Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế: Bằng chứng ở các nước Đông Nam Á

Nghiên cứu phân tích tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế tại một số nước Đông Nam Á bên cạnh các yếu tố về lạm phát, đầu tư nước ngoài và tín dụng nội địa khu vực tư. Để đánh

giá hệ số hồi quy của các biến trong mô hình, tác giả sử dụng mô hình hiệu ứng

cố định cho dữ liệu bảng trong khoảng thời gian từ 2001-2013. Bên cạnh đó,

để đảm bảo tính vững cho các ước lượng, phương pháp bình phương tối thiểu

tổng quát (GLS) cũng được sử dụng trong các kết quả ước lượng. Kết quả thực

nghiệm cho thấy thâm hụt ngân sách, tín dụng khu vực tư tác động tiêu cực đến

tăng trưởng kinh tế, đầu tư nước ngoài tác động tích cực đến tăng trưởng kinh

tế, còn lạm phát thì không có ý nghĩa thống kê.

pdf 5 trang yennguyen 7300
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế: Bằng chứng ở các nước Đông Nam Á", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế: Bằng chứng ở các nước Đông Nam Á

Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế: Bằng chứng ở các nước Đông Nam Á
Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi 
19
1. giới thiệu
Ngân sách nhà nước là quỹ 
tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà 
nước và là công cụ vật chất quan 
trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh 
tế - xã hội. Ngân sách có thể thâm 
hụt hoặc thặng dư. Thâm hụt ngân 
sách nhà nước đã trở thành hiện 
tượng phổ biến ở hầu hết các nước 
bao gồm các quốc gia đang phát 
triển và quốc gia phát triển. Tác 
động của thâm hụt ngân sách lên 
các biến kinh tế vĩ mô luôn là một 
chủ đề gây tranh luận trong nhiều 
thập kỷ qua và chiếm một vị trí 
nổi bật trong các nghiên cứu của 
các học giả trên thế giới. Có nhiều 
quan điểm khác nhau giữa các nhà 
kinh tế về mối quan hệ này. Một 
số ủng hộ thâm hụt ngân sách và 
nghĩ rằng nó có lợi cho tăng trưởng 
kinh tế, trong khi đó một số khác 
nghĩ rằng thặng dư ngân sách là 
một điều may mắn cho nền kinh 
tế. Trên lý thuyết người ta đề cập 
rằng thâm hụt ngân sách có thể ảnh 
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến 
nền kinh tế tùy theo tỷ lệ thâm hụt 
và xét trong ngắn hạn hay dài hạn. 
Nghiên cứu của Ahmad (2013 về 
vai trò của thâm hụt ngân sách đối 
với tăng trưởng kinh tế ở Pakistan 
cho thấy thâm hụt có tác động tích 
cực đối với tăng trưởng kinh tế. 
Okelo (2013) cũng cho thấy thâm 
hụt ngân sách có thể giúp tăng 
trưởng kinh tế vì nó giúp làm tăng 
hiệu quả tái cấu trúc, giáo dục, 
phúc lợi xã hội.
Bose & cộng sự (2007) cũng 
cho rằng khi khoản thâm hụt này 
giúp giải quyết vấn đề giáo dục, 
sức khỏe và chi phí vay vốn thấp 
thì sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Nhưng 
nếu khoản thâm hụt này là lớn và 
kéo dài thì sẽ giảm đầu tư hay dễ 
xảy ra tình trạng thâm hụt kép (vừa 
bị thâm hụt ngân sách vừa bị thâm 
hụt tài khoản vãng lai). Bên cạnh 
đó, nghiên cứu của Cinar & cộng 
sự (2014) và Huynh (2007) đã phát 
hiện ra mối quan hệ này là tiêu cực. 
Shojai (1999) thì cho rằng thâm hụt 
ngân sách nếu được tài trợ bởi ngân 
hàng trung ương thì có thể dẫn đến 
sự kém hiệu quả trong thị trường 
tài chính và làm suy yếu khả năng 
cạnh tranh của nền kinh tế.
Các quốc gia Đông Nam Á từ 
lâu được biết đến với tình trạng 
thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài. 
