Tài nguyên nước ở Việt Nam: Nguyên nhân suy giảm và hệ lụy
1. Khái quát chung
Nước là một trong những tài nguyên
quan trọng nhất trên Trái đất, vì nó đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của con người và
sinh vật về mặt sinh vật học.
Việt Nam có khoảng 835 tỷ m3/năm
nước mặt, trong đó 522 tỷ m3 là dòng
chảy từ nước ngoài, chiếm 62,5%, chỉ có
313 tỷ m3/năm được tạo ra do mưa rơi
trong lãnh thổ, chiếm 37,5%. Tổng trữ
lượng tiềm tàng nước dưới đất (nước
ngầm) có khả năng khai thác, chưa tính
phần các hải đảo là 60 tỷ m3/năm. Nếu
chỉ tính riêng nước nội địa với số dân
hiện nay thì bình quân đầu người chỉ là
3.840 m3/người/năm, thấp hơn 160 m3 so
với thế giới (trên 4.000 m3/người/năm).
Theo đó, Việt Nam là quốc gia có lượng
nước tính theo đầu người chỉ vào loại
trung bình trên thế giới.
Sông ngòi là sản phẩm của khí hậu,
mưa là nguồn cung cấp nước chủ yếu
cho dòng chảy sông ngòi, hồ và hồ chứa.
Với hệ thống sông ngòi khá dày đặc,
nhiều hồ tự nhiên và hồ chứa nhân tạo
lớn nhỏ đã tạo cho Việt Nam nguồn tài
nguyên nước khá phong phú.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài nguyên nước ở Việt Nam: Nguyên nhân suy giảm và hệ lụy
TàI NGUYÊN NƯớC ở VIệT NAM: Nguyên nhân suy giảm và hệ lụy Trần Thanh Lâm(*) I. Về nguồn tài nguyên n−ớc ở Việt Nam 1. Khái quát chung N−ớc là một trong những tài nguyên quan trọng nhất trên Trái đất, vì nó đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con ng−ời và sinh vật về mặt sinh vật học. Việt Nam có khoảng 835 tỷ m3/năm n−ớc mặt, trong đó 522 tỷ m3 là dòng chảy từ n−ớc ngoài, chiếm 62,5%, chỉ có 313 tỷ m3/năm đ−ợc tạo ra do m−a rơi trong lãnh thổ, chiếm 37,5%. Tổng trữ l−ợng tiềm tàng n−ớc d−ới đất (n−ớc ngầm) có khả năng khai thác, ch−a tính phần các hải đảo là 60 tỷ m3/năm. Nếu chỉ tính riêng n−ớc nội địa với số dân hiện nay thì bình quân đầu ng−ời chỉ là 3.840 m3/ng−ời/năm, thấp hơn 160 m3 so với thế giới (trên 4.000 m3/ng−ời/năm). Theo đó, Việt Nam là quốc gia có l−ợng n−ớc tính theo đầu ng−ời chỉ vào loại trung bình trên thế giới. Sông ngòi là sản phẩm của khí hậu, m−a là nguồn cung cấp n−ớc chủ yếu cho dòng chảy sông ngòi, hồ và hồ chứa. Với hệ thống sông ngòi khá dày đặc, nhiều hồ tự nhiên và hồ chứa nhân tạo lớn nhỏ đã tạo cho Việt Nam nguồn tài nguyên n−ớc khá phong phú. Tài nguyên n−ớc của Việt Nam phong phú, nh−ng cũng có những đặc điểm gây ra một số thách thức trong quản lý, khai thác và sử dụng. Đó là: (*) - L−ợng m−a trung bình một năm ở Việt Nam khoảng 650km3 (1.960 mm/năm) gấp 2,6 lần l−ợng m−a trung bình của vùng lục địa trên Trái đất (800 mm). Tuy nhiên, l−ợng m−a phân bố không đều theo không gian và thời gian. Mùa m−a với 65 - 90% l−ợng m−a tập trung trong 3 - 6 tháng, tuy thời gian ngắn nh−ng l−ợng m−a lớn với nhiều tâm m−a nh− Bạch Mã (Huế) l−ợng m−a bình quân 8.000mm/năm, Bà Nà (Đà Nẵng) 5.000mm/năm, Bắc Quang (sông Lô) 4.900 mm/năm, Trà My (Thu Bồn) là 3.500 mm/năm, A L−ới (Huế) là 3.500 mm/năm, Nam Đông (Huế) là 3.575 mm/năm, Đèo Cả, Bảo Lộc, Phú Quốc 3.000 - 4.000 mm/năm. Mùa khô kéo dài 6 - 9 tháng, một số nơi l−ợng m−a < 1.200 mm/năm, Ninh Thuận, Bình Thuận chỉ đạt 400 - 700 mm/năm. L−ợng bốc hơi khá lớn từ mặt n−ớc sông, hồ, ao, đầm lầy, bốc hơi tán phát... L−ợng bốc hơi bình quân khoảng trên d−ới 1.000 mm/năm. - Do l−ợng m−a tập trung vào mùa m−a nên th−ờng xảy ra lũ lụt. ở Bắc bộ, lũ lớn nhất trong năm th−ờng xuất hiện (*) TS., Viện Tài nguyên n−ớc và môi tr−ờng Đông Nam á. 8 Thông tin Khoa học xã hội, số 5.2011 vào các tháng 7, 8, l−ợng m−a lớn nhất đạt trên 1.500mm/ngày. Trên l−u vực sông Hồng, sông Thái Bình chiếm tới 50 - 80% tr−ờng hợp lũ lớn xuất hiện vào những tháng này và những trận lũ đặc biệt lớn th−ờng xuất hiện vào trung và hạ tuần tháng 8. ở Trung bộ lũ th−ờng xuất hiện muộn hơn khoảng tháng 9, 10, do địa hình dốc nên lũ th−ờng xuất hiện nhanh và xuống nhanh. Còn trên l−u vực sông Cửu Long, lũ lớn nhất th−ờng xuất hiện vào cuối tháng 9, đầu tháng 10, lũ lên từ từ và xuống chậm, thời gian duy trì lũ có thể từ 30 - 120 ngày với tổng l−ợng lũ lên tới 380 - 550 tỷ m3. 2. Hiện trạng tài nguyên n−ớc ở Việt Nam a. Tình hình khai thác và sử dụng n−ớc Nhận thức rõ vai trò của tài nguyên n−ớc trong đời sống sinh hoạt và sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp nên Nhà n−ớc và nhân dân ta rất coi trọng công tác thuỷ lợi. Việt Nam là n−ớc Đông Nam á có chi phí cho thủy lợi nhiều nhất. Nhu cầu n−ớc cho sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao so với các nhu cầu khác. Trữ l−ợng n−ớc d−ới đất theo các tài liệu thăm dò khá dồi dào, nh−ng tập trung khá lớn ở đồng bằng Nam bộ, khan hiếm ở miền Bắc và miền Trung. Hiện nay, tổng l−ợng n−ớc ngầm khai thác chiếm khoảng 20% tổng trữ l−ợng n−ớc ngầm có thể khai thác. Nhiều tỉnh thành trong cả n−ớc đang khai thác n−ớc d−ới đất với l−u l−ợng khá lớn sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Điển hình: Hà Nội: 750.000 m3/ngày, thành phố Hồ Chí Minh: 1.600.000 m3/ngày, Tây Nguyên: 500.000 m3/ngày. Do không cân đối trong sử dụng và khai thác, cùng với sự biến đổi khí hậu đang diễn ra gay gắt, khó l−ờng nên chất l−ợng n−ớc có xu h−ớng ngày càng xấu đi. Hiện có trên 240 nhà máy cấp n−ớc đô thị với tổng công suất thiết kế là 3,42 triệu m3/ngày. Trong đó 92 nhà máy sử dụng nguồn n−ớc mặt với tổng công suất 1,95 triệu m3/ngày và 148 nhà máy sử dụng nguồn n−ớc d−ới đất với tổng công suất khoảng 1,47 triệu m3/ngày. Nhiều địa ph−ơng sử dụng cả 2 nguồn n−ớc mặt và n−ớc d−ới đất. Tổng công suất hiện có của các nhà máy cấp n−ớc đảm bảo cho mỗi ng−ời dân đô thị khoảng 150 lít n−ớc sạch mỗi ngày. Tuy nhiên do cơ sở hạ tầng, hệ thống cấp n−ớc tại nhiều khu đô thị lạc hậu, thiếu đồng bộ nên hệ thống cấp n−ớc khu đô thị ch−a phát huy hết công suất, tỉ lệ thất thoát n−ớc sạch khá cao (có nơi tỉ lệ thất thoát tới 40%). Chính vì vậy trên thực tế nhiều đô thị cung cấp n−ớc chỉ đạt khoảng 40-50 lít/ng−ời/ngày và mới chỉ cấp n−ớc cho 60-70% ng−ời dân sống ở đô thị. Khu vực nông thôn Việt Nam có khoảng 36,7 triệu ng−ời đ−ợc cấp n−ớc sạch (trên tổng số 60,44 triệu ng−ời). Có 7.257 công trình cấp n−ớc tập trung cấp n−ớc sinh hoạt cho 6,13 triệu ng−ời và trên 2,6 triệu công trình cấp n−ớc nhỏ lẻ khác. Có trên 50% hộ dân đang dùng n−ớc giếng khơi, 25% dùng n−ớc sông suối, trên 10% dùng n−ớc m−a. b. Suy giảm tài nguyên n−ớc Suy giảm tài nguyên n−ớc đang là hiện t−ợng khá phổ biến ở Việt Nam. + Suy giảm nguồn n−ớc mặt: Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế về tài nguyên n−ớc, ng−ỡng khai thác đ−ợc phép tại các quốc gia chỉ nên giới hạn trong phạm vi 30% l−ợng dòng chảy. Trong khi đó, theo Bộ Tài nguyên và Môi tr−ờng, thì hầu hết các tỉnh miền Tài nguyên n−ớc ở Việt Nam 9 Trung và Tây Nguyên đã và đang khai thác trên 50% l−ợng dòng chảy về mùa khô khiến các dòng sông càng cạn kiệt. Riêng tỉnh Ninh Thuận, hiện các dòng chảy đã bị khai thác tới 70-80%. Theo số liệu của Cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho thấy, tài nguyên n−ớc trên các l−u vực sông cũng đang suy giảm nghiêm trọng về số l−ợng. Mực n−ớc sông Hồng đang ngày càng hạ thấp hơn (mùa khô 2006- 2007 xuống tới 1,12m, mức thấp nhất kể từ khi có trạm quan trắc trên sông Hồng). Mùa khô năm 2010, hạn hán đã đạt kỷ lục trong 100 năm qua ở đồng bằng sông Hồng và 50 năm qua tại đồng bằng sông Cửu Long. Thậm chí có ngày mực n−ớc sông Hồng chỉ còn 0,1m ở Hà Nội và 0,4m ở sông Mê Kông tại Lào. Diễn biến chất l−ợng n−ớc mặt đang có chiều h−ớng xấu đi. Theo quan trắc nhiều năm cho thấy n−ớc ở các con sông chính ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam: sông Hồng (Hà Nội), sông Cấm (Hải Phòng), Sông H−ơng (Huế), sông Hàn (Đà Nẵng), sông Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh) đều xấp xỉ và v−ợt các tiêu chuẩn cho phép. Đặc biệt, theo Báo cáo môi tr−ờng năm 2006, 3 l−u vực sông: Cầu, Nhuệ - Đáy, hệ thống sông Đồng Nai đang bị ô nhiễm cục bộ nghiêm trọng, đều v−ợt các tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 100 lần. Phần hạ l−u nhiều sông trong các l−u vực này đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, trong đó có đoạn đã trở thành sông “chết”. + Suy giảm nguồn n−ớc ngầm: Theo một kết quả nghiên cứu gần đây của Trung tâm quan trắc và dự báo tài nguyên n−ớc, Bộ Tài Nguyên và Môi tr−ờng, thì trong m−ời năm, n−ớc ngầm tại một số nơi ở Hà Nội giảm đến 6m và tại thành phố Hồ Chí Minh có nơi giảm đến 10m. Tình trạng này sẽ trầm trọng hơn vào thế kỷ tới khi l−ợng n−ớc cần dùng tăng lên mạnh mẽ. Diễn biến chất l−ợng n−ớc ngầm, nhìn chung có chất l−ợng tốt trừ những nơi có hàm l−ợng sắt và mangan cao. Tuy nhiên, đang có hiện t−ợng xâm nhập mặn n−ớc ngầm khá phổ biến ở các vùng ven biển Việt Nam, nhất là