Tác động của quy mô hội đồng quản trị đến mức độ rủi ro của các doanh nghiệp Việt Nam
Tóm tắt
Do khó khăn hơn để đạt được một sự đồng thuận chung, các nhóm ra quyết định lớn thường có
xu hướng chấp thuận các quyết định ôn hòa hơn. Điều này ngụ ý rằng các công ty với số lượng
thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) lớn thường có mức chấp nhận rủi ro thấp. Nghiên cứu
này kiểm tra liệu một tác động tương tự có được tìm thấy với các doanh nghiệp Việt Nam, và liệu
cơ hội tăng trưởng có phải là nhân tố điều tiết tác động này hay không. Sử dụng dữ liệu các công
ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE) trong giai đoạn
2007 – 2016, với phương pháp hồi quy chéo, kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng các doanh
nghiệp có quy mô HĐQT lớn hơn tương ứng với mức chấp nhận rủi ro thấp hơn. Tuy nhiên, tác
động này nhỏ hơn ở các nước phát triển. Tính đồng nhất trong cơ cấu HĐQT và ít sự khác biệt
chéo giữa các công ty Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong giải thích sự khác biệt này.
Ngoài ra, nghiên cứu chỉ ra rằng, tác động của quy mô HĐQT là ít đáng kể hơn ở các công ty có
ít cơ hội tăng trưởng, nhưng mạnh hơn ở các công ty có nhiều cơ hội tăng trưởng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của quy mô hội đồng quản trị đến mức độ rủi ro của các doanh nghiệp Việt Nam
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 TÁC ĐỘNG CỦA QUY MÔ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐẾN MỨC ĐỘ RỦI RO CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM THE IMPACTS OF THE BOARD SIZE ON THE RISK TAKING OF VIETNAMESE FIRMS Hồ Thị Lam1 Ngày nhận: 27/3/2018 Ngày nhận bản sửa: 16/4/2018 Ngày đăng: 5/8/2018 1 Trường Đại học Tài chính – Marketing Tóm tắt Do khó khăn hơn để đạt được một sự đồng thuận chung, các nhóm ra quyết định lớn thường có xu hướng chấp thuận các quyết định ôn hòa hơn. Điều này ngụ ý rằng các công ty với số lượng thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) lớn thường có mức chấp nhận rủi ro thấp. Nghiên cứu này kiểm tra liệu một tác động tương tự có được tìm thấy với các doanh nghiệp Việt Nam, và liệu cơ hội tăng trưởng có phải là nhân tố điều tiết tác động này hay không. Sử dụng dữ liệu các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE) trong giai đoạn 2007 – 2016, với phương pháp hồi quy chéo, kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng các doanh nghiệp có quy mô HĐQT lớn hơn tương ứng với mức chấp nhận rủi ro thấp hơn. Tuy nhiên, tác động này nhỏ hơn ở các nước phát triển. Tính đồng nhất trong cơ cấu HĐQT và ít sự khác biệt chéo giữa các công ty Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong giải thích sự khác biệt này. Ngoài ra, nghiên cứu chỉ ra rằng, tác động của quy mô HĐQT là ít đáng kể hơn ở các công ty có ít cơ hội tăng trưởng, nhưng mạnh hơn ở các công ty có nhiều cơ hội tăng trưởng. Từ khóa: Quản trị doanh nghiệp, quy mô HĐQT, chấp nhận rủi ro, cơ hội tăng trưởng, biến động hiệu quả hoạt động. Abstract Due to a greater difficulty to achieve compromise, large decision-making groups tend to adopt less extreme decisions. This implies that larger boards are associated with lower corporate risk taking. This study is tested whether a similar effect applies to the case of Vietnamese firms and whether the growth opportunities is a regulatory factor for this effect. This paper uses data of 97 listed firms on Ho Chi Minh Stock Exchange during the period of 2007 to 2016 and employs cross-sectional regression. The results indicate that firms with larger boards exhibit lower performance volatility. However, the effect is not as significant as in developed countries. The low cross-sectional variation in risk taking and the high homogeneous among Vietnamese firms are found to play a role. In addition, we show that the effect of board size is less significant when firms have fewer of investment opportunities, but much stronger when firms have plenty growth options. Keywords: Corporate Governance, Board Size, Risk Taking, Investment Opportunities, Performance Volatility 19 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 1. Giới thiệu HĐQT là “cơ quan tối cao” của hệ thống quản trị nội bộ của một tổ chức (Fama và Jensen, 1983, trang 311) và được đánh giá là cơ quan bảo vệ hàng đầu (Weisbach, 1988, trang 431) cho các cổ đông chống lại các nhà quản lý đương nhiệm. Do đó, việc thiết kế một HĐQT hợp lý như quy mô, thành phần luôn quan trọng không chỉ đối với cổ đông mà còn đối với hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Jensen (1993) khẳng định rằng các đặc điểm của HĐQT (quy mô, thành phần, cấu trúc sở hữu) là các công cụ phản ánh hiệu quả của HĐQT trong hoạt động kiểm soát các nhà quản lý. Mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô HĐQT và kết quả hoạt động của doanh nghiệp là một phát hiện khá phổ biến trong các tài liệu (Hermalin và Weisbach, 2003, trang 8) do sự nhanh nhẹn, sự kết dính, ít trao đổi hơn và ít chi phí phối hợp hơn cũng như vấn đề người ăn theo ít hơn trong một HĐQT nhỏ hơn (Jensen, 1993). Ngoài ra, các thành viên HĐQT độc lập được coi là các giám sát viên tốt hơn đối với các nhà quản lý bởi vì của các thành viên độc lập đánh giá việc duy trì uy tín trên thị trường các giám đốc là rất quan trọng, nhưng những phát hiện trong trường hợp này là hỗn hợp (Fama và Jensen, 1983; Bhagat và Black, 2002). Các đặc điểm của một HĐQT như quy mô nhỏ, tính độc lập cao và cổ đông ít bị hạn chế quyền lợi được định nghĩa là “HĐQT mạnh” theo Pathan (2009). Chấp nhận rủi ro là điều rất quan trọng cho sự thành công của một doanh nghiệp. Trong khi một số doanh nghiệp có khả năng thất bại bởi những rủi ro mà họ phải đối mặt, thì rất ít doanh nghiệp có thể kỳ vọng phát triển thịnh vượng mà không chịu đựng một mức độ rủi ro nhất định. Vậy điều gì quyết định sự khác biệt giữa các doanh nghiệp trong chấp nhận rủi ro? Lý thuyết chi phí đại diện khẳng định rằng các nhà quản lý miễn cưỡng thực hiện các dự án rủi ro do lo ngại đến phúc lợi cá nhân của họ (Fama, 1980; Holmstrom, 1999; May 1995). Do đó, có vẻ rằng xung đột trong vấn đề đại diện đóng một vai trò quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt trong chấp nhận rủi ro giữa các doanh nghiệp. Các nghiên cứu về tâm lý học xã hội và hành vi tổ chức cho thấy một góc nhìn khác. Theo Kogan và Wallach (1964) và Moscovici và Zavalloni (1969), quy mô của các nhóm ra quyết định có xu hướng có một tác động âm đến chấp nhận rủi ro. Sah và Stiglitz (1986, 1991) lập luận rằng các dự án rủi ro cao hơn ít có khả năng được chấp nhận vì những khó khăn lớn hơn để đạt được một thỏa thuận trong các nhóm lớn. Tương tự như vậy, Adams và Ferreira (2010) cho thấy rằng các nhóm lớn hơn thì ít khắc nghiệt hơn trong các quyết định cá cược của mình, trong khi Bar và cộng sự (2005) đồng ý rằng các quỹ tương hỗ được quản lý theo nhóm ít có khả năng đi chệch phong cách đầu tư công khai của họ so với các nhà quản lý cá nhân. Từ đây có thể thấy quy mô nhóm ra quyết định có thể có tác động nhất định đến chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa quy mô của HĐQT và mức độ chấp nhận rủi ro của doanh 20 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 nghiệp là một hướng nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp. Một số nghiên cứu cung cấp bằng chứng về mối quan hệ giữa mức chấp nhận rủi ro của công ty và quy mô HĐQT trên thị trường phát triển của Hoa Kỳ (Cheng, 2008), New-Zealand (Koerniadi và cộng sự, 2014), và Nhật Bản (Nakano & Nguyen, 2012), tuy nhiên những nghiên cứu ở các thị trường đang phát triển hoặc đang chuyển đổi rất hiếm gặp. Trong nghiên cứu này, tác giả cố gắng để giải quyết hai câu hỏi. Câu hỏi đầu tiên là liệu tác động âm của quy mô HĐQT đến chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp có được tìm thấy đối với các doanh nghiệp tại một nước đang phát triển là Việt Nam. Việt Nam có sự khác biệt so với các nền kinh tế phát triển trên các khía cạnh sau: (i) Sự phát triển của thị trường vốn: Thị trường còn non trẻ, cấu trúc của thị trường chưa thực sự hoàn chỉnh khi hệ thống ngân hàng vẫn giữ vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế, trong khi thị trường chứng khoán (TTCK) tuy có quy mô vốn tăng khá nhanh7, nhưng vẫn chỉ được xếp hạng ở nhóm thị trường cận biên hoặc thị trường mới nổi; (ii) Cơ cấu sở hữu: Sở hữu tập trung chiếm đa số8. Ngoài ra, các doanh nghiệp 7 Đến cuối tháng 5/2017 thị trường cổ phiếu đã đạt 2.400 nghìn tỷ đồng, tương đương 53% GDP. 8 Hàm ý quyền sở hữu và quyền kiểm soát tập trung vào tay một số cá nhân, gia đình, ban quản lý hoặc các định chế cho vay. Những cá nhân và nhóm này (người bên trong) thường kiểm soát và chi phối lớn đến cách thức công ty vận hành. HĐQT của các doanh nghiệp sở hữu tập trung thường là các cổ đông lớn và tham gia điều hành, họ có quyền biểu quyết đáng kể nên có thể kiểm soát doanh nghiệp. Theo thống kê khảo sát 100 Việt Nam còn rất đặc trưng với tỷ lệ sở hữu Nhà nước và ủy quyền cao9. (iii) Văn hóa: Chủ nghĩa tập thể và chi phối bởi các mối quan hệ; (iv) Khung pháp lý: Các nguyên tắc điều hành công ty còn khá mới mẻ và chưa được áp dụng phổ biến. (v) Đặc tính của HĐQT: HĐQT hai tầng – HĐQT và ban kiểm soát, tính đồng nhất cao thể hiện ở số thành viên độc lập ít hơn. Theo Nakano và Nguyen (2012), những đặc tính khác biệt này sẽ khiến cho mức độ tác động của quy mô HĐQT đến mức độ chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp có thể thấp hơn khi so sánh với các nước phát triển. Bởi với một HĐQT đồng nhất, việc thêm một thành viên HĐQT có thể không làm đa dạng các quyết định quản lý như đối với một HĐQT không đồng nhất. Dựa trên các lập luận trên, tác giả phỏng đoán rằng thiết lập thể chế khác nhau và thành phần HĐQT có ảnh hưởng đến việc ra quyết định quản lý cũng sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa quy mô HĐQT và chấp nhận rủi ro của công ty. Câu hỏi thứ hai là liệu các cơ hội tăng trưởng có đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa quy mô HĐQT và chấp nhận rủi ro hay không. Mô hình cơ bản bởi Sah và Stiglitz (1986, 1991) giả định rằng doanh nghiệp có giá trị vốn hóa lớn nhất trên 2 sàn chứng khoán Hà Nội và TP.HCM năm 2010, trung bình 10 cổ đông lớn nắm giữ 70% cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó 5 cổ đông lớn nắm giữ đến 61% (Nguyễn Thu Hiền và Trần Duy Thanh, 2011). 9 Theo Lê Tấn Phước (2017) tỷ lệ sở hữu Nhà nước của các doanh nghiệp niêm yết bình quân chiếm khoảng 23%, cao nhất 98%. 21 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 tất cả các đơn vị ra quyết định đánh giá cùng một số lượng các dự án. Chỉ có quy mô của các đơn vị là khác nhau. Tuy nhiên, các công ty có tập hợp các cơ hội đầu tư thường không đồng nhất. Do đó, không có lý do để tin rằng tác động là giống nhau cho một công ty với đa dạng các khoản đầu tư hấp dẫn và một số công ty khác với ít cơ hội đầu tư có sẵn. Trong thực tế, tác giả cho rằng tác động âm của một HĐQT lớn sẽ mạnh hơn ở các công ty tăng trưởng cao nhưng yếu hơn ở các doanh nghiệp tăng trưởng thấp. Lý do là khi một công ty có một số lượng lớn các dự án, công ty sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn để có được các dự án tốt, hay quá trình sàng lọc sẽ được thực hiện cẩn thận hơn. Kết quả là một số lượng lớn các dự án rủi ro cao bị loại bỏ. Ngược lại, với các công ty có ít các dự án có sẵn, họ thường phải chấp nhận cả các dự án có rủi ro cao để đạt được mục tiêu lợi nhuận. 