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh 
tế tại các quốc gia này vẫn được 
Tác động của thâm hụt ngân sách 
đến tăng trưởng kinh tế: Bằng chứng 
ở các nước Đông Nam Á
ĐặNg VăN CườNg
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM 
PhạM Lê TrúC QuỳNh
Phòng Tài chính quận Bình Tân
Nghiên cứu phân tích tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế tại một số nước Đông Nam Á bên cạnh các yếu tố về lạm phát, đầu tư nước ngoài và tín dụng nội địa khu vực tư. Để đánh 
giá hệ số hồi quy của các biến trong mô hình, tác giả sử dụng mô hình hiệu ứng 
cố định cho dữ liệu bảng trong khoảng thời gian từ 2001-2013. Bên cạnh đó, 
để đảm bảo tính vững cho các ước lượng, phương pháp bình phương tối thiểu 
tổng quát (GLS) cũng được sử dụng trong các kết quả ước lượng. Kết quả thực 
nghiệm cho thấy thâm hụt ngân sách, tín dụng khu vực tư tác động tiêu cực đến 
tăng trưởng kinh tế, đầu tư nước ngoài tác động tích cực đến tăng trưởng kinh 
tế, còn lạm phát thì không có ý nghĩa thống kê.
Từ khóa: Thâm hụt ngân sách, tăng trưởng kinh tế, FEM, REM, GLS.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 23(33) - Tháng 07-08/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi 
20
đánh giá cao trong thời gian qua. 
Vì vậy, trong nghiên cứu này, tác 
giả sử dụng dữ liệu giai đoạn 2001-
2013 của các quốc gia Đông Nam 
Á nhằm xác nhận lại mối quan hệ 
giữa thâm hụt và tăng trưởng tại 
các quốc gia này.
2. Mối quan hệ giữa thâm hụt 
ngân sách và tăng trưởng kinh 
tế
Các nghiên cứu trước đây về 
tác động của thâm hụt ngân sách 
lên tăng trưởng kinh tế đã cho ra 
các kết quả còn gây nhiều tranh cãi, 
tích cực có, tiêu cực có và kể cả 
trung lập cũng xuất hiện. Mặt khác, 
kết quả của các nghiên cứu này còn 
phụ thuộc vào phạm vi nghiên cứu 
cũng như là thời gian khảo sát.
Bose (2007) nghiên cứu chi tiêu 
công và tăng trưởng kinh tế, thực 
hiện phân tích riêng lẻ đối với các 
quốc gia đang phát triển đã tìm 
thấy mối quan hệ giữa thâm hụt 
ngân sách và tăng trưởng kinh tế 
là cùng chiều. Tuy nhiên, Ramzan 
& cộng sự (2013) nghiên cứu mối 
quan hệ thâm hụt ngân sách và tăng 
trưởng kinh tế Pakistan. Tác giả sử 
dụng dữ liệu chuỗi thời gian trong 
giai đoạn 1980-2010 và phát hiện 
tồn tại mối quan hệ tuyến tính giữa 
GDP và thâm hụt ngân sách. Ngoài 
ra, Ahmad (2013) đã khảo sát mối 
quan hệ giữa thâm hụt ngân sách 
và tăng trưởng kinh tế ở Pakistan 
và kết luận rằng có tích cực nhưng 
vẫn không đáng kể.
Risti & cộng sự (2013) cũng 
xem xét ảnh hưởng của thâm hụt 
ngân sách lên tăng trưởng kinh tế 
ở Romania, sử dụng dữ liệu chuỗi 
thời gian từ 2000-2010 nhận được 
kết quả hai biến này có mối quan 
hệ cùng chiều, tuy nhiên nếu mức 
thâm hụt ngân sách này vượt 3% 
thì điều này mới xảy ra, còn nếu 
dưới 1.5% thì lại là trung lập, 
không ảnh hướng tới tăng trưởng 
kinh tế. Odhiambo et.al (2013) 
tìm hiểu mối quan hệ giữa thâm 
hụt tài chính và tăng trưởng kinh 
tế ở Kenya. Nghiên cứu kết luận 
thâm hụt tài chính có thể giúp tăng 
trưởng kinh tế vì nó giúp làm tăng 
hiệu quả tái cấu trúc nền kinh tế, 
cải thiện chất lượng giáo dục, và 
tăng phúc lợi xã hội.
