy định việc “truất hữu” 
ruộng đất của địa chủ. Mỗi địa chủ 
được quyền giữ lại 100 ha ruộng đất 
canh tác và thêm 15 ha ruộng hương 
hỏa. Trong số 15 ha này, địa chủ có 
quyền lựa chọn bất kỳ thửa ruộng nào 
tùy ý. Ruộng “truất hữu” được Diệm 
bồi thường cho địa chủ theo giá 10% 
tiền mặt, số còn lại trả bằng trái phiếu 
với lãi suất 5% một năm trong vòng 12 
năm. Về phần ruộng “truất hữu” sẽ đem 
bán lại cho những người thiếu ruộng, 
mỗi hộ không quá 5 ha và phải trả tiền 
mua đất trong 6 năm [1, tr. 25]. Trong 6 
năm ấy ruộng đất vẫn thuộc quyền sở 
hữu của Diệm. 
Với chương trình “cải cách điền địa” 
như vậy, Mỹ - Diệm ầm ĩ tuyên truyền: 
“việc lập khế ước giữa chủ điền và tá điền 
là để bảo vệ quyền lợi tá điền” và “nhằm 
cải thiện mối giao dịch giữa chủ điền và 
tá điền, khuyến khích việc khai khẩn đất 
hoang”, “việc đảm bảo quyền lĩnh canh 
và giảm mức địa tô 25% đã phá vở tính 
chất bóc lột cổ truyền của chế độ chiếm 
hữu địa chủ Việt Nam. Còn dụ số 57 thì 
bề ngoài có vẻ “cách mạng” vì nó “hạn 
chế điền sản” của địa chủ ở mức 115 ha 
và “truất hữu” số ruộng đất ngoài giới 
hạn đó đi “phân chia ruộng đất cho công 
bằng, giúp tá điền trở nên tiểu điền chủ”. 
Thực chất, tất cả chỉ nhằm giúp địa chủ 
vừa kinh doanh ruộng đất tư bản bằng 
bóc lột địa tô, vừa chuyển sang kinh 
doanh công thương nghiệp, tạo dần cơ sở 
xã hội rộng rãi cho chính quyền Ngô 
Đình Diệm. “Chính sách ruộng đất của 
Mỹ - Diệm ra đời nhằm xóa bỏ thành quả 
cách mạng, cướp lại ruộng đất của nông 
dân, khôi phục và duy trì chế độ sở hữu 
ruộng đất của giai cấp địa chủ, đồng thời 
cũng nhằm sửa sang lại chế độ sở hữu 
ruộng đất đó để lừa bịp, tranh giành nông 
dân với cách mạng” [1, tr. 26]. Chỉ trong 
vòng 4 tháng khi ban bố dụ số 57 đã có 
2.600 địa chủ kê khai là họ sở hữu 
1.075.000 ha, bình quân 415 ha/người, 
trong khi đó số ruộng đất “truất hữu” đem 
bán cho nông dân đến năm 1970 mới chỉ 
có 298.347 ha, tức chỉ chiếm 28% diện 
tích ruộng đất mà địa chủ đã kê khai từ 
năm 1956 [3, tr. 28]. Tính đến tháng 4 
năm 1960, khi chính quyền Diệm tuyên 
bố “cải cách điền địa” đã kết thúc thì ở 
miền Nam, địa chủ có từ 50 ha trở lên chỉ 
chiếm 2,5% dân số nhưng lại chiếm đến 
45% diện tích canh tác, số còn lại 12,5% 
diện tích canh tác là thuộc về phú nông và 
nông dân lao động. Theo tài liệu của Bộ 
Quốc phòng Mỹ, đến cuối năm 1959, giai 
cấp địa chủ đã cướp lại 80-90% số ruộng 
đất mà cách mạng đã cấp cho nông dân, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 
99 
năm 1970 thì 75% đất đai vẫn nằm trong 
tay 15% dân số [1, tr. 28]. 
Tuy nhiên, “cải cách điền địa” của 
Diệm đã “tấn công” dữ dội vào tầng lớp 
trung nông. Năm 1956, với chương 
trình “cải cách điền địa” của Diệm, chế 
độ sở hữu của giai cấp địa chủ được 
phục hồi, chế độ tá canh không những 
không bị tiêu diệt mà còn được khôi 
phục và duy trì. Tính đến năm 1960, ở 
Nam Bộ, 45% diện tích đất trồng trọt 
vẫn thuộc quyền sở hữu của đại địa chủ 
(25% dân số), 42,5% diện tích tập trung 
trong tay địa chủ vừa và nhỏ (11,1% 
dân số), số còn lại 12,5% diện tích canh 
tác thuộc quyền sở hữu của phú nông và 
nông dân lao động [4, tr. 13]. Tầng lớp 
trung nông bị đả kích nặng nề và giảm 
sút nghiêm trọng. 