2. Tổng quan nghiên cứu và các giả thuyết Tác động của quy mô HĐQT đến chấp nhận rủi ro doanh nghiệp Kogan và Wallach (1964) lập luận rằng một nhóm ra quyết định mà có quy mô càng lớn càng làm giảm khuynh hướng chấp nhận rủi ro của nhóm. Lý do là vì, với những quyết định gây nhiều tranh cãi thì sẽ khó khăn hơn để đạt được một sự đồng thuận trong một nhóm lớn những người đồng cấp. Do đó các nhóm lớn cần phải thể hiện vị trí ôn hòa mà đại diện cho một sự thỏa hiệp giữa các vị trí cá nhân của nhóm (Moscovici & Zavalloni, 1969). Sah và Stiglitz (1986, 1991) cụ thể hóa các ý tưởng rằng quyết định cuối cùng của một nhóm phản ánh một sự thỏa hiệp giữa các quan điểm đối lập của mỗi thành viên trong nhóm. Ví dụ, các dự án không tốt có khả năng bị từ chối vì chúng chỉ có thể được chấp nhận nếu đủ số lượng thành viên trong nhóm đồng tình (một cách sai lầm) rằng chúng là những dự án tốt. Nhưng việc phê duyệt dự án (thực sự) tốt cũng đòi hỏi một sự hội tụ tương tự trong quan điểm giữa các thành viên nhóm. Do đó các nhóm lớn kết thúc việc lựa chọn các dự án có hiệu quả trung bình và cũng có xu hướng ổn định hơn. Áp dụng khái niệm này với HĐQT doanh nghiệp, Cheng (2008) cung cấp bằng chứng rằng hiệu quả hoạt động kế toán và dựa trên thị trường của các công ty có HĐQT lớn hơn là ít biến động hơn đáng kể. Những công ty có HĐQT lớn cũng chọn đầu tư ít rủi ro hơn như được chỉ ra bởi sự phân tán nhỏ trong dự báo thu nhập của giới phân tích. Trong trường hợp của các tổ chức tài chính, Pathan (2009) cho thấy rằng quy mô HĐQT có liên quan với biến động lợi nhuận thấp hơn. Kết quả của ông cũng vững với các đo lường rủi ro thay thế như Z-score hoặc tỷ lệ nợ xấu, mà có khả năng phản ánh hoạt động cho vay rủi ro cao hơn. Nakano và Nguyen (2012) cũng tìm thấy kết quả tương tự ở các công ty Nhật Bản nhưng mức độ tác động là nhỏ hơn các nước phát triển với lập luận rằng HĐQT ở các công ty Nhật Bản có tính đồng nhất cao hơn. Dựa trên khái niệm về sự điều tiết trong nhóm cũng như kết quả được báo 22 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 cáo của các nghiên cứu trước, nghiên cứu đưa ra giả thuyết đầu tiên như sau: Giả thuyết 1: Doanh nghiệp có HĐQT càng lớn thì mức chấp nhận rủi ro càng thấp. Vai trò của các cơ hội tăng trưởng Sah và Stiglitz (1986, 1991) xây dựng lập luận của họ cho các công ty dự tính một số lượng cố định các dự án. Trong trường hợp đó, thêm nhiều người tham gia vào nhóm ra quyết định sẽ dẫn đến kết quả là một tỷ lệ cao hơn các dự án rủi ro bị từ chối và một tỷ lệ cao hơn các dự án có rủi ro thấp được chấp nhận. Do đó, đối với mục đích so sánh chấp nhận rủi ro giữa các doanh nghiệp, việc kiểm soát các thông số đó là rất quan trọng. Nói cách khác, người ta cần phải so sánh ảnh hưởng của quy mô HĐQT giữa các doanh nghiệp có cùng một số lượng các dự án. Nhưng rõ ràng là, các công ty có tập hợp các cơ hội đầu tư không đồng nhất. Ví dụ, một công ty sáng lập non trẻ thường có những dự án rủi ro hơn so với một công ty có số năm hoạt động lớn hơn với quy mô tương đương. Do sự không đồng nhất này, ảnh hưởng của quy mô HĐQT có thể khác nhau giữa các doanh nghiệp. Đặc biệt, một nhóm ra quyết định lớn hơn có thể không nhất thiết dẫn đến một tỷ lệ cao hơn các dự án có rủi ro thấp ở những công ty có ít cơ hội đầu tư. Ý tưởng là, với các công ty có ít cơ hội đầu tư, số lượng nhỏ các dự án sẽ ràng buộc HĐQT đưa ra các lựa chọn, do từ bỏ các dự án rủi ro có thể khiến họ không đạt được mục tiêu lợi nhuận. Một công ty có ít dự án cần phải có các khoản đầu tư mạo hiểm để thực hiện. Kết quả là, công ty này sẽ có thể đạt được một giá trị thị trường cao hơn cùng với một hồ sơ công ty có rủi ro cao. Hàm ý này cũng phù hợp với những phát hiện gần đây từ Coles và cộng sự (2008) rằng HĐQT lớn hơn có thể tăng thêm giá trị trong một số trường hợp mặc dù tác động điển hình của việc gia tăng này được coi là tiêu cực (Andres và cộng sự, 2005; Guest, 2009; Yermack, 1996). Ngược lại, một công ty có nhiều cơ hội đầu tư, cho phép HĐQT có thể sàng lọc kỹ càng hơn, cuối cùng có thể sẽ loại bỏ hầu hết các