Tác động của sở hữu nhà nước đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại - Trường hợp Việt Nam

Tóm tắt

Bài nghiên cứu xem xét sự tác động của sở hữu nhà nước đến hiệu quả hoạt động ngân hàng tại

Việt Nam. Kết quả cho thấy cấu trúc sở hữu có những ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động

của ngân hàng, cụ thể là các ngân hàng nhà nước có hiệu quả hơn các ngân hàng tư nhân về mặt kỹ

thuật nhưng lại không đạt hiệu quả về mặt quy mô. Đồng thời, các ngân hàng nhà nước có vẻ chưa

thực hiện tốt các hoạt động đầu tư, song song đó thì tỷ lệ dự phòng nợ khó đòi cao, phần nào làm

hạn chế hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Đối với các ngân hàng niêm yết, việc niêm yết khiến

các ngân hàng có động lực thực hiện càng nhiều hoạt động để làm gia tăng hiệu quả về mặt quy mô

và lợi nhuận từ đó có thể làm hài lòng các cổ đông hiện tại và thu hút các nhà đầu tư mới. Quy mô

càng lớn thì hiệu quả của các ngân hàng niêm yết càng gia tăng, nhưng những ngân hàng này lại

không đạt hiệu quả cao về mặt kỹ thuật.

pdf 17 trang yennguyen 8680
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của sở hữu nhà nước đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại - Trường hợp Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của sở hữu nhà nước đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại - Trường hợp Việt Nam

Tác động của sở hữu nhà nước đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại - Trường hợp Việt Nam
9Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
TÁC ĐỘNG CỦA SỞ HỮU NHÀ NƯỚC ĐẾN HIỆU QUẢ 
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI - 
TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM
THE INFLUENCE OF STATE OWNERSHIP ON BANK 
PERFORMANCE – THE CASE OF VIETNAM
Dương Trọng Đoàn1
Nguyễn Hữu Huân2
Ngày nhận bài: 18/01/2019 Ngày chấp nhận đăng: 12/03/2019 Ngày đăng: 05/6/2019
Tóm tắt
Bài nghiên cứu xem xét sự tác động của sở hữu nhà nước đến hiệu quả hoạt động ngân hàng tại 
Việt Nam. Kết quả cho thấy cấu trúc sở hữu có những ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động 
của ngân hàng, cụ thể là các ngân hàng nhà nước có hiệu quả hơn các ngân hàng tư nhân về mặt kỹ 
thuật nhưng lại không đạt hiệu quả về mặt quy mô. Đồng thời, các ngân hàng nhà nước có vẻ chưa 
thực hiện tốt các hoạt động đầu tư, song song đó thì tỷ lệ dự phòng nợ khó đòi cao, phần nào làm 
hạn chế hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Đối với các ngân hàng niêm yết, việc niêm yết khiến 
các ngân hàng có động lực thực hiện càng nhiều hoạt động để làm gia tăng hiệu quả về mặt quy mô 
và lợi nhuận từ đó có thể làm hài lòng các cổ đông hiện tại và thu hút các nhà đầu tư mới. Quy mô 
càng lớn thì hiệu quả của các ngân hàng niêm yết càng gia tăng, nhưng những ngân hàng này lại 
không đạt hiệu quả cao về mặt kỹ thuật.
Từ khóa: Sở hữu nhà nước, hệ thống ngân hàng, hiệu quả hoạt động.
Abstract
This paper concentrates on the influence that state ownership has on the performance of Vietnamese 
commercial banks. The results show that ownership structure profoundly affects bank performance, 
i.e. state-owned banks are more efficient than private ones in term of technical efficiency, but not in 
term of scale efficiency. Besides, state-owned banks seem not to be excellent at investment activities 
while loan loss provision is substantially high so bank performance may be badly impacted. Listed 
banks might be more encouraged to implement the activities that can increase bank performance, 
in order to make present stakeholders satisfied as well as attract new ones. The bigger the scale is, 
the more efficient the listed banks become however those banks do not reach good outcome in term 
of technical efficiency.
Keywords: State ownership, banking system, bank performance.