Al-Khedar (1996) thâm hụt 
ngân sách làm cho lãi suất tăng 
trong ngắn hạn, nhưng trong dài 
hạn lại không bị ảnh hưởng. Ông 
đã nghiên cứu sử dụng mô hình 
VAR bằng dữ liệu thu thập của 
các nước G7 trong khoảng thời 
gian 1964-1993. Ông cũng phát 
hiện ra sự thâm hụt ảnh hưởng tiêu 
cực đến cán cân thương mai. Tuy 
nhiên, thâm hụt ngân sách lại có 
ảnh hưởng mạnh và tích cực trong 
tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Ở khía cạnh khác, nghiên cứu 
của Qureshi & Ali (2010) xem 
xét mối quan hệ nợ công và tăng 
trưởng kinh tế ở Pakistan. Họ đã 
sử dụng phương pháp ước lượng 
OLS cho mô hình có dữ liệu chuỗi 
thời gian trong giai đoạn 1981-
2008. Kết quả cho thấy tồn tại mối 
quan hệ ngược chiều giữa nợ công 
và tăng trưởng. Tương tự, Fatima 
et.al (2012) sử dụng dữ liệu chuỗi 
thời gian trong giai đoạn 1978-
2009 xem xét những ảnh hưởng 
logic của thâm hụt ngân sách lên 
tăng trưởng kinh tế ở Pakistan thì 
tìm thấy bằng chứng mối quan hệ 
nghịch của hai biến này. 
Cinar & cộng sự (2014) xem 
xét vai trò của chính sách thâm 
hụt ngân sách đối với tăng trưởng 
kinh tế. Nghiên cứu khảo sát tại hai 
nhóm quốc gia phát triển và đang 
phát triển. Kết quả cho rằng trong 
ngắn hạn thâm hụt tác động ngược 
chiều với tăng trưởng kinh tể ở cả 
hai nhóm quốc gia này. Tuy nhiên 
đối với các năm quốc gia đứng đầu 
(Luxembourg, Ireland, Slovakia, 
Slovenia, Finland) thì tác động này 
có ý nghĩa thống kê, còn năm quốc 
gia đứng chót (Austria, Belgium, 
Italy, Portugal, Greece) thì không 
có ý nghĩa thống kê. Trong khí 
đó, trong dài hạn thì không tồn tại 
mối quan hệ giữa thâm hụt và tăng 
trưởng cho cả hai nhóm này.
Huynh (2007) tiến hành nghiên 
cứu của mình khi thu thập dữ liệu 
từ các nước đang phát triển ở Đông 
Nam Á trong khoảng 1990-2006. 
Ông kết luận thâm hụt ngân sách có 
tác động tiêu cực đến tăng trưởng 
GDP của các quốc gia. Ngoài ra, 
ông cũng phát hiện tác động chèn 
lấn do gánh nặng thâm hụt ngân 
sách gia tăng làm giảm đầu tư khu 
vực tư nhân.
 Kết quả thực nghiệm cho thấy 
tác động của thâm hụt ngân sách 
đến tăng trưởng kinh tế còn phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố về mặt 
không gian, thời gian và cá yếu tố 
vĩ mô khác. Vì vậy, nghiên cứu này 
nhằm tìm kiếm bằng chứng thực 
nghiệm về sự tác động này với các 
phương pháp ước lượng dữ liệu 
bảng đáng tin vậy và các biến kiểm 
soát vĩ mô tại các quốc gia Đông 
Nam Á.
3. Mô hình và dữ liệu nghiên 
cứu
Mục tiêu của bài chính là tìm 
hiểu tác động của thâm hụt ngân 
sách lên tăng trưởng kinh tế đối với 
khu vực Đông Nam Á với các biến 
kiểm soát về lạm phát, đầu tư nước 
ngoài và đầu tư trong nước. Mô 
hình thực nghiệm có dạng:
GDP
it
 = α
i
 + β
1i
Bd + β
2i
Inf + 
β
3i
Inv + β
4i
Dc + ε
it
3.1. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ 
liệu bảng trong khoảng thời 
Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi 
21
giá trị trung bình là 5% GDP. 
Tuy nhiên, mức độ chênh lệch 
giữa các quốc gia cũng như giai 
đoạn khảo sát là lớn khi mà giá 
trị cao nhất đạt tới 15,2% GDP 
trong khi đó vẫn có một số các 
quốc chỉ đạt -2,3% GDP.