Còn đối với phú nông, bước vào 
cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 
1954), dưới tác động của chính sách 
ruộng đất của Đảng, kinh tế phú nông bị 
sút kém vì nguồn nhân công để bóc lột 
đã giảm đi đáng kể. Đông đảo thanh 
niên nông thôn đã hăng hái tham gia bộ 
đội và phục vụ tiền tuyến. Bên cạnh đó 
việc cho vay của phú nông cũng đã bị 
hạn chế do tác động của chính sách 
giảm tức của Đảng. Thời kỳ 1954 - 
1960, tình hình của tầng lớp phú nông 
cũng chưa có gì chuyển biến đáng kể. 
Như vậy, về cơ bản “cải cách điền 
địa” của Diệm cho đến năm 1960 đã 
khôi phục lại chế độ sở hữu ruộng đất 
của giai cấp địa chủ và tình trạng những 
người không ruộng đất hoặc thiếu ruộng 
vẫn ở mức độ cao dù không bằng mức 
độ trước năm 1945. 
- Giai đoạn 1960 - 1975: 
Đứng trước chính sách “cải cách 
điền địa” hết sức phản động của Mỹ - 
Diệm, từ những năm 60, Mặt trận Dân 
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra 
đời đã nêu cao khẩu hiệu “thực hiện 
giảm tô, đảm bảo nguyên canh, chia lại 
công điền, tiến tới cải cách điền địa” và 
“đảm bảo quyền sở hữu ruộng đất khai 
hoang cho người có công khai phá. Bảo 
hộ quyền sở hữu chính đáng về ruộng 
đất đã được chia của nông dân Bãi bỏ 
các “khu trù mật”, chế độ bắt dân đi 
“dinh điền”. Đồng bào đã bị cưỡng bức 
vào khu “trù mật” và “dinh điền” được 
tự do trở về sinh sống, làm ăn trên 
ruộng đất của mình. Thu ruộng đất của 
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để chia cho 
dân cày nghèo không có ruộng hoặc có 
ít ruộng. Chia lại công điền cho công 
bình, hợp lý. Bằng thương lượng và giá 
cả công bằng hợp lý, nhà nước mua lại 
ruộng đất của điền chủ (có từ mức độ 
nào trở lên là tùy tình hình ruộng đất 
của mỗi địa phương) đem chia cho nông 
dân không đất hoặc thiếu đất. Nông dân 
được chia ruộng đất không phải trả tiền 
và không bị ràng buộc bởi điều kiện 
nào” [1, tr. 64]. 
Chính sách ruộng đất của Đảng 
được thực hiện mạnh mẽ trong và sau 
phong trào Đồng Khởi ở miền Nam 
cuối năm 1959 đầu năm 1960. Một 
trong những nguyên nhân làm dấy lên 
phong trào này chính là chính sách 
cướp đoạt ruộng đất và các chính sách 
đàn áp, khủng bố hết sức dã man của 
chính quyền Ngô Đình Diệm. Phong 
trào Đồng Khởi bắt đầu từ Bến Tre và 
đã lan nhanh khắp vùng đồng bằng 
Nam Bộ, Mỹ Tho, Tân An, Trà Vinh, 
Bạc Liêu, Rạch Giá, Ở nông thôn, 
khẩu hiệu hành động tất yếu của phong 
trào đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ 
trang sôi nổi của quần chúng là chính 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 
100 
quyền và ruộng đất. Đồng Khởi thực 
chất là “phong trào khởi nghĩa của quần 
chúng nông dân, một cuộc khởi nghĩa 
từng phần, phát triển từng bước ở nông 
thôn nhằm giành lấy chính quyền cơ sở 
và một lần nữa giành lại ruộng đất về 
tay mình” [3, tr. 33]. Gò Công (Mỹ 
Tho) là nơi mà Mỹ - Diệm phản công 
mạnh mẽ vào những thành quả cách 
mạng về ruộng đất của ta, đến năm 
1960 nông dân ở đây đã giành lại được 
2/3 ruộng đất mà Mỹ - Diệm cướp đoạt. 