__________________________________________
1 Trường Đại học Ngân hàng; Email: doanduongtrong@gmail.com
2 Trường Đại học Kinh tế TP.HCM; Email: huannguyen@ueh.edu.vn
10
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Vì lý do này, cần thiết phải có quản trị hiệu 
quả trong lĩnh vực ngân hàng tại các nước đang 
phát triển. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự thất bại 
của quản trị doanh nghiệp là một trong những 
nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng tài 
chính châu Á (Becht và cộng sự, 2002) và cuộc 
khủng hoảng toàn cầu ở Mỹ và trên thế giới 
nhấn mạnh tầm quan trọng của quản trị doanh 
nghiệp. Zulkafli và Samad (2007) trích dẫn 
nhiều nghiên cứu nhấn mạnh đến đặc điểm phân 
biệt của ngành ngân hàng và tầm quan trọng của 
quản trị doanh nghiệp đối với các ngân hàng (ví 
dụ Barth và cộng sự, 2006). Ngành ngân hàng 
đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng 
và phát triển kinh tế (Levine, 1997; Khan và 
Senhadji, 2000), do đó cần có những quy định 
nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, Cornett và cộng sự 
(2010) điều tra mối quan hệ giữa các cơ chế 
quản trị doanh nghiệp khác nhau và kết quả hoạt 
động của ngân hàng trong cuộc khủng hoảng 
với một mẫu khoảng 300 ngân hàng giao dịch 
công khai của Hoa Kỳ. Trái với Erkens và cộng 
sự (2010); và Fahlenbrach và Stulz (2011), họ 
tìm ra cách thức quản trị doanh nghiệp tốt hơn, 
ví dụ như một hội đồng độc lập hơn, mức độ 
nhạy cảm của việc chi trả cho hiệu suất cao hơn, 
và sự gia tăng quyền sở hữu nội bộ, sẽ có tương 
quan tích cực đến tình hình khủng hoảng của 
các ngân hàng.
Nhìn chung, ảnh hưởng của cơ cấu quyền 
sở hữu đối với hiệu quả hoạt động của doanh 
nghiệp đã được nghiên cứu rộng rãi. Morck 
và cộng sự (1988) và McConnell (1990) xem 
xét việc định giá các doanh nghiệp có các mô 
hình sở hữu khác nhau, ví dụ như tỷ lệ quyền sở 
hữu quản lý. Short và Keasey (1999) kiểm tra 
hiệu suất của các doanh nghiệp ở Anh đối với 
quyền sở hữu quản lý. Tác động của quyền sở 
hữu nước ngoài đối với hiệu quả hoạt động của 
doanh nghiệp được thể hiện rõ trong các nghiên 
cứu của Aggarwal và Kyaw (2010) và của Lee 
và Kwok (1988), đặc biệt liên quan đến chính 
sách cơ cấu vốn. Một nghiên cứu ban đầu của 
1. Giới thiệu
Các quốc gia đang phát triển nhìn chung 
đang phải đối mặt với thị trường chứng khoán 
chưa phát triển và kém thanh khoản, những rủi 
ro kinh tế, yếu kém trong kiểm soát pháp lý và 
bảo vệ nhà đầu tư, sự can thiệp thường xuyên 
của Chính phủ và sự chiếm ưu thế trong việc 
nắm giữ cổ phần tập trung cũng như kiểm soát 
quyền sở hữu (theo Rabelo và Vasconcelos, 
2002, Ahunwan, 2002; Tsamenyi và cộng sự, 
2007). Yếu tố chủ sở hữu (nước ngoài, gia đình, 
tổ chức hoặc nhà nước) là yếu tố quyết định 
cho một hệ thống ngân hàng lành mạnh. Đặc 
biệt, những thay đổi trong cấu trúc sở hữu mà 
không có cơ quan hỗ trợ và giám sát tại chỗ có 
thể dẫn đến khủng hoảng ngân hàng (Boubakri 
và cộng sự, 2005). Ba loại hình tổ chức ngân 
hàng chủ yếu ở các thị trường mới nổi là ngân 
hàng nhà nước, tư nhân và nước ngoài. Đồng 
thời, điểm mạnh và điểm yếu của các loại hình 
tổ chức và cấu trúc ngân hàng vẫn chưa được 
hiểu rõ. Sự khác biệt rất quan trọng trong việc 
lưu trữ và phân tích bởi vì mỗi loại ngân hàng 
đều khác nhau trong cơ cấu ưu đãi, tổ chức và 
quy định. Ví dụ, ngân hàng nhà nước có ít ưu 
đãi về dòng tiền và gặp vấn đề đạo đức khi đồng 
thời là chủ sở hữu và nhà quản lý, ngân hàng tư 
nhân có ưu đãi về dòng tiền cao hơn và phân 
biệt rõ ràng giữa cơ quan quản lý và chủ sở hữu. 
Mặt khác, các ngân hàng nước ngoài tương đối 
giống các ngân hàng trong nước về các ưu đãi 
dòng tiền và quy định khác nhau về cơ cấu tổ 
chức. Ngân hàng nước ngoài thường có cấu trúc 
đa cấp hơn, với quản lý cấp cao từ các quốc gia 
xa xôi khác. Nhiều nghiên cứu đã lập luận rằng 
mối quan hệ giữa sự tập trung quyền sở hữu 
và hoạt động của công ty rất phức tạp, và các 
nghiên cứu thực nghiệm đã cho ra các kết quả 
khác nhau (Demsetz, 1983, Demsetz và Lehn, 
1985; Shleifer và Vishny, 1986). Bởi vì những 
kết quả này mâu thuẫn và mơ hồ, cho thấy sự 
khác biệt về điều kiện chính trị, kinh tế và thể 
chế sẽ có thể làm thay đổi mối quan hệ nêu trên. 