Biến số thâm hụt ngân sách 
cho thấy giá trị nhỏ nhất là -6,8% 
GDP nhưng bởi vì thâm hụt ngân 
sách là vốn chênh lệch thu chi 
âm (chi lớn hơn thu), nên dấu 
âm trong bảng là đại diện cho 
“thâm hụt ngân sách” nên có thể 
nói dù -6,8% GDP nằm ở giá trị 
nhỏ nhất, nhưng nó mới chính là 
lượng thâm hụt nhiều nhất trong 
số các quốc gia ở khu vực. Nhìn 
chung các quốc gia không có 
mức thâm hụt không cao vì dù 
nhỏ nhưng trung bình chênh lệch 
thu chi này là số dương 0,8%, 
mức thặng dư khá cao, cao nhất 
là 40 % GDP. Độ lệch chuẩn 
7,1% GDP cũng cho thấy mức độ 
thâm hụt giữa các quốc gia có sự 
cách biệt rất lớn.
 Biến số lạm phát cho thấy các 
quốc gia Đông Nam Á trong bài 
nghiên cứu có tỉ lệ lạm phát trung 
bình 4,1% GDP. Giá trị cao nhất 
của lạm phát là 24,9% GDP. Độ 
lệch chuẩn 4,3% GDP cũng nói 
lên việc chênh lệch giá giữa các 
quốc gia trong khu vực còn lớn.
Biến số đầu tư nước ngoài 
cho thấy các quốc gia Đông Nam 
Á trong bài nghiên cứu có lượng 
đầu tư nước ngoài trên GDP trung 
bình là 5% GDP, có một số quốc 
gia nhận được đầu tư nước ngoài 
rất lớn và lớn nhất là 26,5% GDP 
và trung bình là 5,5% GDP,.
Biến số tín dụng nội địa khu 
vực tư cho thấy lượng tín dụng 
nội địa cao nhất 154,4% GDP , 
nhỏ nhất là 5,9% GDP với mức 
trung bình đạt tới 65,7% GDP, 
Ý nghĩa của biến Đơn vị
Kì 
vọng 
dấu
i Quốc gia tương ứng i=1,2...,N
t Thời gian tương ứng t=1,2....T 
GDP
Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm trên vốn dựa trên đô 
la Mỹ. GDP trên vốn là tổng sản phẩm quốc nội được lấy 
từ số liệu giữa năm.
%
BD
Thâm hụt ngân sách, nghĩa là tình huống tài chính xảy 
ra khi tiền ra lớn hơn tiền vào, thường được sử dụng để 
nói về chi tiêu chính phủ hơn là chi tiêu cá nhân hay kinh 
doanh, tức là chênh lệch giữa chi tiêu ngân sách và thu 
nhân sách trong trường hợp chi lớn hơn thu.
%GDP -
INF
Lạm phát sử dụng mức giá tiêu dùng phản ảnh sự thay 
đổi phần trăm hàng năm trong chi phí trung bình của 
người tiêu dùng cho một giỏ hàng hóa và dịch vụ mà cố 
định hoặc thay đổi theo một xu hướng, ví như là hàng 
năm.
%GDP +
INV
Dòng vốn đầu tư dòng vào ròng từ nước ngoài. Là tổng 
vốn thanh khoản, thu nhập từ việc tái đầu tư, vốn dài hạn 
khác, và vốn ngắn hạn được đưa ra trong cân bằng các 
khoản chi trả.
%GDP +
DC
Tín dụng nội địa khu vực tư liên quan đến những nguồn 
tài chính được cung cấp từ khu vực tư, như là thông qua 
những khoản nợ, chi trả cho những chứng khoán không 
thanh khoản, và tín dụng thương mại.. mà hình thành 
nên khoản chi trả.
%GDP -
ε
it
Những ảnh hưởng từ các cú sốc không mong muốn đến 
GDP
GDP BD INF INV DC
Trung bình 5,047 0,832 4,183 5,090 65,753
Trung vị 5,410 -0,764 3,105 3,389 48,637
Lớn nhất 15,240 40,003 24,997 26,521 154,408
Nhỏ nhất -2,330 -6,803 -2,288 -1,856 5,994
Độ lệch chuẩn 3,121 7,195 4,399 5,576 40,490
Số quốc gia 8 8 8 8 8
Số quan sát 104 104 104 104 104
Bảng 1: Giải thích biến và kỳ vọng dấu
*Ghi chú: Dấu “+” là kì vọng mối quan hệ đó là tích cực (cùng chiều), dấu “-“ là kì vọng 
mối quan hệ đó là tiêu cực (ngược chiều)
Bảng 2: Thống kê dữ liệu trong mô hình
Nguồn: Tính toán của tác giả
gian từ 2001-2013, của một số 
nước Đông Nam Á: Brunei, 
Indonesia, Cambodia, Malaysia, 
Phillipines, Singapore, Thailand, 
Vietnam. Trong đó số liệu của 
biến GDP, INV và DC được lấy 
từ Worldbank (Ngân hàng Thế 
giới) còn biến BD và INF được 
lấy từ IMF WEO (International 
Monetary Fund -World Economic 
Outlook - Quỹ tiền tệ quốc tế - 
Tổng quan kinh tế thế giới). 