dự án rủi ro của nó nếu nhóm ra quyết định là lớn. Giả sử các khoản đầu tư rủi ro thấp là không giới hạn (ví dụ, đầu tư vào tài sản thanh khoản), khi đó tỷ lệ các dự án rủi ro trên bảng cân đối của công ty sẽ giảm cùng với số lượng thành viên HĐQT. Kết quả là, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội đầu tư và quy mô HĐQT lớn sẽ có hồ sơ rủi ro thấp hơn. Với những lập luận nêu trên, giả thuyết mà nghiên cứu đặt ra về vai trò của cơ hội tăng trưởng trong mối quan hệ giữa quy mô HĐQT và chấp nhận rủi ro như sau: Giả thuyết 2. Mối tương quan âm giữa quy mô HĐQT và mức độ chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp là mạnh hơn ở những công ty có nhiều cơ hội tăng trưởng, nhưng ... hưởng đến biến động suất sinh lợi của các công ty Mỹ. Nhìn chung, tác động của quy mô HĐQT là nhỏ. Một độ lệch chuẩn tăng lên trong log của quy mô HĐQT kết hợp với mức giảm tương đương 0,025% (= 0,139 × 0,18) trong biến động Tobin’s Q. Độ lớn này tương đương với 0,032% (= 0,0252 × 1,25) mức giảm trong biến động Tobin’s Q do giảm một độ lệch chuẩn trong quy mô công ty hoặc 0,046% (= 0,00273 × 16,94) giảm trong biến động Tobin’s Q là kết quả từ việc tăng một độ lệch chuẩn trong đòn bẩy. Trong khi tác động này đối với các công ty Mỹ là lớn hơn nhiều, vào khoảng 0,6% (=0,0211 × 0,28) (theo Cheng, 2008) và cũng thấp hơn so với các công ty Nhật Bản là 0,1% (=0,0028 × 0,3667) theo báo cáo của Nakano và Nguyen (2012). Tác động nhỏ hơn của quy mô HĐQT đến mức chấp nhận rủi ro ở các công ty Việt Nam có thể do HĐQT của các công ty Việt Nam đồng nhất hơn. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam, các thành viên HĐQT bên ngoài tối thiểu là 20%, với các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu, tỷ lệ thành viên bên ngoài trung bình là 37%, song tỷ lệ này ở Mỹ cao hơn rất nhiều, vào khoảng 80% (Coles và cộng sự, 2008). Điều này có nghĩa có đến gần 70% thành viên HĐQT của các công ty Việt Nam là bên trong công ty, họ đang làm việc cho công ty, họ có thể là người tham gia quản lý công ty, nhân viên trong công ty được hưởng lợi ích và thù lao từ chính công ty. Tính đồng nhất cao và ít sự đa dạng của HĐQT các công ty Việt Nam đồng nghĩa với việc quy mô HĐQT có một tác động nhỏ trong việc sàng lọc các quyết định của công ty, bởi vì thêm một thành viên HĐQT lúc này cũng không làm đa dạng các ý kiến như trong một HĐQT không đồng nhất. Một cách giải thích khác là do thiếu sự khác biệt chéo có ý nghĩa giữa các công ty Việt Nam. Thật vậy, thống kê mô tả được báo cáo ở Bảng 1 cho thấy độ lệch chuẩn của biến động ROA là gần 3,6% hay độ lệch chuẩn của biến động suất sinh lợi chứng khoán là 2,55%, trong khi độ lệch chuẩn của biến động ROA của các công ty Mỹ là 8,2% và độ lệch chuẩn của biến động suất sinh lợi chứng khoán Mỹ là cao hơn rất nhiều với 21,6% (theo Wright và cộng sự, 2007). Nếu không có sự khác biệt chéo đáng kể trong biến phụ thuộc giữa các đối tượng, các biến giải thích sẽ bị ràng buộc thiếu sức mạnh thống kê (Nakano và Nguyen, 2012). Hơn nữa, hình thức sở hữu ở các doanh nghiệp Việt Nam cũng tập trung hơn. Chủ yếu các cổ đông lớn (5 đến 10 cổ đông lớn) nắm giữ từ 61% đến 70% cổ phần của các doanh nghiệp niêm yết. Tính sở hữu tập trung này khiến cho mối 31 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 quan hệ giữa việc gia tăng quy mô HĐQT và giảm mức độ chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp là thấp (Haider và Fang, 2016). Vai trò của cơ hội tăng trưởng Mặc dù những kết quả trên cung cấp một vài hỗ trợ giả thuyết 1, tác động của quy mô HĐQT vẫn không có ý nghĩa thống kê trong tất cả các đo lường rủi ro. Lập luận thể hiện ở giả thuyết 2 là tác động của quy mô HĐQT là không đồng nhất ở tất cả các công ty. Để điều tra liệu có sự khác biệt giữa các công ty ít cơ hội tăng trưởng và các công ty có nhiều cơ hội tăng trưởng, tác giả chia mẫu dựa vào Tobin’s Q, theo