11
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
điều chỉnh nền kinh tế nước nhà. Điều này đặc 
biệt quan trọng ở các quốc gia nơi nền kinh tế 
còn yếu kém về nhiều mặt, cụ thể tránh những 
sự chi phối của các doanh nghiệp nước ngoài.
Mô hình Grabbing hand (Sự can thiệp 
mang động cơ cá nhân từ những người điều 
hành Chính phủ) chỉ những cá nhân làm việc vì 
lợi ích cá nhân dù ở trong một tổ chức của cộng 
đồng. Điều này được hiểu là những cơ quan 
thuộc quản lý Nhà nước đưa ra những chính 
sách nhằm làm giàu cho bản thân thay vì lợi ích 
của số đông. Chính vì điều này, việc tư nhân 
hóa ngày càng thể hiện vai trò trong nền kinh tế 
nói chung, và hoạt động của ngân hàng thương 
mại nói riêng.
Thuyết “Quiet Life” (Cuộc sống tĩnh lặng) 
cho rằng khi một nhà quản lý hoạt động trong 
một môi trường không có cạnh tranh thì họ sẽ 
không có động lực để tối ưu hóa kết quả kinh 
doanh, bởi họ không gặp bất kỳ một rủi ro nào 
đến từ đối thủ cạnh tranh. Công việc của họ được 
ví như một “cuộc sống tĩnh lặng/bình yên”.
2.2. Quốc gia phát triển
Việc tư nhân hóa là một phần của quá trình 
tự do hóa lớn hơn bao gồm tự do hóa lãi suất, 
tự do tham gia thị trường và nới lỏng hạn ngạch 
cấp phát tín dụng. Đồng thời, một thị trường tỷ 
giá hối đoái tự do hoàn toàn sẽ mở ra nhiều cơ 
hội kiếm lời chênh lệch giá cho các ngân hàng 
được cấp phép (Thorsten, Robert và Afeikhena, 
2005). Gilbert và Wilson (1998) đã khảo sát 
việc tự do hóa hoạt động ngân hàng của các 
ngân hàng tư nhân ở Hàn Quốc vào năm 1980 
và 1994, kết quả nhận thấy điều này góp phần 
cải thiện trong hiệu quả hoạt động. Verbrugge, 
Megginson và Owens (2000) nhận ra việc cải 
thiện hiệu suất biên và sự gia tăng về vốn chủ sở 
hữu giữa các ngân hàng được tư nhân hóa ở các 
nước OECD. Altunbas và cộng sự (2001) xem 
xét ngành ngân hàng ở Đức, tuy hầu như không 
tìm thấy dẫn chứng thuyết phục cho việc ngân 
Elyasiani và Meinster (1988), kiểm tra sự khác 
biệt trong hiệu suất của các ngân hàng Hoa Kỳ 
đối với các thuộc tính cấu trúc sở hữu nước 
ngoài, sở hữu thiểu số và sở hữu công ty. Họ 
nhận thấy rằng mặc dù hiệu suất của các ngân 
hàng nước ngoài không khác với các công ty sở 
hữu ngân hàng, ngân hàng thuộc sở hữu thiểu 
số có khả năng sinh lời rất kém. Các nghiên 
cứu tương tự ở các ngân hàng lục địa bao gồm, 
Maudos và cộng sự (2002), Altunbas và cộng 
sự (2001a), Casu và Girardone (2002). 
Việc đánh giá tính hiệu quả của hình thức 
sở hữu đối với hệ thống ngân hàng cần được 
nghiên cứu tại thị trường cụ thể, vì nghiên cứu 
ở một quốc gia nào đó không thể áp dụng cho 
quốc gia khác được. Bên cạnh đó, ngân hàng 
thương mại là một trong những nhân tố quan 
trọng thúc đẩy nền kinh tế. Chính vì thế, chúng 
tôi thực hiện bài nghiên cứu này với mục đích 
tìm hiểu sự ảnh hưởng của hình thức sở hữu nhà 
nước đến hiệu quả hoạt động ngân hàng thương 
mại Việt Nam trong những năm gần đây. Từ đó, 
những chính sách và hàm ý quản trị được đưa 
ra với những bằng chứng thực nghiệm mới nhất 
tại thị trường Việt Nam.
2. Lược khảo các bài nghiên cứu trước đây, 
cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Lý thuyết đại diện (agency theory) được hiểu 
là mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người đại 
diện. Người đại diện thay mặt chủ sở hữu trong 
các hoạt động kinh doanh, và được kỳ vọng sẽ 
mang lại cho chủ sở hữu lợi ích tốt nhất. Sự 
khác nhau giữa lợi ích của chủ sở hữu và người 
đại diện trở thành lý do cho những mâu thuẫn, 
bởi người đại diện có thể không thực sự vì lợi 
ích của chủ sở hữu.