Biến GDP cho thấy các quốc 
gia Đông Nam Á trong bài nghiên 
cứu có tốc độ tăng trưởng khá tốt 
trong giai đoạn khảo sát khi mà 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 23(33) - Tháng 07-08/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi 
22
độ lệch chuẩn 40,4% GDP. Nhìn 
vào mức trung bình có thể nói 
mức tín dụng nội địa khu vực tư 
ở các nước Đông Nam Á là khá 
cao.
Bảng 3 cho thấy hệ số các biến 
độc lập đều nhỏ hơn 0.8 chứng 
tỏ không có trường hợp đa cộng 
tuyến xảy ra, và biến số thâm hụt 
ngân sách, và tín dụng nội địa từ 
khu vực tư mang dấu âm, ngược 
chiều với biến tốc độ tăng trưởng 
kinh tế, còn biến lạm phát và đầu 
tư nước ngoài mang dấu dương, 
cùng chiều với biến tốc độ tăng 
trưởng kinh tế.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Để xem xét ảnh hưởng của 
thâm hụt ngân sách lên tốc độ tăng 
trưởng GDP ở các quốc gia đã nêu 
ở phần dữ liệu. Đầu tiên sử dụng 
mô hình bình phương tối thiểu dạng 
gộp (Pooled Least Square Model - 
POLS), mô hình tác động cố định 
(Fixed Effects Model – FEM), mô 
hình tác động ngẫu nhiên (Random 
Effects Model - REM. Sau đó sử 
dụng Kiểm định Hausman để 
xem xét yếu tố ngẫu nhiên có ảnh 
hướng đến các biến phụ thuộc của 
mô hình hay không, với kết quả 
p-value nhận được ở Bảng 4, cho 
thấy mô hình FEM phù hợp hơn 
REM để ước lượng hệ số hồi quy.
Bên cạnh đó, Moulton 
(1986) và Moulton (1990) cho 
rằng khi sử dụng dữ liệu bảng để 
phân tích giữa các quốc gia có thể 
gặp phải sự hiện diện của hiệu ứng 
nhóm dẫn tới vấn đề sai số trong 
các kết luận thống kê. Mà ước 
lượng GLS có thể xử lý hiện tượng 
tự tương quan của các quan sát 
trong phạm vi quốc gia và phương 
sai thay đổi giữa các quốc gia. Kết 
quả của GLS lại cho ra biến thâm 
hụt ngân sách và tín dụng nội địa 
khu vực vẫn mang dấu âm, đầu tư 
nước ngoài và lạm phát vẫn mang 
dấu dương, dấu của 4 biến này đều 
tương đồng với dấu mô hình hệ số 
tương quan (Bảng 3), và phù hợp 
với kì vọng dấu, so với REM kết 
quả cũng không thay đổi. Cho nên 
ước lượng GLS là vững nhất và tin 
tưởng nhất.
4. Kết quả thực nghiệm
Theo đó, kết quả của cột (1), (3) 
và (4) cho thấy mối quan hệ giữa 
các biến độc lập và biến phụ thuộc 
không đổi. Trong khi biến thâm 
hụt ngân sách, tín dụng nội địa khu 
vực tư ảnh hưởng tiêu cực đến tăng 
trưởng kinh thế thì biến lạm phát, 
đầu tư nước ngoài lại ảnh hưởng 
tích cực đến tăng trưởng kinh tế. 
Kết quả của cột (2) phần lớn đều 
giống kết quả cột (1), (3) và (4), 
tuy nhiên ở biến lạm phát thì ngược 
lại, nó ảnh hưởng tiêu cực đến tăng 
trưởng kinh tế. Các kết quả ước 
lượng đều cho ra kết quả như nhau 
rằng biến thâm hụt ngân sách, đầu 
tư nước ngoài, tín dụng nội địa khu 
vực tư có ý nghĩa thống kê còn biến 
lạm phát thì không. 