các công trình khai thác n−ớc ở các vùng ven biển nh− Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hoá, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Rang, Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Kiên Giang... Một số vùng tuy xa biển nh−ng do tồn tại các tầng hay thấu kính n−ớc mặn chôn vùi cổ x−a, nên khi khai thác n−ớc ngọt ở những vùng hoặc tầng lân cận đã kéo n−ớc mặn vào công trình lấy n−ớc (Hải D−ơng, H−ng Yên, Hà Tây (cũ), Bắc Giang, Long An...). Nhìn chung BOD5 (l−ợng oxy cần thiết để vi sinh vật tiêu thụ trong quá trình oxy hóa các chất hữu cơ trong n−ớc) và COD (l−ợng oxy cần thiết cho quá trình oxy hóa các chất hữu cơ trong n−ớc thành khí cacbonic và n−ớc) của n−ớc ngầm thấp hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Nh−ng nhiễm bẩn các hợp chất nitơ trong tầng n−ớc ngầm lại tăng lên, nhất là tầng chứa n−ớc chính ở đồng bằng Bắc bộ, nh−ng mức độ có khác nhau, một số vùng khác nh− thành phố Hồ Chí Minh, đồng bằng sông Cửu Long và một số thành phố miền Trung cũng phát hiện tình trạng ô nhiễm nitơ, nh−ng còn mang tính cục bộ và có biến động theo mùa thành quy luật rõ rệt. Nhiễm bẩn phốt phát trong n−ớc ngầm (đồng bằng Bắc bộ) ở một số nơi cũng có biểu hiện tăng theo thời gian. Mặt khác, do quá trình công nghiệp hoá, một số điểm khai thác n−ớc ngầm có hiện t−ợng ô nhiễm kim loại nặng, nhất là các khu vực lân cận các vùng công nghiệp. Đặc biệt, 10 Thông tin Khoa học xã hội, số 5.2011 trong những năm gần đây, đã phát hiện hàm l−ợng asen tồn tại trong n−ớc tại một số khu vực ở Hà Nội, nh−ng đa số các mẫu có hàm l−ợng asen thấp hơn tiêu chuẩn cho phép. Tài nguyên biển và ven bờ tuy có nhiều tiềm năng nh−ng do nhiều nguyên nhân khác nhau đang bị ô nhiễm do l−ợng rác thải, n−ớc thải từ các đô thị, khu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, khai thác dầu khí và vận tải thuỷ... Nồng độ các kim loại nặng trong n−ớc biển, vùng ven bờ gấp 1,4-3,8 lần tiêu chuẩn cho phép, nồng độ asen cao hơn 1,7 lần tiêu chuẩn cho phép, nồng độ các chất độc hại khác trong n−ớc biển đều cao gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Ô nhiễm do khai thác dầu khí và sự cố tràn dầu trên biển xảy ra ở nhiều nơi, hàng năm xảy ra hàng chục vụ với tổng l−ợng dầu tràn hàng ngàn tấn, đang trực tiếp ảnh h−ởng đến môi tr−ờng sinh thái biển. Nhiều cửa sông, bến cảng, bãi tắm n−ớc bị ô nhiễm. II. Nguyên nhân suy giảm và hệ lụy Suy giảm tài nguyên n−ớc ở n−ớc ta do nhiều nguyên nhân, trong đó một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nhiều hệ lụy là: 1. Do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu - Nhiệt độ không khí có xu thế ngày một tăng lên. Kịch bản có thể chấp nhận là đến năm 2070, ở các vùng ven biển có khả năng tăng thêm +1,50C, vùng nội địa +2,00C. Chúng kéo theo l−ợng tăng bốc thoát hơi lên khoảng 7,7- 8,4%, nhu cầu t−ới tăng lên, l−ợng dòng chảy n−ớc mặt sẽ giảm đi