Mô hình Helping hand (Sự can thiệp hữu 
ích từ Chính phủ) chỉ những hoạt động Nhà 
nước/Chính phủ can thiệp nhằm vực dậy hoặc 
12
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
lợi ích cá nhân thay vì nỗ lực để đạt được lợi 
ích cao nhất cho chủ sở hữu (Bertle và Means, 
1932). Shleifer và Vishny (1997), Capobianc 
và Christiansen (2011) cho rằng chính sự khác 
nhau giữa mục tiêu của Nhà nước và cổ đông 
gây nên ảnh hưởng tiêu cực cho hiệu quả hoạt 
động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc phải 
trả chi phí đại diện cao, cơ cấu quản trị yếu kém 
(Alchian và Demsetz, 1972; Shleifer, 1998) 
được cho là những tác động xấu của sở hữu 
Nhà nước đối với hiệu quả hoạt động. Kế đến là 
vấn đề “người hưởng thụ không trả tiền – free 
rider”. Sở hữu Nhà nước, theo lý thuyết, nghĩa 
là tất cả công dân là đồng sở hữu nhưng trên 
thực tế thì họ lại không có quyền hành gì trong 
việc điều phối quản trị Ngân hàng Nhà nước, 
và đồng nghĩa với việc Chính phủ là cá thể duy 
nhất đại diện quản lý (Huibers, 2005). Vấn đề 
thứ ba là rủi ro đạo đức có thể xảy ra khi Ngân 
hàng Nhà nước thực hiện các ràng buộc ngân 
sách mềm. Ngân hàng Nhà nước hoạt động như 
đại diện tài chính của Chính phủ, thực hiện hỗ 
trợ các Doanh nghiệp Nhà nước (SOEs) vì các 
lý do chính trị hơn là các cân nhắc mang tính 
thương mại. Chính vì thế mà mỗi khi Ngân 
hàng Nhà nước gặp khó khăn, họ thường trông 
chờ vào sự giúp đỡ từ phía Chính phủ nên ban 
quản trị không có động lực để giảm thiểu chi 
phí hay tối đa hóa lợi nhuận. Cuối cùng, thuyết 
“Quiet Life” (Cuộc sống tĩnh lặng) cũng góp 
phần giải thích lý do vì sao sở hữu Nhà nước 
lại không mang lại hiệu quả cao. Một lập luận 
thường thấy khác để giải thích vì sao các doanh 
nghiệp nhà nước thường có hiệu quả kém là do 
các ngân hàng khác biệt rất nhiều so với những 
tổ chức phi tài chính điển hình trong đặc điểm 
hoạt động, mô hình kinh doanh, cấu trúc vốn và 
môi trường pháp lý. Điều này đòi hỏi các cách 
tiếp cận khác nhau để đánh giá hiệu quả doanh 
nghiệp, như một số nghiên cứu tại thị trường 
Hoa Kỳ (Mukherjee và cộng sự, 2001; Barr và 
cộng sự, 2002).
hàng tư nhân hiệu quả hơn ngân hàng quốc 
doanh nhưng ngân hàng tư nhân có ưu thế hơn 
về chi phí và lợi nhuận. Xuất phát từ lý thuyết 
đại diện và lý thuyết lựa chọn cộng đồng (public 
choice theory), Clarke và cộng sự (2005) hay 
Beck và cộng sự (2003) tin rằng sở hữu tư nhân 
hiệu quả hơn sở hữu nhà nước trong việc tạo ra 
các ưu đãi quản lý để tăng năng suất và giảm 
chi phí sản xuất). 
Trong một nghiên cứu xuyên quốc gia, 
Porta, Lopez và Shleifer (2002) nhận thấy rằng 
hiệu quả của các ngân hàng nhà nước kém hơn 
so với các ngân hàng tư nhân. Các tác giả giải 
thích rằng chính trị gia dùng các ngân hàng 
thuộc sở hữu của Chính phủ phục vụ cho các 
mục đích chính trị của họ, nên mới dẫn đến sự 
suy giảm phát triển kinh tế. Bonin (2005) hay 
Yao và cộng sự (2007) cũng nhận thấy các ngân 
hàng tư nhân hoạt động hiệu quả hơn các ngân 
hàng Nhà nước. Barth và cộng sự (2000) thì cho 
rằng quyền sở hữu nhà nước càng cao dẫn đến 
hiệu quả hoạt động càng thấp, ít tiết kiệm và 
vay mượn, năng suất thấp, và tăng trưởng chậm 
hơn. Các nghiên cứu khác kết luận rằng cấu 
trúc sở hữu Nhà nước của ngân hàng làm giảm 
phát triển tài chính (Barth và cộng sự, 1999; 
Thomsen và Perdersen, 2000) và gia tăng nguy 
cơ khủng hoảng hoạt động ngân hàng (Caprio 
và Peria, 2000). 