Như phần phương pháp nghiên 
cứu đã nêu, để xử lý được hiện 
tượng tự tương quan của các quan 
sát trong phạm vi quốc gia và 
phương sai thay đổi giữa các quốc 
gia và kiểm tra tính vững của mô 
hình, chúng tôi ước lượng lại hệ 
số hồi quy các biến bằng phương 
pháp GLS và kết quả thể hiện ở 
cột (4). Kết quả cho thấy dấu của 
các biến giải thích tương đồng với 
ma trận hệ số tương quan. Ngoài 
ra, dấu và ý nghĩa thống kê sự tác 
động của các biến trong kết quả 
ước lượng GLS không thay đổi so 
với các phương pháp trước đó (trừ 
biến INF trong mô hình FEM). 
Qua đó, kết quả thực nghiệm 
cho ra một số kết quả đáng chú ý:
Thứ nhất, thâm hụt ngân sách 
có mối quan hệ ngược chiều với tốc 
độ tăng trưởng kinh tế, có ý nghĩa 
GDP BD INF INV
BD -0,279453 
INF 0,237326 -0,177665 
INV 0,264628 0,256051 -0,049435 
DC -0,145341 -0,094214 -0,152220 0,323200
Bảng 3: Ma trận hệ số tương quan
Nguồn: Tính toán của tác giả
 (1)POLS
(2)
FEM
(3)
REM 
(4)
GLS
BD -0,176*** -0,015 -0,176*** -0,154***
INF 0,099 -0,001 0,099* 0,031
INV 0,267*** 0,367*** 0,267*** 0,317***
DC -0,024*** -0,050*** -0,024*** -0,023***
C 5,020 6,484 5,020 5,289
Số quan sát 104 104 104 104
Số quốc gia 8 8 8 8
R-squared 0,31 0,46 0,31
Hausman test 
(p-value) 0,0001
Bảng 4: Kết quả hồi quy các biến trong mô hình
Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%.
Nguồn: Tính toán của tác giả
Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
23
thống kê với mức ý nghĩa 1%. Kết 
quả này giống với bài nghiên cứu 
của Fatima et.al (2012). Điều này 
cũng hợp lí với thực trạng ở các 
nước khu vực Đông Nam Á, khu 
vực này hoạt động kinh tế khá sôi 
nổi nên việc chi tiền ra để thực hiện 
nhiều dự án là việc luôn xảy ra. Tuy 
nhiên, nhiều trường hợp lại không 
sử dụng hiệu quả làm cho lượng 
tiền chi ra lớn hơn lượng tiền thu 
vào, lúc này sẽ làm giảm đầu tư, 
dễ gây ra lạm phát cao không thể 
kiểm soát được và đồng tiền ngày 
càng mất giá. Trong khi bản thân 
đồng tiền ở khu vực Đông Nam Á 
phần lớn là đồng tiền nhỏ do đó khi 
đồng tiền bị mất giá thì việc thanh 
toán các khoản nợ trước kia sẽ trở 
nên nặng nề hơn. Khi đó, đầu tư 
bị giảm mà nợ thì cứ phải kéo dài 
thời gian thanh toán, cho nên việc 
tăng thâm hụt ngân sách nhất định 
sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng 
trưởng kinh tế. 
Thứ hai, lạm phát có mối quan 
hệ cùng chiều với tốc độ tăng 
trưởng kinh tế nhưng không có ý 
nghĩa thống kê. Kết quả này tương 
đối phù hợp với bài nghiên cứu của 
Ramzan & cộng sự (2013). Điều 
này cho thấy các quốc gia này đã 
kiểm soát tốt lạm phát và biết cách 
sử dụng công cụ này để nhằm mục 
tiêu thúc đẩy xuất khẩu và làm gia 
tăng giá trị cho nền kinh tế.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài có 
mối quan hệ cùng chiều với tốc độ 
tăng trưởng kinh tế và có ý nghĩa 
thống kê với mức ý nghĩa 1%. 
Kết quả này phù hợp với kết quả 
từ nghiên cứu của Ahmad (2013). 
Khu vực Đông Nam Á là khu vực 
kinh tế sôi nổi, vị trí địa lý tốt và khá 
thuận lợi, tình hình chính trị tương 
đối ổn định cùng với việc thực thi 
các chính sách ưu đãi nhằm thu hút 
được dòng vốn đầu tư nước ngoài. 