Nakano và Nguyen (2012). Các công ty có ít cơ hội tăng trưởng được xác định là các công ty có tỷ lệ Tobin’s Q nhỏ hơn trung vị của mẫu, ngược lại các công ty có Tobin’s Q lớn hơn trung vị của mẫu được nhóm vào công ty có nhiều cơ hội tăng trưởng. Bảng 3: Tác động của cơ hội tăng trưởng đến mối quan hệ giữa Quy mô HĐQT và Chấp nhận rủi ro Độ lệch chuẩn của ROA Độ lệch chuẩn của LNQ Độ lệch chuẩn của Suất sinh lợi Low Q High Q Low Q High Q Low Q High Q Ln(BS) -3,19 -1,869 -0,138 -0,252** -0,914 -0,521 (-0,92) (-0,22) (-1,25) (-1,99) (-0,54) (-0,23) INDIR 4,53 -3,41 -0,03 0,04 1,32 -2,14 (1,37) (-0,45) (-0,36) (0,25) (0,85) (-0,97) Ln(DIROWN) -0,69 0,022 -0,0123 0,00921 0,218 -0,122 (-1,50) (0,03) (-1,02) (0,37) (0,78) (-0,46) GOV -0,07 -0,01 0,00 0,00 -0,06*** -0,04 (-1,43) (-0,19) (-0,33) (-0,08) (-3,19) (-1,39) INST -0,0467 -0,0352 -0,0009 -0,0008 -0,0323 -0,018 (-1,32) (-0,43) (-1,26) (-0,39) (-1,49) (-0,84) LNTA -0,781 0,293 0,0264 0,00211 -0,0916 -0,467 (-1,22) (0,21) (1,45) (0,15) (-0,28) (-1,47) CAPEX 0,0849* -0,0044 0,004*** -1,4E-05 0,0717** -0,0109 (1,93) (-0,16) (3,47) (-0,03) (2,40) (-1,29) DEBT 0,00863 -0,024 -0,004*** -0,00135 -0,00495 0,075*** (0,24) (-0,51) (-3,77) (-1,27) (-0,23) (2,85) AGE -0,225 0,46 0,0081 0,0089 0,0996 0,344* (-1,16) (0,55) (1,30) (0,73) (0,84) (1,80) Biến giả ngành Có Có Có Có Có Có F_value 3,34*** 31,56** 13,26*** 63,77*** 4,29*** 3,67*** R2 0,3643 0,2674 0,5972 0,503 0,5301 0,7099 t statistics trong ngoặc đơn * p<0,1, ** p<0,05, *** p<0,01 32 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 Kết quả ước lượng thể hiện ở Bảng 3 mặc dù đều có ý nghĩa kinh tế rằng quy mô HĐQT càng lớn thì mức độ chấp nhận rủi ro càng thấp, song với các công ty tăng trưởng thấp, HĐQT lớn dường như không thể hiện tác động có ý nghĩa thống kê đến chấp nhận rủi ro thấp của doanh nghiệp. Trong khi tại các doanh nghiệp có cơ hội tăng trưởng lớn, HĐQT lớn được kết hợp với chấp nhận rủi ro thấp hơn, và có ý nghĩa thống kê ở mức 5% ở đo lường rủi ro bằng độ lệch chuẩn của Tobin’s Q. Điều này có thể cho thấy, khi các công ty có được nhiều cơ hội đầu tư, việc đa dạng hóa là dễ dàng và do đó việc chấp nhận rủi ro để tìm kiếm lợi nhuận càng được xem xét thận trọng. 5. Kết luận và hàm ý chính sách 5.1 Kết luận Với lập luận chính của tác giả là, do sự khác biệt đáng kể giữa các nền kinh tế phương Tây và Việt Nam trong cơ cấu quản trị, thành phần HĐQT, môi trường thể chế và văn hoá, mối quan hệ tiêu cực giữa quy mô HĐQT và chấp nhận rủi ro doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng. Ngoài ra, nhiều công ty Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng của Nhà nước, một đặc trưng mà có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách rủi ro của các nhà điều hành và HĐQT. Vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả liên kết quy mô HĐQT và chấp nhận rủi ro của các công ty ở Việt Nam, một thị trường đang phát triển, khung pháp lý chưa hoàn thiện và việc áp dụng các nguyên tắc điều hành công ty còn đang trong quá trình điều chỉnh. Nghiên cứu này cung cấp thêm vào các tài liệu hiện có và cung cấp những hiểu biết mới về sự tương tác giữa các tính năng quản trị doanh nghiệp và sự lựa chọn rủi ro quản lý trong một thị trường đang phát triển. Những phát hiện đầu tiên của nghiên cứu là mối liên kết ngược chiều giữa quy mô HĐQT và mức chấp nhận rủi ro của các doanh nghiệp niêm yết trên HoSE. Phù hợp với những phát hiện gần đây của Cheng (2008), Nakano (2011), Nakano và Nguyen (2012), Haider và Fang (2016) Tuy nhiên, tác động kinh tế của sự thay đổi quy mô HĐQT đến chấp nhận rủi ro ở các doanh nghiệp Việt Nam là nhỏ hơn nhiều so với các nền kinh tế phương Tây và các nền kinh tế phát triển khác như Nhật Bản, nhấn mạnh vai trò của tính đồng nhất và tính chất sở hữu tập trung ở các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ hai, tỷ lệ sở hữu