Cấu trúc sở hữu Nhà nước có thể tác động 
đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp khi mục 
tiêu của Chính phủ và cổ đông không tương 
đồng hay còn được gọi là vấn đề chủ sở hữu – 
người đại diện. Các cổ đông thường muốn tối 
đa hóa lợi nhuận, nhưng Nhà nước lại có nhiều 
mục đích khác về xã hội – tăng việc làm hoặc 
liên quan đến chính trị – ngăn chặn sự thâm 
nhập của các nhà đầu tư nước ngoài và bảo vệ 
sản xuất trong nước. Hoặc có thể là sự phân 
chia giữa sở hữu và quản trị sẽ làm các giám 
đốc (người đại diện) có thể chỉ theo đuổi các 
13
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
cũng như các nước công nghiệp hay Fries và 
Taci (2005) thực hiện nghiên cứu ở Đông Âu. 
Thorsten, Robert và Afeikhena (2005) nghiên 
cứu các ngân hàng thuộc sở hữu chính phủ thiểu 
số ở Nigeria có hiệu quả hoạt động kém (lợi 
nhuận và danh mục cho vay). Berger và cộng 
sự (2009) sử dụng mẫu khảo sát 38 ngân hàng 
Trung Quốc trong giai đoạn 1994-2003, đã 
nhận thấy rằng ngân hàng Nhà nước thuộc “Big 
Four” kém hiệu quả nhất, đồng thời có lượng nợ 
xấu khá cao. Lin và Zhang (2009) cũng đưa ra 
kết luận tương tự. 
Sensarma (2006) phát hiện rằng tại Ấn Độ, 
các ngân hàng công và tư nhân trong nước có 
hiệu quả cao hơn ngân hàng nước ngoài. Tương 
tự, Fries và Taci (2005) trong một nghiên cứu 
tại 15 nước có nền kinh tế đang chuyển đổi ở 
Đông Âu (bao gồm cả Nga) nhận thấy rằng các 
ngân hàng tư nhân có hiệu quả chi phí cao hơn 
các ngân hàng quốc doanh. Tại Argentina, Clark 
và Cull (1999, 2000) tìm thấy bằng chứng cho 
thấy phân bổ tín dụng và hiệu quả cao hơn ở 
các ngân hàng tư nhân. Ngoài ra, Omran (2007 ... p tác động tiêu cực đối với hiệu 
quả hoạt động. Đối với biến ROE, các ngân 
21
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
người gia tăng sẽ liên quan đến tăng chi phí và 
trích lập dự phòng thất thoát do nợ (loan loss 
provisions) nên làm ảnh hương đến khả năng 
sinh lời của ngân hàng và hiệu quả hoạt động 
nói chung. Về chỉ số lạm phát CPI, mối quan hệ 
nghịch biến với hiệu quả hoạt động ngân hàng 
của chỉ số này là một kết quả được dự đoán vì 
khi chỉ số lạm phát càng thấp, chi phí hoạt động 
và chi phí huy động vốn cũng sẽ được giảm 
xuống từ đó làm tăng khả năng sinh lợi của 
ngân hàng.
5. Kết luận và kiến nghị
Các ngân hàng niêm yết, theo kết quả nghiên 
cứu, cho thấy hoạt động khá hiệu quả trong việc 
sử dụng các nguồn vốn cổ đông tạo ra được lợi 
nhuận và quản lý các gói đầu tư hiệu quả. Mặt 
khác, các ngân hàng niêm yết thường phải đối 
mặt với sự kiểm soát của ủy ban chứng khoán 
và việc công bố thông tin. Tuy nhiên, việc niêm 
yết cho thấy điểm tích cực đóng góp cho hiệu 
quả hoạt động của ngân hàng về mặt quy mô. 
Cấu trúc sở hữu nhà nước cho thấy những 
ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kỹ thuật, kết 
quả này khác với kết luận các nghiên cứu trước 
đây vì họ cho rằng việc có sở hữu Nhà nước 
là có sự can thiệp của Chính phủ và phục vụ 
cho các hoạt động chính trị. Điều này được giải 
thích bởi ở Việt Nam các Ngân hàng có sở hữu 
Nhà nước vẫn nhận được các ưu đãi về nguồn 
vốn giá rẻ và nguồn khách hàng lớn là các doanh 
nghiệp nhà nước hơn các doanh nghiệp tư nhân, 
chính sự ưu đãi này mang lại lợi thế cạnh tranh 
và nâng cao hiệu quả hoạt động cho các Ngân 
hàng có sở hữu nhà nước. Dù vậy, cấu trúc sở 
hữu nhà nước lại không đạt hiệu quả theo quy 
mô cho thấy việc quản lý cơ cấu tổ chức chưa 
tốt cũng như sự thiếu đồng bộ trong các dịch 
vụ của ngân hàng. Tuy nhiên, việc trích lập dự 
phòng nợ khó đòi ở các ngân hàng nhà nước 
cao, dù có thể giảm rủi ro từ các khoản nợ khó 
đòi, nhưng lại làm hạn chế nguồn vốn, tác động 
tiêu cực với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
hàng nhà nước có vẻ như chưa có nhiều động 
lực để thúc đẩy cải thiện các hoạt động làm tăng 
chỉ số ROE như các ngân hàng tư nhân khác 
vì họ không cần thu hút vốn đầu tư hoặc chịu 
sự cạnh tranh bởi các ngân hàng khác trên thị 
trường. Điều này có thể liên quan đến việc dịch 
vụ khách hàng tại các ngân hàng thuộc sở hữu 
nhà nước chưa được đánh giá cao so với ngân 
hàng tư nhân. Bên cạnh đó, mối quan hệ nghịch 
biến giữa cấu trúc nhà nước và biến TCR, dù 
chưa có ý nghĩa thống kê đáng kể, thể hiện rằng 
các ngân hàng nhà nước thường có nhiều rủi ro 
cao. Đối với biến NIM, ngân hàng thuộc sở hữu 
nhà nước có mối tương quan nghịch biến, kết 
quả này cho thấy rằng các ngân hàng nhà nước 
có thể chưa thực hiện tốt việc hưởng sự chênh 
lệch giữa hoạt động huy động và hoạt động đầu 
tư tín dụng. Lưu ý, các kết quả giữa cấu trúc sở 
hữu Nhà nước với ROE, TCR và NIM chưa đạt 
được ý nghĩa thống kê đáng kể.