Và qua đó, giúp các quốc gia bổ 
sung vốn đầu tư cần thiết và góp 
phần thúc đẩy tăng trưởng.
Thứ tư, tín dụng nội địa khu vực 
tư có mối quan hệ ngược chiều với 
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kết quả 
này cũng phù hợp với nghiên cứu 
của Ramzan & cộng sự (2013). Đa 
số các nước Đông Nam Á có hạn 
mức tín nhiệm tương đối thấp, do 
đó các quốc gia đi vay phải chịu 
lãi suất cao hơn mức trung bình 
thế giới. Bên cạnh đó, khoản vay 
này nếu sử dụng kém hiệu quả và 
không đúng mục đích thì dễ dẫn 
đến các hệ lụy. Một trong số đó 
chính là áp lực trả lãi cao rất dễ dẫn 
đến tình trạng nợ quá mức. Khi 
các khoản nợ công tăng cao và chi 
phí trả lãi lớn sẽ gây cản trở tăng 
trưởng kinh tế.
5. Kết luận và gợi ý về chính 
sách
Bài nghiên cứu này tìm hiểu 
tác động của thâm hụt ngân sách 
lên tăng trưởng kinh tế ở một số 
nước Đông Nam Á trong giai đoạn 
2001-2013. Nghiên cứu sử dụng 
phương pháp ước lượng đối với dữ 
liệu bảng (POLS, FEM, REM) và 
sử dụng phương pháp ước lượng 
bình phương tối thiểu tổng quát 
GLS kiểm tra tính vững của mô 
hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
thâm hụt ngân sách và tín dụng nội 
địa khu vực có tác động tiêu cực 
đến tăng trưởng kinh tế trong phạm 
vi nghiên cứu đã nêu trên và có ý 
nghĩa thống kê với mức ý nghĩa là 
1%, đầu tư nước ngoài có tác động 
tích cực đến tăng trưởng kinh tể 
trong phạm vi nghiên cứu đã nêu 
trên và có ý nghĩa thống kê với 
mức ý nghĩa 1%. Trong khi đó lạm 
phát không có ý nghĩa thống kê. Từ 
đó, chúng tôi đề xuất các giải pháp 
sau:
Thứ nhất, cắt giảm triệt để chi 
tiêu công để giảm thâm hụt ngân 
sách nhà nước. Tuy nhiên, việc cắt 
giảm chi tiêu công phải cân nhắc kỹ 
càng và có quy trình. Bên cạnh đó, 
thiết nghĩ các quốc gia Đông Nam 
Á cũng nên tiết kiệm tránh lãng phí 
trong việc mua sắm và đầu tư công. 
Hiện nay, tình trạng số lượng công 
chức làm việc khu vực công tại các 
quốc gia này là quá lớn. Vì vậy, 
việc tinh giản biên chế sẽ góp phần 
củng cố nâng cao chất lượng đội 
ngũ và giúp giảm được khoản chi 
thường xuyên. Hơn nữa, khu vực 
công cũng nên xem xét đến việc 
san sẻ một số các dự án cho khu 
vực tư, vừa giúp giảm áp lực thâm 
hụt vừa giúp cải thiện hiệu quả đầu 
tư cho quốc gia. Ngoài ra, tập trung 
vào các khoản thu từ thuế để tăng 
nguồn thu vào ngân sách nhà nước. 
Tăng cường thanh tra kiểm tra thuế, 
chống thất thu thuế nhằm giảm 
thiểu tình trạng giảm thu ngân sách 
nhà nước. Từ đó, góp phần giảm áp 
lực thâm hụt ngân sách.
Thứ hai, các quốc gia nên tập 
trung vào thu hút vốn đầu tư nước 
ngoài bằng cách đưa ra các chính 
sách ưu đãi hợp lí về thuế (ưu đãi 
thuế, thời gian miễn giảm thuế, ưu 
đãi tín dụng,...), cải thiện tình trạng 
cơ sở hạ tầng như xây dựng các khu 
chế xuất, khu công nghệ cao và 
thực hiện chính sách đào tạo nâng 
cao chất lượng nguồn nhân lực và 
trình độ chuyên môn tốt, đạo đức 
nghề nghiệp cao, tinh thần làm 
việc, cũng là một trong các biện 
pháp có thể giúp thu hút vốn đầu tư 
nước ngoài. 
(Xem tiếp trang 49)

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_tham_hut_ngan_sach_den_tang_truong_kinh_te_bang.pdf