Cũng trong năm 1960, ở 6 tỉnh miền 
Trung Nam Bộ, nông dân đã giành được 
quyền làm chủ trên 60.000 ha đất mà 
chính quyền Cách mạng đã cấp trong 
kháng chiến, giữ nguyên canh trên 
50.000 ha, không đóng tô, không phải 
nộp 2/3 số thuế năm 1959 cho Mỹ - 
Diệm. Riêng ở Tây Nam Bộ, số ruộng 
đất mà nông dân giành lại được là 10 
vạn ha trong số 27 vạn ha Mỹ - Diệm 
cướp đoạt [5, tr. 21]. 
Ở miền Nam, tính đến cuối năm 
1960, nông dân đã làm chủ được 
698.690 ha ở 6 tỉnh. Cụ thể như sau: 
Trà Vinh - 65% diện tích, Sóc Trăng - 
70%, Vĩnh Long - 75%, Cà Mau - 82% 
[1, tr. 67-68]. 
Về giai cấp địa chủ, ở miền Tây 
Nam Bộ đến cuối năm 1965 trong tổng 
số 1.304.700 ha canh tác thì địa chủ 
chiếm 252.570 ha, chiếm 19% diện tích 
canh tác trên toàn miền [3, tr. 27]. 
Như vậy, giai cấp địa chủ ở vùng 
giải phóng đã bị suy yếu đi khá nhiều từ 
sau Đồng Khởi năm 1960, một số địa 
chủ đã thực sự chuyển hướng xuống phú 
nông hay trung nông. Phong trào Đồng 
Khởi đã tạo điều kiện cho trung nông 
phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Nếu 
như trước Cách mạng tháng 8 - 1945, ở 
nông thôn miền Nam, trung nông chỉ 
chiếm 1/4 nhân khẩu và ruộng đất của 
trung nông dưới tỷ lệ 1/4 thì từ sau 1960, 
ở vùng nông thôn giải phóng, trung nông 
đã trở thành lực lượng đông đảo nhất, 
điều này có ý nghĩa quan trọng đối với 
cơ cấu giai cấp xã hội trong nông thôn 
miền Nam. Có thể thấy rằng ở vùng giải 
phóng Nam Bộ, từ sau năm 1960, số 
ruộng đất mà tầng lớp trung nông làm 
chủ chiếm từ 60-91% ruộng đất của 
vùng; về số hộ ở địa phương thì trung 
nông chiếm từ 51-87%, trong đó trung 
nông mới chiếm 37-75%. 
Rõ ràng, với một lực lượng như 
vậy, tầng lớp trung nông đã trở thành 
lực lượng chiếm đa số ở vùng giải 
phóng và đóng vai trò quan trọng trong 
sản xuất nông nghiệp ở đây. Cũng chính 
vì vậy, trung nông rất gắn bó với cách 
mạng, với Đảng, họ có tinh thần chiến 
đấu cao và cũng rất quyết tâm bảo vệ 
thành quả cách mạng. Bên cạnh đó, 
trung nông cũng tích cực đóng góp sức 
người, sức của cho kháng chiến, hăng 
hái tham gia các phong trào đấu tranh 
vũ trang, chính trị, binh vận. Với sự ra 
đời của tầng lớp này, khối liên minh 
công nông đã được tăng cường, đây là 
một trong những nhân tố đảm bảo cho 
sự thắng lợi của cuộc kháng chiến. 
Còn đối với với phú nông thì 
khuynh hướng chuyển sang kinh doanh 
công thương nghiệp theo lối tư sản 
bước đầu phát triển. Lúc này, đồng thời 
với sự suy yếu của giai cấp địa chủ về 
sở hữu ruộng đất thì thành phần kinh tế 
của tầng lớp phú nông cũng đã có khả 
năng phát triển nhất định. Những hoạt 
động công thương nghiệp cũng ngày 
càng phát triển và có tác động mạnh mẽ 
đến nông thôn miền Nam. Trong khi đó, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 
101 
kinh tế phú nông là thành phần tiêu biểu 
cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở 
nông thôn. Do vậy nó cũng ra đời và 
phát triển theo quy luật chung về sự ra 
đời và phát triển của kinh tư bản chủ 
nghĩa trong nông nghiệp. Kinh tế phú 
nông nảy sinh từ kinh tế tiểu nông. 
Chính vì vậy mà một khi ta thực hiện 
chính sách ruộng đất, cấp phát ruộng 
đất cho nông dân, tức là mở rộng kinh 
tế tiểu nông thì về mặt khách quan 
những trung nông khá giả có khả năng 
phát triển lên thành phú nông. Từ cuối 
những năm 60, ở nông thôn vùng giải 
phóng Nam Bộ, kinh tế phú nông, chủ 
nghĩa tư bản trong nông nghiệp đã có 
điều kiện phát triển. 