Tác động của các biến kiểm soát, biến BD - 
tỷ lệ giữa lợi nhuận thuần từ các hoạt động khác 
trên tổng tài sản trung bình, có tác động tiêu cực 
đến hiệu quả kỹ thuật. Điều này có thể hiểu là 
việc dùng tài sản cho các hoạt động kinh doanh 
khác không mang lại hiệu quả. Trong khi đó, tỷ 
lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nợ (ENL) có mối 
quan hệ đồng biến với hiệu quả kỹ thuật. Đây 
cũng là kết luận được tìm thấy trong nghiên cứu 
của Boateng, Huang và Kufuor (2015), Sayilgan 
và Yildirim (2009), Abreu và Mendes (2002),... 
Tỷ lệ ENL thể hiện được khả năng thanh toán 
của ngân hàng trong dài hạn, nên nếu ENL cao 
chứng tỏ khả năng thanh toán các khoản nợ tốt 
và có thể suy ra ngân hàng đang hoạt động có 
hiệu quả.
Khi xem xét tác động của các yếu tố vĩ mô, 
GDP bình quân đầu người – PCGDP không ghi 
nhận ý nghĩa thống kê. Kết quả này khác với 
các nghiên cứu của Boateng và cộng sự (2015), 
Claesseus và cộng sự (2001). Theo giải thích 
của các nghiên cứu này, GDPG bình quân đầu 
22
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Tài liệu tham khảo
Abdul, H.Zulkafli và Fazilah, A. Samad, (2007). “Corporate Governance and Performance of 
Banking Firms: Evidence from Asian Emerging Markets”. Emerald Group Publishing Limted, 
12, 49 – 74.
Aggarwal, R. và Kyaw, N., (2010). “Capital structure, dividend policy, and multinationality: Theory 
versus empirical evidence”. International Review of Financial Analysis, 19(2), 140 – 150. 
Ahunwan, B., (2002). “Corporate gorvernance in Nigeria”. Journal of Business Ethics, 37(3), 269 
– 287.
Andrei, S. và Robert, W.Vishny, (1997). “A Survey of Corporate Governance”. The Journal of 
Finance, 57(2), 737 – 783.
Armen, A. Alchian, (1972).“Production, Information Costs, and Economic Organization”. The 
American Economic Review, 62(5), 777-795
Athanasoglou, P. P., Sophocles, N. B., Matthaios D. Delis, (2008). “Bank – specific, industry 
– specific and macroeconomic determinants of bank profitability”. Journal of International 
Financial Markets, Institutions and Money, 18(2), 121 – 136.
Barbara,C. và Claudia,G., (2002). “A comparative study of the cost efficiency of Italian bank 
conglomerates”. Managerial Finance, 28(9), 3 – 23. 
Barr, R.S.,Killgo, K.A., Siems, T.F., (2002). “Evaluating the Productive Efficiency and Performance 
of U.S. Commercial Banks”. Managerial Finance, 28(8), 3 – 25.
Barth, J.R., Lin, C., Ma, Y., Seade, J., (2006). “Do bank regulation, supervision and monitoring 
enhance or impede bank efficiency?”. Journal of Banking & Finance, 37(8), 2879 – 2892.
Beck, T.,Demirgüç-Kunt, A., Maksimovic, V., (2003). “Bank competition and access to 
finance:international evidence”. Journal of Money, Credit and Banking, 36(3), 627 – 648.
Belen Villalonga, (2004). “Diversification Discount or Premium? New Evidence from the Business 
Information Tracking Series”. Journal of Finance, 59(2), 479 – 506.
Berger, A. N., Bonaccorsi, E. D. P., (2005). “Capital Structure and Firm performance: A new 
approach to testing agency theory and an application to the banking industry”. Journal of 
Banking & Finance, 30(4), 1065 – 1102.