của HĐQT, sở hữu Nhà nước và sở hữu của các nhà đầu tư tổ chức có khuynh hướng làm giảm mức chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp. Điều này có thể do lo ngại phúc lợi cá nhân, do tính ỷ lại, hoặc do vấn đề thủ tục pháp lý mà trong đó một dự án muốn được thực hiện cần phải được phê duyệt qua nhiều cấp, mức độ sàng lọc cao hơn nên khả năng để một dự án rủi ro được chấp nhận cũng thấp hơn. Theo lập luận của Coles và cộng sự (2008), tác giả nhắm mục tiêu vào tìm kiếm nhân tố nào có thể làm nên sự khác biệt giữa các công ty trong mối quan hệ giữa quy mô HĐQT và mức độ chấp nhận rủi ro của các doanh nghiệp khác nhau. Sử dụng Tobin’s Q cao hơn trung vị để xác định các doanh nghiệp có đa dạng các cơ hội đầu tư, tác giả nhận thấy rằng biến động hiệu quả hoạt động giảm mạnh khi 33 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 các công ty hoạt động với HĐQT lớn hơn. Mối quan hệ này là không đáng kể ở các công ty có ít cơ hội tăng trưởng. Trong khi, chiều hướng tác động của các biến kiểm soát là tương tự. 5.2 Hàm ý chính sách Kết quả của nghiên cứu chỉ ra quy mô HĐQT càng lớn thì mức chấp nhận rủi ro doanh nghiệp càng giảm, hơn nữa, mối quan hệ này phụ thuộc vào tập hợp các cơ hội đầu tư của doanh nghiệp. Do đó, phù hợp với thảo luận của Hermalin và Weisbach (1998, 2003), các công ty cần phải thiết kết cơ cấu quản trị phù hợp trong môi trường hoạt động của mình. Ví dụ, các công ty có thể xem xét HĐQT nhỏ hơn để phù hợp hơn với điều kiện kinh doanh rủi ro. Trong trường hợp đó, giảm quy mô HĐQT sẽ không gây ra chấp nhận rủi ro lớn hơn. Mặt khác, quan niệm cho rằng rủi ro có liên quan đến sự phức tạp trong các hoạt động của công ty cho thấy rằng các công ty mạo hiểm nên hoạt động với HĐQT lớn hơn vì nhu cầu được tư vấn và giám sát của họ lớn hơn (Coles và cộng sự, 2008; Linck và cộng sự, 2008). Trong bối cảnh nghiên cứu này, hàm ý là các công ty cần điều chỉnh quy mô HĐQT của mình với chất lượng của tập hợp các cơ hội đầu tư của họ. Một công ty có nhiều cơ hội đầu tư, tăng quy mô HĐQT càng làm giảm mức rủi ro của doanh nghiệp. Vì vậy, tùy theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hay bảo toàn giá trị hiện có để thiết lập một HĐQT nhỏ hay lớn, tương ứng. Bởi vì, nếu mục tiêu của doanh nghiệp là gia tăng lợi nhuận, doanh nghiệp cần chấp nhận các dự án rủi ro hơn, khi đó, doanh nghiệp cần duy trì một HĐQT gọn nhẹ, ít thành viên hơn để dễ dàng đạt được sự đồng thuận, và ngược lại. Đặc biệt, bằng cách duy trì quy mô HĐQT lớn trong một môi trường đặc trưng bởi đa dạng các cơ hội đầu tư của các công ty Việt Nam, có thể cản trở khả năng để họ đưa ra quyết định táo bạo và tạo ra giá trị lớn cho doanh nghiệp. Còn với các doanh nghiệp có ít cơ hội đầu tư, tác động của tăng quy mô HĐQT có thể ko mạnh mẽ bằng, tuy nhiên, tác động âm của quy mô HĐQT đến mức độ rủi ro là doanh nghiệp vẫn hiện hữu. Do đó, để phù hợp với số lượng các dự án của mình, các doanh nghiệp này nên thiết kế HĐQT tối giản, mặc dù thực tế không có một quy mô HĐQT tối ưu đối với tất cả các doanh nghiệp, song theo tác giả số lượng thành viên HĐQT nên ở mức 4 đến 5 thành viên, nhằm giảm những ý kiến trái chiều mà có thể dẫn đến loại bỏ hầu hết các dự án, dẫn đến mất cơ hội gia tăng giá trị công ty. Bỏ qua nguyên tắc này có thể sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của công ty, dẫn đến hiệu suất thấp hơn. Tài liệu tham khảo Tiếng Anh Adams, R., Almeida, H., & Ferreira, D. (2005). Powerful CEOs and their impact on corporate performance. Review of Financial Studies, 18, 1403-1432. 