t−ơng ứng khi l−ợng m−a không đổi. - Bão: ElNino và LaNina làm tăng thêm tính cực đoan của thời tiết. Hậu quả làm tăng thêm tính cực đoan của l−ợng dòng chảy trong năm trên các dòng sông. - Hạn: ElNino gắn liền với việc gây hạn hán rất nặng nề ở n−ớc ta. Những năm có ElNino, l−ợng m−a và l−ợng dòng chảy trong sông đặc biệt là trong mùa cạn th−ờng bị giảm mạnh, thậm chí không có dòng chảy nh− sông Lòng Sông (Bình Thuận), sông Krông Búk (Đắk Lắk)... Hạn đến nỗi ngay cả súc vật cũng không thể sống đ−ợc. Hàng chục ngàn ha cây trồng bị chết do thiếu n−ớc. - Mực n−ớc biển dâng: Mực n−ớc biển dâng lên kéo theo sự xâm nhập mặn vào sâu trong đất liền từ 50-70km. Dẫn tới thiếu n−ớc ngọt đã và đang xảy ra ở nhiều nơi, nhất là vùng núi cao phía Bắc và đồng bằng ven biển. 2. Do khai thác và sử dụng tài nguyên n−ớc thiếu bền vững a. Bịt cửa các phân l−u để khai thác các bãi sông phía trong đê, sử dụng cho mục đích nông nghiệp. Ví dụ: Năm 1910, bịt cửa sông Cà Lồ là phân l−u tự nhiên của sông Hồng, sông Cà Lồ trở thành một nhánh của sông Cầu- sông chứa n−ớc m−a, n−ớc thải ô nhiễm, các chất hữu cơ, dầu mỡ; Năm 1937, bịt sông Đáy bằng Đập Đáy, sông Đáy trở thành khúc sông chết (từ Đập Đáy đến Ba Thá). Năm 1967, bịt cửa Đáy bằng cống Vân Cốc và Đê Cửa Hát để khai thác bụng hồ Vân Cốc - Đập Đáy. b. Các sông nhỏ trong nội đô của các thành phố bị ô nhiễm nặng do n−ớc thải sinh hoạt, công nghiệp. Điển hình là các sông Tô Lịch, sông Sét, sông Kim Ng−u... chảy trong nội thành Hà Nội bị ô nhiễm rất nghiêm trọng trực tiếp đổ vào sông Nhuệ; các kênh Nhiêu Lộc- Thị Nghè, kênh Tàu Hũ, kênh Tân Hoà- Lò Gốm, kênh Tham L−ơng, kênh Đôi - Tẻ và các kênh, rạch khác chảy trong nội Tài nguyên n−ớc ở Việt Nam 11 đô Thành phố Hồ Chí Minh đổ trực tiếp vào sông Sài Gòn gây ô nhiễm nghiêm trọng, c. Các sông nói chung có thể phân đoạn ô nhiễm khi chảy qua các khu đô thị, khu công nghiệp, làng nghề hay hoạt động nông nghiệp... d. Xây dựng đập dâng sử dụng hết l−ợng n−ớc cơ bản tạo ra khúc sông “khô” d−ới đập. Các đập dâng thuỷ lợi nh− đập Thạch Nham trên sông Trà Khúc, đập Lại Giang trên sông Đại Giang, 30 năm tr−ớc đây về mùa khô vẫn có n−ớc tràn qua đập. Vài chục năm gần đây do tăng diện tích t−ới, tăng l−ợng n−ớc cấp cho sinh hoạt, công nghiệp, mặt khác do rừng đầu nguồn bị phá nặng nề nên cứ mùa khô là hạ l−u hết n−ớc, có năm kéo dài vài ba tháng nếu không có m−a, bởi vậy ở vùng hạ l−u các đập dâng này nhiều c− dân sinh sống ven sông và trên sông phải gánh chịu nhiều tác động tiêu cực. ở các đập dâng thuỷ điện, đoạn giữa hạ l−u đập và nhà máy tạo ra khúc sông “chết”; do điều tiết ngày đêm tạo ra nửa ngày ở hạ l−u không có n−ớc xả. e. Các qui hoạch, thiết kế các hồ chứa n−ớc, trong một thời gian dài không quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đến dòng chảy môi tr−ờng phía hạ l−u đập. f. Khai thác n−ớc quá mức, thiếu qui hoạch, kế hoạch đồng bộ. Ví