Mặc dù khả năng tự phát tư bản chủ 
nghĩa trong thực tế đã trở thành hiện 
thực ở một mức độ đáng kể, tuy vậy 
chính sách ruộng đất của ta vẫn có tác 
dụng hạn chế khả năng tự phát này. 
Tóm lại, có thể nói rằng vào những 
năm trước 1970, ở vùng giải phóng của 
miền Nam chế độ sở hữu ruộng đất của 
địa chủ đã bị xóa bỏ cơ bản, giai cấp địa 
chủ hầu như không còn được coi là một 
giai cấp nữa. Tầng lớp trung nông phát 
triển mạnh còn phú nông bắt đầu chuyển 
sang kinh doanh tư bản chủ nghĩa. 
Ruộng đất về tay nông dân lao động. 
Trước thắng lợi của phong trào 
cách mạng trước 1970, đồng thời rút 
kinh nghiệm thất bại của Diệm trong 
chính sách “cải cách điền địa”, Mỹ càng 
thấy cần phải đưa ra một chiêu bài mới 
về vấn đề ruộng đất khác hẳn với những 
gì mà Diệm đã làm. Để chống phá 
phong trào cách mạng miền Nam, Mỹ 
buộc phải có chính sách mới đối với 
nông dân, đặc biệt là chính sách ruộng 
đất để tranh thủ nông dân, tách nông 
dân ra khỏi ảnh hưởng của cách mạng, 
cắm sâu chủ nghĩa thực dân mới vào tới 
tận thôn, xã, tạo ra hình thức bóc lột 
mới bằng cách phát triển chủ nghĩa tư 
bản trong nông nghiệp, tạo cơ sở xã hội 
mới cho chế độ chính trị của Mỹ - 
Ngụy. Đối với địa chủ, Mỹ - Thiệu chủ 
trương “tạo mọi điều kiện để địa chủ 
sang kinh doanh tư bản chủ nghĩa, biến 
chúng thành tư sản mại bản, thành một 
lực lượng phản động, trung thành với 
chế độ thực dân mới” [6, tr. 25]. 
Ngày 26-3-1970, dưới sức ép của 
Mỹ và bằng đồng đô la viện trợ, 
 ... g tư bản chủ nghĩa ở nông thôn 
miền Nam có điều kiện phát triển. Sự 
phân hóa này bước đầu đã hình thành 
hai loại dân cư mới trong nông nghiệp 
là phú nông - tư sản nông thôn và 
những nông dân lao động làm thuê. 
Kinh tế nông nghiệp miền Nam nói 
chung có sự biến đổi theo khuynh 
hướng tư bản chủ nghĩa. Chính sách 
ruộng đất của chính quyền Cách mạng 
và chính quyền Sài Gòn tuy nhằm mục 
đích thống trị khác nhau nhưng đã dẫn 
đến một kết quả: trong khu vực trồng 
lúa và hoa màu phụ, về cơ bản chế độ 
ruộng đất theo kiểu phong kiến ở nông 
thôn miền Nam đã bị tàn lụi và thay vào 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 
104 
đó là chế độ sở hữu nhỏ về ruộng đất 
của những người tiểu nông. Sự chuyển 
biến này có ý nghĩa tích cực đối với quá 
trình phát triển sản xuất nông nghiệp. 
Kết quả kiểm tra canh nông năm 
1960 - 1961 ở miền Nam, mà chủ yếu là 
ở Đồng bằng sông Cửu Long, cho thấy 
quy mô của các hộ canh tác ruộng đất 
(ruộng lúa và hoa màu) (bảng 1). 
Bảng 1: Quy mô của các hộ canh tác ruộng đất ở miền Nam năm 1960 - 1961 
Hạng diện tích 
trực canh 
Số hộ 
trực canh Tỷ lệ % hộ 
Diện tích 
trực canh 
Tỷ lệ % 
diện tích 
Hộ dưới 0,1 ha 168.805 14,36 5.127 0,25 
0,1 - 0,5 ha 161.173 13,71 37.613 1,84 
0,5 - 1 ha 166.333 14,15 107.522 5,25 
1 - 2 ha 300.031 25,51 385.747 19,04 
2 - 3 ha 168.538 13,05 355 17,38 
3 - 5 ha 134.240 11,41 465.102 22,72 
5 - 10 ha 67.363 5,73 424.330 20,73 
10 - 50 ha 17.017 1,45 232.293 11,35 
50 - 100 ha 258 0,02 17.647 0,86 
Trên 100 ha 71 0,05 11.875 0,58 
Nam Bộ 1.175.829 100 2.046.872 100 
(Nguồn [1, tr. 47]) 
Những hộ trên 5 ha chiếm 7,21% số 
hộ đang canh tác nhưng lại chiếm 
33,5% diện tích canh tác. Trong đó 
những hộ từ 5 - 10 ha chiếm 7,73% số 
hộ và 20,37% diện tích canh tác, những 
hộ từ 10 - 15 ha chiếm 1,45% hộ và 
11,35% diện tích canh tác. Nếu lấy 5 ha 
là một diện tích tối đa mà một gia đình 
trung bình 5 người có thể tự canh tác 
bằng lao động của gia đình thì bình 
quân những hộ canh tác trên 5 ha nói 
trên bắt buộc phải bóc lột lao động làm 
thuê. Quy mô canh tác càng cao thì tính 
chất bóc lột lao động làm thuê càng lớn. 