34 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 Adams, R. & Ferreira, D. (2010). Moderation in groups: Evidence from betting on ice break-ups in Alaska. Review of Economic Studies, 77, 882-913. Andres, P., Azofra, V., & Lopez, F. (2005). Corporate boards in OECD countries: Size, composition, functioning and effectiveness. Corporate Governance: An International Review, 16, 342-358. Bar, M., Kempf, A., & Ruenzi, S. (2005). Team management and mutual funds. Working Paper, Cologne University. Bhagat, S., & Black B.S. (2002). Board independence and long term firm performance. Journal of Corporation Law, 27, 231-273. Boone, A., Casares Field, L., Karpoff, J., & Raheja, C. (2007). The determinants of corporate board size and composition, An empirical analysis. Journal of Financial Economics, 85, 66–101. Brickley J., Coles J., Terry R. (1994). Outside directors and the adoption of poison pills. Journal of Finance Economic, 35, 371–390. Cheng, S. 2008. Board size and the variability of corporate performance. Journal of Financial Economics, 87, 157-176. Coles, J., Daniel, N., & Naveen, L. (2006). Managerial incentives and risk-taking. Journal of Financial Economics, 79, 431-468. Coles, J., Daniel, N., & Naveen, L. (2008). Boards: Does one size fit all? Journal of Financial Economics, 87, 329-356. Fama, E. (1980). Agency problems and the theory of the firm. Journal of Political Economy, 88, 288-307. Fama, E.F., Jensen, M.C. (1983). Separation of ownership and control. Journal of Law and Economics, 26, 301–325. Guest, P. (2009). The impact of board size on firm value: Evidence from the UK. European Journal of Finance, 15, 385-404. Haider, J & Fang, H-X. (2016). Board Size and Corporate Risk: Evidence from China. Journal of Asia-Pacific Business, 17(3), 229-248. Hermalin, B., Weisbach, M. (1991). The effects of board composition and direct incentives on firm performance. Financial Managemen, 20, 101. Hermalin, B.E., Weisbach, M.S. (2003). Boards of directors as an endogenously determined institution: A survey of the economic literature. FRBNY Economic Policy Review, 9, 7–26. 35 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 Jensen, M. C. M. (1993). The modern industrial revolution, exit, and the failure of internal control systems. Journal of Finance, 48(3), 831–880. Koerniadi, H., Krishnamurti, C., & Tourani-Rad, A. (2014). Corporate governance and risktaking in New Zealand. Australian Journal of Management, 39(2), 227–245. Kogan, N. & Wallach, M. (1964). Risk taking: A study in cognition and personality. New York: Holt. May, D. (1995). Do managerial motives influence firm risk reduction strategies? Journal of Finance, 50, 1291-1308. Mehran, H. (1995). Executive compensation structure, ownership, and firm performance. Journal of Financial Economic, 38, 163–184. Morck, R. & Nakamura, M. (1999). Banks and corporate control in Japan. Journal of Finance, 54, 319–339. Moscovici, S. & Zavalloni, M. (1969). The group as a polarizer of attitudes. Journal of Personality and Social Psychology, 12,125-135. Nguyen, P. (2011). Corporate governance and risk-taking: Evidence from Japanese firms. Pacific-Basin Finance Journal, 19(3), 278–297. Sah, R. & Stiglitz, J. (1986). The architecture of economic systems: Hierarchies and polyarchies. American Economic Review, 76, 716-727. Sah, R. & Stiglitz, J. (1991). The quality of managers in centralized versus decentralized organizations. Quarterly Journal of Economics, 106, 289-295. Weisbach, M.S. (1988). Outside directors and CEO turnover. Journal of Financial Economics, 20, 431–460. Yermack, D. (1996). Higher market valuation of companies with a small board of directors. Journal of Financial Economics, 40, 185-211. Tiếng Việt Nguyễn Thu Hiền & Trần Duy Thanh (2011). Cấu trúc sở hữu và khả năng thao túng doanh nghiệp. Theo huu-va-kha-nang-thao-tung-doanh-nghiep-3255716/. Lê Tấn Phước (2017). Tác động cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp niêm yết. Tạp chí Tài chính, doi/trao-doi-binh-luan/tac-dong-cau-truc-so-huu-den-hieu-qua-hoat-dong-cua-doanh- nghiep-niem-yet-121151.html. 36
File đính kèm:
- tac_dong_cua_quy_mo_hoi_dong_quan_tri_den_muc_do_rui_ro_cua.pdf