dụ nh− việc khai thác n−ớc ngầm quá mức gây ô nhiễm trầm trọng ở Đắk Lắk, Ninh Thuận và Bình Thuận, đòi hỏi phải có biện pháp bổ cập. Theo qui hoạch về nguồn n−ớc, đến năm 2010 đáp ứng yêu cầu cấp n−ớc t−ới cho 5 tỉnh Tây Nguyên là 80.000 ha cà phê. Đến năm 2000 riêng tỉnh Đắk Lắk (cũ) đã trồng đ−ợc 260.000 ha cà phê. Hậu quả là không đủ n−ớc t−ới hàng chục ngàn ha cà phê bị chết (xem thêm: 4). g. Quản lý tài nguyên n−ớc bị phân tán, tính ràng buộc không chặt chẽ, thiếu thống nhất nên đã xảy ra tình trạng: thiếu n−ớc “nhân tạo” do không có qui trình vận hành hồ về mùa cạn (sông Hồng không đáp ứng yêu cầu mực n−ớc cần thiết trong các tháng 2, 3 hàng năm); thiếu tập trung, thiếu nghiêm lệnh, nhiều cơ quan cùng ban hành lệnh cấm nh−ng không có cơ quan nào quyết định. Ví dụ: trên sông Krông Ana đoạn cầu Giang Sơn, Trạm Thuỷ văn Giang Sơn có 3 thông cáo qui định của 3 Bộ: Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài nguyên và Môi tr−ờng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với ba biển cấm cùng có 1 điều cấm: Cấm lấy cát trên đoạn sông. Trên thực tế các biển cấm này không đ−ợc chấp hành: trục cầu vẫn bị xói, tàu thuyền vẫn đậu kín khai thác cát gây xói lở bờ sông, làm sai lệch số liệu quan trắc thuỷ văn. 3. Bên cạnh đó còn nhiều nguyên nhân gây suy giảm tài nguyên n−ớc, nh−: * Dân số tăng dẫn tới chỉ số l−ợng n−ớc trên đầu ng−ời giảm. Trong khi, nhiều ng−ời vẫn còn coi n−ớc là "của trời cho", sử dụng bừa bãi, thiếu ý thức tiết kiệm và bảo vệ nguồn n−ớc. * Quá trình công nghiệp hóa dẫn tới mức sử dụng n−ớc ở nhiều ngành công nghiệp rất cao và lãng phí, đặc biệt khu vực t− nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ để thất thoát n−ớc dùng trong sản xuất phần lớn không thể kiểm soát đ−ợc. Rõ rệt nhất là ngành bia, trên thế giới để sản xuất 1 lít bia trung bình sử dụng khoảng 4 lít n−ớc, song ở Việt Nam cao hơn gấp ba lần (khoảng 13 lít n−ớc). * Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, tốc độ tăng tr−ởng kinh tế cao không đi đôi với làm tốt công tác bảo vệ 12 Thông tin Khoa học xã hội, số 5.2011 môi tr−ờng đã gây ra những ảnh h−ởng tiêu cực tới nguồn n−ớc. Việc phát triển đô thị và công nghiệp nh−ng không có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý các chất thải lỏng, thải rắn theo yêu cầu cũng đã làm ô nhiễm nguồn n−ớc mặt ngày càng tăng cả về mức độ và quy mô. Do đó, tài nguyên n−ớc ngày một suy giảm nghiêm trọng. * Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ công truyền thống cũng có sự phục hồi và phát triển. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam năm 2010, hiện nay cả n−ớc có 2.700 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống đang hoạt động, nh−ng do sản xuất mang tính tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu, chắp vá, mặt bằng sản xuất chật chội, việc đầu t− xây dựng hệ thống xử lý n−ớc thải ít đ−ợc quan tâm, ý thức bảo vệ môi tr−ờng sinh thái của ng−ời dân làng nghề còn kém, bên cạnh đó lại thiếu một cơ chế quản lý giám sát của các cơ quan chức năng nhà n−ớc nên tình trạng ô nhiễm môi tr−ờng các làng nghề ngày càng trầm trọng, nhất là ô nhiễm nguồn n−ớc. Hoạt động gây ô nhiễm môi tr−ờng các làng nghề không chỉ ảnh h−ởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khoẻ cộng đồng của những ng−ời dân làng nghề mà còn ảnh h−ởng đến những ng−ời dân sống ở vùng lân cận, gây phản ứng quyết liệt trong bộ phận dân c− này, làm nảy sinh các xung đột xã hội gay gắt. * Tại các đô thị lớn, tình trạng ô nhiễm cũng ở mức báo động. Đó là ô nhiễm về n−ớc thải, rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, không khí, tiếng ồn... Những năm gần đây, dân số ở các đô thị tăng nhanh khiến cho hệ thống cấp n−ớc không đáp ứng nổi và xuống cấp nhanh chóng. N−ớc thải ở đô thị hầu hết đều trực tiếp xả ra môi tr−ờng mà không có bất kỳ một biện pháp xử lý nào. Còn rác thải, ngoài việc vận chuyển đến bãi chôn lấp, còn một l−ợng không nhỏ ng−ời dân vẫn theo “thói quen” đổ bừa bãi xuống sông, hồ, ao, kênh m−ơng, vừa gây ách tắc dòng chảy, vừa làm cho ô nhiễm n−ớc thải thêm trầm trọng. Nhiều lần các lồng nuôi cá trên sông bị chết hàng loạt, mà nguyên nhân chính là do n−ớc thải từ các đô thị lớn, làm thiệt hại không nhỏ cho ng−ời nuôi cá. * Nền nông nghiệp ngày càng phát triển thì đồng thời với nó là sự gia tăng sử dụng các loại phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật. Điều này không chỉ làm mất cân bằng sinh thái mà d− l−ợng của nó còn gây ô nhiễm môi tr−ờng đất và bị rửa trôi xuống sông, suối, kênh, m−ơng, ao, hồ, càng làm gia tăng ô nhiễm nguồn n−ớc. * Nạn khai thác, đốt rừng bừa bãi gây xói mòn, thoái hóa đất và đồng thời làm cho nguồn n−ớc cạn kiệt, lũ lụt, hạn hán đang có xu thế gia tăng và nghiêm trọng hơn. Nhiều khu rừng ven biển đã có hàng chục năm tuổi có tác dụng chắn bão, chắn cát bay đang bị chặt phá để khai thác khoáng sản hay để nuôi trồng thuỷ sản... Đặc biệt, năm 2010, hiện t−ợng lũ chồng lên lũ ở các tỉnh miền Trung từ Nghệ An đến Khánh Hoà đã gây hiệt hại lớn cả về ng−ời và của mà nguyên nhân lớn là do đất rừng bị dành cho xây dựng thuỷ điện vừa và nhỏ đang mọc lên nh− nấm. Khi dự án thuỷ điện đ−ợc triển khai, ng−ời ta phải chặt phá cây cối để làm đập, mở đ−ờng vận chuyển thiết bị, máy móc, vật liệu và xây dựng đ−ờng truyền tải điện đến nơi tiêu thụ, tạo nơi ở mới cho dân tái định c−... Ước tính, để tạo ra 1 MW điện phải mất bình quân 10 ha rừng, để có 1.000 ha làm thuỷ điện phải san bằng 1.000- Tài nguyên n−ớc ở Việt Nam 13 2.000 ha đất th−ợng nguồn. Mặt khác, do ch−a phối hợp đ−ợc trong điều tiết, xả n−ớc của hồ thuỷ điện trong vùng khi có m−a lũ nên đã gây ra hiện t−ợng “lũ chồng lên lũ”, làm thiệt hại “kép” cho ng−ời dân sống ở vùng hạ l−u. Nhìn chung, tài nguyên n−ớc ở Việt Nam tuy phong phú nh−ng không dồi