Có thể chia các tầng lớp canh tác chủ 
yếu bằng bóc lột lao động làm thuê làm 
bốn loại [1, tr. 50-53]: 
Những hộ canh tác trên đất riêng 
của mình, họ chủ yếu hay hoàn toàn sử 
dụng bằng lao động làm thuê. Bộ phận 
này ở miền Nam chiếm 1,38% số hộ (họ 
là một bộ phận trung nông khá giả, phú 
nông, tư sản nông thôn, địa chủ trực 
canh) và 7,18% diện tích canh tác. 
Loại hộ vừa có đất nhà vừa mướn 
thêm đất để canh tác chủ yếu là để mở 
rộng quy mô kinh doanh dự trên cơ sở 
bóc lột lao động làm thuê. Những hộ 
này chiếm khoảng 3,36% số hộ canh tác 
và 16,7% diện tích canh tác ở Nam Bộ. 
Loại hộ mướn đất canh tác chủ yếu 
hay hoàn toàn bóc lột lao động làm 
thuê. Những hộ này chiếm khoảng 1% 
số hộ và 8,94% diện tích canh tác ở 
Nam Bộ. 
Loại hộ canh tác không phải là đất 
nhà hay đất mướn. Số hộ này chiếm 
khoảng 0,31% số hộ và 0,7% diện tích 
canh tác ở Nam Bộ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 
105 
Nguồn cung cấp lao động làm thuê 
cho những hộ kinh doanh ruộng đất 
bằng cách bóc lột là từ tầng lớp bần cố 
nông. Lực lượng lao động làm thuê này 
ở Nam Bộ có thể chia ra làm bốn loại 
[1, tr. 56-57]: 
Loại hộ nông dân có đất riêng để 
canh tác nhưng không đủ, họ phải làm 
thuê kiếm sống. Loại này chiếm 10,4% 
số hộ và 1,96% diện tích canh tác. 
Loại hộ tá điền hoàn toàn không có 
đất riêng nên phải canh tác trên đất 
mướn, nhưng vì diện tích đất thuê 
mướn nhỏ nên họ lại phải lao động 
thêm. Loại này chiếm 21,25% số hộ và 
3,29% diện tích canh tác. 
Loại hộ nông dân vừa có đất riêng, 
vừa mướn thêm đất và có thêm một ít đất 
khác nhưng cũng đi làm thuê vì diện tích 
đất canh tác nhỏ. Loại này chiếm 9,53% 
số hộ và 1,63% diện tích canh tác. 
Loại hộ canh tác trên đất không 
phải đất riêng, đất mướn có quy mô 
dưới 1ha. Loại này chiếm 4,6% số hộ và 
0,47% diện tích canh tác. 
Những số liệu trên đã phác họa tổng 
quát về số lượng và quy mô canh tác 
của lực lượng bóc lột lao động làm 
thuê. Qua đó cũng phản ánh sự tồn tại 
của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa 
bên cạnh quan hệ sản xuất phong kiến 
của mức độ lao động nhất định. Dưới 
tác động của chương trình “cải cách 
điền địa” của Diệm ở thời kỳ 1955 - 
1960, chế độ sở hữu ruộng đất của địa 
chủ được khôi phục, đồng thời khuyến 
khích địa chủ đầu tư vào công thương 
nghiệp, duy trì và tạo điều kiện cho 
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong 
nông nghiệp đã xuất hiện tuy còn nhỏ 
bé. Quan hệ sản xuất này tiếp tục phát 
triển ở giai đoạn sau ( 1960 - 1975). 