Berger, A. N., Clarke, G. R. G., Cull, R., Klapper, L., (2005). “Corporate governance and bank 
performance: A joint analysis of the static, selection, and dynamic effects of domestic, foreign, 
and state ownership”. Journal of Banking & Finance, 29(8-9), 2179 – 2221. 
Berger,A.N., Hasan, I., Zhou, M. (2009) .“Bank ownership and efficiency in China: What will 
happen in the world’s largest nation?”. Journal of Banking & Finance, 33(1), 113 – 130.
Boateng, A., Huang, W., Kufuor, N. K., (2015). “Commercial bank ownership and performance in 
China”. Applied Economics, 47(49), 5320 – 5336.
Bonin, J.P., Hasan, I., Wachtel, P., (2005).”Bank performance, efficiency and ownership in transition 
countries”. Journal of Banking & Finance, 29(1), 31 – 53. 
Boubakri, N.J.C., Cosset,G., và Fisher, K., (2005), “Ownership structure and the performance of 
privatized banks”. Journal of Banking and Finance, 29 (8), 2015 - 2041.
Cornett, L. Guo, Khaksari, S.,Tehranian, H., (2000). “The impact of state ownership on performance 
differences in privately-owned versus state-owned banks: An international comparison”. 
Journal of Financial Intermediation, 19(1), 74 – 94.
23
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Thanh, Ngo, 2012, “Measuring the Performance of the Banking System Case of Vietnam (1990- 
2010)”, Journal of Applied Finance & Banking. 2(2): 289-312.
Demsetz, H. (1983), “The structure of ownership and the theory of the firm”. Journal of Law and 
Economic, 26( 2), 357 - 390.
Duc, P., Anil, M., (2015).“Ownership structure and firm performance: Evidence from Vietnamese 
listed firms”. Australian Economic Papers, 55(1), 63 – 98.
Elsas, R., Hackethal, A., Holzhäuser, M., (2010). “The Anatomy of Bank Diversification”. SSRN 
Electronic Journal, 34(6), 1274 – 1287.
Elyasiani, E. và Meinster, D.R., (1988). “The performance of foreign owned, minority owned, and 
holding company owned banks in the U.S”. Journal of Banking & Finance, 12(2), 293 – 313. 
Firth, M.,Lin, C.,Wong, S.M.L., (2008). “Leverage and investment under a state-owned bank 
lending environment: Evidence from China”. Journal of Corporate Finance, 14(5), 642 – 653.
Fu, X.M., Heffernan, S., (2009). “The effects of reform on China’s bank structure and performance”. 
Journal of Banking & Finance, 33(1), 39 – 52.
García-Herrero, A., Gavilá, S., Santabárbara, D., (2009). “What explains the low profitability of 
Chinese banks?”. Journal of Banking & Finance,33(11), 2080 – 2092.
George, R. G. Clarke, Robert Cull, Shirley, M.M., (2005). “Bank privatization in developing 
countries: A summary of lessons and findings”. Journal of Banking & Finance, 29(8-9), 1905 
– 1930.
Gilbert,R.A., Wilson, P.W., (1998). “Effects of Deregulation on the Productivity of Korean Banks”. 
Journal of Economics and Business, 50(2), 133 – 155.
H. SemihYildirim và George, C. Philippatos, (2007). “Efficiency of banks: recent evidence from 
the transition economies of Europe 1993–2000”. European Journal of Finance, 13(2), 123 – 
143.
Harold Demsetz và Kenneth Lehn, (1985). “The Structure of corporate ownership: causes and 
consequences”. Journal of Political Economy, 96(6), 1155 – 1177.
Helen, S. và Kelvin, K., (1999). “Managerial ownership and the performance of firms: Evidence 
from the UK”. Journal of Corporate Finance, 5(1), 79 – 101.
Huibers, (2005). “Initial Public Offerings. In The Future of State-Owned Financial Institutions”. 
Journal of Chinese Economic and Business Studies, 10(2), 131 – 146.
Isik, I., Hassan, M.K., (2002). “Cost and Profit Efficiency of the Turkish Banking Industry: An 
Empirical Investigation”. Financial Review, 37(2), 257 – 279.
Jeremy, C. Stein, (1997). “Internal Capital Markets and the Competition for Corporate Resources”. 
Journal of Finance,52(1) ,111 – 133.
John, J. McConnell và Henri, S., (1990). “Additional evidence on equity ownership and corporate 
value”. Journal of Financial Economics, 27(2), 595 – 612.
Jonathan, W. và Nghia, N., (2005). “Financial liberalisation, crisis, and restructuring: A comparative 
study of bank performance and bank governance in South East Asia”. Journal of Banking & 
Finance, 29(8-9), 2119 – 2154.
Kumbhakar, S.C., Sarkar, S. (2003). “Deregulation, Ownership, and Productivity Growth in the 
Banking Industry: Evidence from India”. Journey of Money, Credit and Banking, 35(3), 403 – 
424.
24
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Kwang Chul, L.và Chuck, C.Y.K., (1988). “Multinational Corporations vs. Domestic Corporations: 
International Environmental Factors and Determinants of Capital Structure”. Journal of 
International Business Studies, 19(2), 195 – 217.