dào. Trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, việc khai thác, sử dụng và quản lý tài nguyên n−ớc ch−a khoa học, thiếu quy hoạch, cơ sở hạ tầng cấp n−ớc xuống cấp, nhận thức ch−a thật đúng đắn về nguồn tài nguyên quan trọng này nên n−ớc thải không qua xử lý đã bị xả ra môi tr−ờng. Và còn tồn tại thói quen sử dụng n−ớc lãng phí, đổ chất thải bừa bãi ra sông ngòi, ao hồ... Cùng với biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, n−ớc biển dâng đã và đang làm suy giảm nguồn tài nguyên n−ớc dẫn đến những hệ lụy khó l−ờng mà cộng đồng dân c− cả 3 miền đất n−ớc đang phải gánh chịu. Rút bài học kinh nghiệm từ các n−ớc đi tr−ớc, chúng ta phải chuyển sang quản lý tổng hợp tài nguyên n−ớc mà đi đầu là quản lý n−ớc theo l−u vực sông. Thực hiện đồng bộ và quyết liệt các giải pháp sau: Bắt buộc các khu, cụm, điểm công nghiệp phải có hệ thống xử lý n−ớc thải tập trung; Quy hoạch lại làng nghề, những ngành nghề có n−ớc thải gây ô nhiễm phải đ−ợc xử lý tr−ớc khi thải ra môi tr−ờng; Đẩy mạnh xây dựng hệ thống cung cấp n−ớc sạch cả ở đô thị và nông thôn, chú ý sửa chữa, nâng cấp cơ sở hạ tầng cấp n−ớc tránh xuống cấp để giảm thất thoát, từng b−ớc thực hiện giá n−ớc theo thị tr−ờng và thu phí n−ớc thải đầy đủ từ sinh hoạt, dịch vụ đến sản xuất; Nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học trong việc xử lý n−ớc thải đô thị, nhất là các đô thị lớn; áp dụng công nghệ t−ới tiết kiệm, hiệu quả cho cây trồng, thay đổi cơ cấu cây trồng thích hợp với từng vùng nhằm giảm và sử dụng n−ớc có hiệu quả trong nông nghiệp; Ngăn chặn việc phá rừng đầu nguồn, rừng ven biển và trồng rừng có hiệu quả để bảo tồn và bảo vệ nguồn n−ớc. Đồng thời, th−ờng xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi ng−ời dân trong khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm n−ớc do nguồn n−ớc của n−ớc ta đang bị suy giảm và tình trạng thiếu n−ớc sạch trong t−ơng lai gần đang trở thành hiện hữu. Thời gian qua, công tác nghiên cứu, đánh giá, quản lý tài nguyên n−ớc đã có những tiến bộ, nh−ng trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn ra gay gắt thì chúng ta còn nhiều việc phải làm. Tài liệu tham khảo 1. Cục Môi tr−ờng. Hành trình về sự phát triển bền vững 1972, 1992, 2002. H.: Chính trị Quốc gia, 2002 . 2. Kỉ yếu hội thảo “Hội kinh tế môi tr−ờng - Kỷ niệm Ngày Môi tr−ờng”. H.: 2008. 3. Trần Thanh Lâm. Tài nguyên n−ớc trong bối cảnh biến đổi khí hậu - Hiện trạng và dự báo. Tạp chí Quản lý nguồn n−ớc, số 165- 10/2009. 4. Kỷ yếu hội thảo “Biến đổi khí hậu: Mối liên quan tới đói nghèo và phát triển bền vững”. H.: 2007. 5. Trần Thanh Lâm. Tổ chức l−u vực sông - mô hình quản lý hiệu quả: Bài học kinh nghiệm. Tạp chí Tài nguyên và Môi tr−ờng, số 3- 6/2009. 6. Một số trang web: www.nea.gov.vn; www. epe.edu.vn; www.thiennhien.net; www.vnwp.org/tintuc
File đính kèm:
- tai_nguyen_nuoc_o_viet_nam_nguyen_nhan_suy_giam_va_he_luy.pdf