 2.2.2. Sự chênh lệch về sở hữu 
ruộng đất và quan hệ bóc lột tư bản chủ 
nghĩa ở nông thôn miền Nam giai đoạn 
1970 - 1975 
Như chúng ta đã biết, ở miền Nam 
thời kỳ này, chế độ sở hữu ruộng đất 
của giai cấp địa chủ phong kiến đã bị 
xóa bỏ về cơ bản, đại bộ phận ruộng đất 
canh tác về tay nông dân lao động. Tuy 
vậy, ở mức độ sở hữu ruộng đất giữa 
các tầng lớp nông dân nói riêng, các 
giai cấp ở nông thôn nói chung và giữa 
các địa phương còn có sự chênh lệch. 
Sở dĩ có sự chênh lệch như vậy là do tác 
động của luật “người cày có ruộng” của 
Mỹ - Thiệu cộng với việc ta chưa giải 
quyết được một cách triệt để về vấn đề 
ruộng đất (chưa đồng đều) do điều kiện 
chiến tranh. Bên cạnh đó là sự phát triển 
của nền kinh tế hàng hóa là điều kiện 
thuận lợi cho sự tập trung ruộng đất vào 
tay một số ít nông dân khá giả, phú 
nông. Mức độ của sự chênh lệch này 
cũng khá cao, có thể đưa ra hai ví dụ 
như sau: theo điều tra của Nông vận R 
vào tháng 9 và tháng 10-1971 ở ấp điểm 
Tất Chúc (xã Nhân Hội) bình quân sở 
hữu ruộng đất của mỗi hộ là 1,3 ha, hộ 
có mức sở hữu thấp nhất là 0,18 ha và 
cao nhất là 8 ha; cũng theo điều tra của 
Nông vận R vào 9-1972 bình quân sở 
hữu ruộng đất ở ấp điểm Phú Hiệp (xã 
Phú Hữu) là 3,1 ha/hộ, nhưng sự chênh 
lệch về sở hữu ruộng đất giữa hộ không 
có ruộng đất và hộ nhiều ruộng đất là 
10 ha [1, tr. 136]. Sự chênh lệch về sở 
hữu ruộng đất này vẫn còn tồn tại cho 
đến tận sau ngày đất nước giải phóng 
mặc dù ta đã chủ trương xóa bỏ tàn dư 
chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 
106 
phong kiến và điều chỉnh phần nào tình 
hình ruộng đất. Sự chênh lệch này đã 
tạo ra hệ quả là sự phân hóa thành 
những tầng lớp khác nhau trong nông 
dân nông thôn miền nam giai đoạn 1970 - 
1975, cụ thể có thể phân chia thành bốn 
tầng lớp sau: phú nông - tư sản nông 
thôn, trung nông, nông dân nghèo và 
những hộ không sản xuất nông nghiệp: 
Phú nông - tư sản nông thôn là tầng 
lớp có nhiều ruộng đất và máy móc, thu 
nhập chủ yếu của họ từ sự thuê mướn 
nhân công để vừa kinh doanh ruộng đất 
vừa kinh doanh máy móc hoặc chuyển 
sang kinh doanh máy nông nghiệp. 
Trung nông cũng sở hữu một lượng 
máy móc và ruộng đất khá cao. 
Nông dân nghèo là tầng lớp nông 
dân không có ruộng đất hoặc thiếu 
ruộng đất nên hoàn toàn hay chủ yếu là 
đi lao động làm thuê. Thời kỳ 1970 - 
1975, trong nông thôn miền Nam đã tồn 
tại khá đông đảo tầng lớp này. Đây là 
lực lượng chính cung cấp sức lao động 
làm thuê cho phú nông, tư sản nông 
thôn và trung nông khá giả. Họ bị bóc 
lột sức lao động vừa theo phương thức 
tư bản chủ nghĩa vừa theo phương thức 
phong kiến. 
Những hộ không sản xuất nông 
nghiệp: chủ yếu kiếm sống bằng buôn 
bán, rèn mộc, may mặc, cắt tóc, 
chiếm khoảng 2,01% số hộ [1, tr. 147]. 
Về quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa 
ở nông thôn miền Nam cuối những năm 
60, đầu những năm 70, quá trình cơ khí 
hóa nông nghiệp miền Nam đã có 
những bước phát triển đáng kể. Những 
biến đổi về cơ sở vật chất trong nông 
nghiệp miền Nam đã tạo ra những tiền 
đề làm thay đổi căn bản tập quán và quy 
trình sản xuất nông nghiệp. Trong nhiều 
vùng ở nông thôn miền Nam, trâu cày, 
phân chuồng, cối xay, không còn 
được dùng bao nhiêu, muốn sản xuất thì 
nông dân phải cần đến phân bón, máy 
móc, xăng dầu, và họ thường phải 
mua những thứ ấy với giá khá đắt. 