Levine, R., (1997). “Financial Development and Economic Growth: Views and Agenda”. Journal 
of Economic Literature, 35(2), 688 – 726.
Lianxi Zhou và Amy Wong, (2008). “Consumer Impulse Buying and In – Store Stimuli in Chinese 
Supermarkets”. Journal of International Consumer Marketing, 16(2), 37 – 53.
Mathew,T., Elsie, E. A., Joseph, O., (2007). “Disclosure and corporate governance in developing 
countries: evidence from Ghana”. Managerial Auditing Journal, 22(3), 319 – 334.
Maudos, J., Pastor, J.M., Perez, F., (2002). “Competition and efficiency in the Spanish banking 
sector: the importance of specialization”. Applied Financial Economics, 12(7), 505 – 516.
Mian, A., (2003). “Foreign, private domestic, and government banks: New evidence from emerging 
markets”. Journal of Banking and Finance, 27 (7), 1219 – 1410.
Mohammed Omran, (2007). “Privatization, State Ownership, and Bank Performance in Egypt”. 
World Development, 35(4), 714 – 733.
Morck, R., Shleifer, A.,Vishny, R.W., (1988). ”Management Ownership and Market Valuation: An 
Empirical Analysis”. Journal of Financial Economics, 20(1-2), 293 – 315.
Mukherjee, K., Ray, S.C., Miller, S.M, (2001). “Productivity growth in large US commercial banks: 
The initial post-deregulation experience”. Journal of Banking & Finance, 25(5), 913 – 939.
Ngô, D.Thanh (2012). “Measuring the Performance of the Banking System Case of Viet Nam”. 
Journal of Applied Finance and Banking, 2, 289 – 312.
Nguyễn,T.T.Thương (2017). “Hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại trên địa bàn Thái 
Nguyên”. Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ, 50d, 52 – 62.
Nutt, B., (2000). “Four competing futures of facility management”. Facilities, 18(3-4), 124 – 132.
Porta, R.L., Lopez-De-Silanes, F. và Shleifer, A., (2002). “Government Ownership of Banks”. 
Journal of Finance, 57(1), 265 – 301.
Phạm, T.B.Lương (2006). Luận án Tiến sĩ: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của 
Ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam hiện nay”. Truy xuất từ website: 
uquahoatdongnganhangthuongmaivietnamhiennay 
Roman Matousek và AnitaTaci, (2002). “Banking Efficiency in Transition Economies: Em pirical 
Evidence from the Czech Republic”. Economic Change and Restructing, 37(3), 225 – 244.
Sarra, B. S. Zouari và Neila, B.Taktak, (2012). “Ownership structure and financial performance 
in Islamic banks: Does bank ownership matter?”. Middle Eastern Finance and Management, 
7(2), 146 – 160.
Sayilgan,G., và Yildirim, O., (2009). “Determinants of profitability in Turkish banking sector: 2002 
– 2007”. International Research Journal of Finance and Economics, 1(1), 17 – 27.
Sensarma, R., (2006). “Are foreign banks always the best? Comparison of state-owned, private 
and foreign banks in India”. Economic Modelling, 23(4), 717 – 735.
Shleifer, A., (1998). “State versus private ownership”. Journal of Economic Perspectives,12 (4), 
133-150.
Shujie, Y., Jiang, C.,Feng, G., Willenbockel, D., (2007). “On the Efficiency of Chinese Banks and 
WTO Challenges”. Managerial Finance, 40(10), 969 – 986.
25
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Steven,F. và AnitaTaci, (2005). “Cost efficiency of banks in transition: Evidence from 289 banks 
in 15 post-communist countries”. Journal of Banking & Finance, 29(1), 55 – 81.
Thorsten, B., Robert, C., Afeikhena, J., (2005). “Bank privatization and performance: Empirical 
evidence from Nigeria”. Journal of Banking & Finance, 29(8-9), 2355 – 2379.
Trần, H.Hoàng và Nguyễn H.Huân (2016). “Phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động 
của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập tài chính quốc tế”. Phát 
triển Khoa học và Công nghệ 2016, 19, 88 – 101.
William, L. Megginson, (2005). “The economics of bank privatization”. Journal of Banking & 
Finance, 29(8-9), 1931 – 1980.
Xiaochin, L. và Yi Zhang, (2009). “Bank ownership reform and bank performance in China”. 
Journal of Banking & Finance, 33(1), 20 – 29.
Yener Altunbas, Lynne Evans và Philip Molyneux, (2001). “Bank Ownership and Efficiency”. 
Journal of Money, Credit and Banking, 33(4), 926 – 954.
Yeyati, E. L., Micco, A., (2007). “Concentration and foreign penetration in Latin American Banking 
Sectors: Impact on competition and risk”. Journal of Banking & Finance, 31(6), 1633 – 1647.

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_so_huu_nha_nuoc_den_hieu_qua_hoat_dong_cua_ngan.pdf