Mặt khác, do tác động của chính 
sách kinh tế, chính sách ruộng đất “hữu 
sản hóa”, “canh tân hóa”, “bồi thường 
cho địa chủ” mà khuynh hướng kinh 
doanh ngoài nông nghiệp trong nông 
thôn miền Nam đã được thúc đẩy phát 
triển nhiều hơn trước. Những hoạt động 
kinh doanh này đã ngày càng thu hút 
khá đông sự tham gia của địa chủ, phú 
nông, trung nông khá giả, Ở nông 
thôn miền Nam thời kỳ này đã xuất hiện 
thêm nhiều tiệm may quần áo, tiệm bán 
xăng nhớt, sữa chữa cơ khí, các loại 
hàng hóa bày bán và các phương tiện 
giao thông vận tải (xe gắn máy, xe lam, 
ghe máy,) cũng ngày càng gia tăng. 
Chính sự phát triển của những hoạt 
động kinh doanh ngoài nông nghiệp này 
đã làm cho quá trình tích lũy, tập trung 
sản xuất của những hộ phú nông, tư sản 
nông thôn được đẩy mạnh thêm. Còn 
thu nhập của những hộ nông dân lao 
động lúc này cũng không còn đơn thuần 
chỉ dựa vào ruộng đất như trước đây, 
quá trình phân hóa trong nông dân được 
thúc đẩy mạnh thêm, khuynh hướng tự 
phát tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh 
hơn. Bên cạnh đó là sự xuất hiện ngày 
càng nhiều những cơ sở kỹ nghệ dịch 
vụ phục vụ nông nghiệp nông thôn 
miền Nam đã khiến cho nông dân sản 
xuất và tiêu thụ trong một quan hệ mới - 
quan hệ tư bản chủ nghĩa, những đơn vị 
sản xuất và cơ sở kinh doanh ở nông 
thôn bước đầu gắn chặt với hệ thống 
kinh doanh tư bản ở thành thị. 
Giai cấp tư sản mà trên hết là tư sản 
mại bản đã thông qua mạng lưới buôn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 
107 
bán nhập lượng nông nghiệp, lúa gạo 
cũng như thông qua hệ thống tín dụng 
để trực tiếp hay gián tiếp bóc lột nông 
dân. Chẳng hạn như ở huyện Cai Lậy, 
nông dân mua phân thiếu thì bị thiệt gấp 
hai lần mua phân có tiền ngay, hoặc bán 
lúa xấu cho chúng thì giá thấp hơn 25% 
lúa tốt [1, tr. 154]. 
Bên cạnh đó hệ thống ngân hàng 
cho vay lấy lãi, bóc lột nông dân, làm 
cho chi phí của nông dân lên cao, thu 
nhập thực tế của họ bị hạn chế. Ở 
huyện Cai Lậy, theo điều tra của Ban 
Nông nghiệp Trung ương thì khoảng 
40 - 50% thu nhập của nông dân bị hệ 
thống kinh doanh tư bản chủ nghĩa bóc 
lột [1, tr. 154]. 
Như vậy, mối quan hệ giữa thành 
thị và nông thôn - quan hệ bóc lột của 
giai cấp tư sản thành thị đối với nông 
dân ở đồng bằng Nam Bộ ngày càng 
được siết chặt thông qua “trao đổi” 
hàng hóa, chủ yếu là nhập lượng nông 
nghiệp và lúa gạo. 
3. Kết luận 
Nếu như sau cuộc kháng chiến 
chống Pháp của nhân dân ta kết thúc 
thắng lợi, chế độ sở hữu ruộng đất của 
giai cấp địa chủ bị xóa bỏ về cơ bản thì 
bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ ở 
giai đoạn đầu 1955 - 1960, dưới tác 
động của chính sách “cải cách điền địa” 
của Mỹ - Diệm, chế độ sở hữu ruộng 
đất của địa chủ đã được khôi phục và 
tiếp tục duy trì. Sang giai đoạn 1960 - 
1970, do tác động của của chính sách 
ruộng đất của Đảng, giai cấp địa chủ lại 
bị suy sụp dần về chế độ sở hữu ruộng 
đất. Đến giai đoạn 1970 - 1975, khi Mỹ - 
Thiệu nhận thấy không thể tiếp tục duy 
trì phương thức bóc lột theo lối của 
phong kiến địa chủ được nữa, chúng 
ban hành luật “người cày có ruộng” tiếp 
tục xóa bỏ chế độ sở hữu của địa chủ về 
ruộng đất. Mặc dù có nhiều sự xáo trộn 
nhưng nhìn chung trong suốt cuộc 
kháng chiến, xu hướng chính của chế độ 
sở hữu ruộng đất của địa chủ miền Nam 
là sự suy yếu dần và cuối cùng là dẫn 
đến sự tan rã. Cho đến ngày miền Nam 
hoàn toàn giải phóng, phần lớn ruộng 
đất đã về tay nông dân, chế độ sở hữu 
ruộng đất của địa chủ về cơ bản đã bị 
xóa bỏ. 
Song song với quá trình suy yếu và 
tan rã của giai cấp địa chủ và chế độ tá 
canh ở miền Nam là quá trình hình 
thành và phát triển của tầng lớp trung 
nông. Mặt khác, đầu những năm 70, 
dưới tác động của luật “người cày có 
ruộng” của Thiệu cùng với những biện 
pháp đẩy mạnh sự xâm nhập của tư bản 
chủ nghĩa vào nông thôn, nông nghiệp 
miền Nam đã tạo điều kiện cho sự phát 
triển về kinh tế và sở hữu ruộng đất của 
phú nông, tư sản nông thôn ở mức độ 
nhất định. Đồng thời cũng dưới tác 
động của chính sách ruộng đất của Mỹ - 
Thiệu cộng với việc ta chưa giải quyết 
được triệt để vấn đề ruộng đất do chiến 
tranh, ở nông thôn miền Nam 1970 - 
1975, có sự chênh lệch lớn về sở hữu 
ruộng đất và sự chênh lệch này vẫn còn 
tiếp tục tồn tại đến sau ngày giải phóng. 
Cùng với sự xâm nhập kinh tế thực dân 
mới của đế quốc Mỹ, nông dân Nam Bộ 
đã có sự phân hóa, nông nghiệp cũng 
bắt đầu phát triển theo hướng tư bản 
chủ nghĩa. Mối liên hệ này đã phát triển 
khá chặt chẽ. “Chủ nghĩa tư bản ở miền 
Nam tuy mới bước đầu phát triển nhưng 
đã “bám rễ” khá vững chắc ở cả thành 
thị và nông thôn” [1, tr. 163]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482 
108 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Võ Văn Sen (1995), Vấn đề ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt 
Nam, Tập 1, Nxb Tủ sách Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh 
2. Phạm Quang Ngọc (1998), Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch 
sử Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
3. Trần Hữu Đính (1994), Quá trình biến đổi về chế độ sở hữu ruộng đất và cơ 
cấu giai cấp ở nông thôn đồng bằng Sông Cửu Long (1969 - 1975), Nxb Khoa học 
Xã hội, Hà Nội 
5. Trần Hữu Đính (1991), “Quá trình trung nông hóa ở đồng bằng sông Cửu 
Long (1945 - 1975)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4 (267), tr. 11-19 
 5. Nguyễn Công Bình (1961), “Sự phân hóa về chính trị trong các tầng lớp địa 
chủ miền Nam ngày nay”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 27, tr. 6- 22 
6. Cao Văn Lượng (1976), “Chính sách ruộng đất của Mỹ - Ngụy ở miền Nam 
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (171), tr. 16-29 
THE IMPACT OF LAND POLICY ON SOCIO-ECONOMIC 
DEVELOPMENT IN THE SOUTH OF VIETNAM 
IN THE RESISTANCE WAR AGAINST AMERICA EMPIRE 
ABSTRACT 
After the Dien Bien Phu victory and the signing of the Geneva Agreement in 
1954, the United States of America replaced France to rule the South in the new 
form of colonialism. During 20 years of invasion war in the South of Vietnam, the 
American Empire and Saigon government always considered “land reform” and 
“rural pacification” as “national policies” and an important factor that decided the 
success or failure of the war. Farmers - rural areas became the objects and areas 
fiercely fought between us and our enemy during this long and fierce war. The land 
policies of the US – the Republic of Vietnam, and the Revolutionary government 
made a tremendous socio-economic change in the Southern rural area during this 
period. This article focuses on two main following issues: one is the land reform of 
the American Empire - the Republic of Vietnam and the Revolutionary government, 
and the other is the impact of these policies on agriculture and rural areas in the 
South in the resistance war against American Empire. 
Keywords: Lend reform, plow farmers, land policies 
(Received: 10/12/2019, Revised: 25/2/2020, Accepted for publication: 12/3/2020) 

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_chinh_sach_ruong_dat_doi_voi_su_phat_trien_kinh.pdf