Tài trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang: Vai trò của khách du lịch

Tóm tắt Nghiên cứu này nhằm xác định mức sẵn lòng trả trung bình và các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất giá sẵn lòng trả của du khách trong nước. Thông qua đó, đưa ra những gợi ý chính sách đối với cơ quan quản lý địa phương trong việc tài trợ các hoạt động bảo vệ môi trường cho vịnh Nha Trang. Phương pháp tiếp cận là hàm thỏa dụng ngẫu nhiên, phương pháp ước lượng giá sẵn lòng trả trung bình (MWTP) của Kaplan-MeierTurnbull và mô hình hồi quy logits được sử dụng để phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất sẵn lòng trả (WTP) của du khách nội địa cho việc bảo vệ cảnh quan và tài nguyên môi trường của vịnh Nha Trang. Kết quả nghiên cứu cho thấy du khách sẵn sàng đóng góp một khoản tiền cho một ngày đêm nghỉ tại khách sạn là 19.561 đồng/nguời/ngày đêm. Tổng số tiền mà du khách sẵn lòng trả cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang là trên 52,719 tỷ đồng trong năm 2007. Một số yếu tố làm tăng xác suất sẵn lòng trả của du khách như: độ học vấn, tình trạng hôn nhân (du khách đã lập gia đình) và thu nhập. Ngược lại, các yếu tố tuổi và giới tính (nam giới) làm giảm xác suất sẵn lòng trả của du khách cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang. A

pdf 9 trang yennguyen 5520
Bạn đang xem tài liệu "Tài trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang: Vai trò của khách du lịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang: Vai trò của khách du lịch

Tài trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang: Vai trò của khách du lịch
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 79
VAÁN ÑEÀ NGHIEÂN CÖÙU
I. MỞ ĐẦU
Sự phát triển của bất kỳ ngành kinh tế nào 
cũng gắn liền với những vấn đề về môi trường. 
Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa đối với sự 
phát triển của ngành kinh tế tổng hợp có tính liên 
ngành, liên vùng, và xã hội hoá cao như du lịch. 
Môi trường được xem là yếu tố quan trọng ảnh 
hưởng trực tiếp đến chất lượng, tính hấp dẫn 
của các sản phẩm du lịch, qua đó ảnh hưởng 
đến khả năng thu hút khách, đến sự tồn tại của 
hoạt động du lịch. Hoạt động phát triển du lịch 
đồng nghĩa với việc gia tăng lượng khách du lịch 
TÀI TRỢ CHO HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA VỊNH NHA TRANG:
VAI TRÒ CỦA KHÁCH DU LỊCH
FINANCING ENVIRONMENTAL PROTECTION ACTIVITIES IN NHA TRANG BAY:
THE ROLE OF THE VISITORS
Phạm Hồng Mạnh
Khoa Kinh tế - Đại học Nha Trang
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm xác định mức sẵn lòng trả trung bình và các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất giá 
sẵn lòng trả của du khách trong nước. Thông qua đó, đưa ra những gợi ý chính sách đối với cơ quan quản lý 
địa phương trong việc tài trợ các hoạt động bảo vệ môi trường cho vịnh Nha Trang. Phương pháp tiếp cận là 
hàm thỏa dụng ngẫu nhiên, phương pháp ước lượng giá sẵn lòng trả trung bình (MWTP) của Kaplan-Meier-
Turnbull và mô hình hồi quy logits được sử dụng để phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất sẵn lòng trả 
(WTP) của du khách nội địa cho việc bảo vệ cảnh quan và tài nguyên môi trường của vịnh Nha Trang.
Kết quả nghiên cứu cho thấy du khách sẵn sàng đóng góp một khoản tiền cho một ngày đêm nghỉ tại 
khách sạn là 19.561 đồng/nguời/ngày đêm. Tổng số tiền mà du khách sẵn lòng trả cho quỹ môi trường của 
vịnh Nha Trang là trên 52,719 tỷ đồng trong năm 2007. Một số yếu tố làm tăng xác suất sẵn lòng trả của du 
khách như: độ học vấn, tình trạng hôn nhân (du khách đã lập gia đình) và thu nhập. Ngược lại, các yếu tố tuổi 
và giới tính (nam giới) làm giảm xác suất sẵn lòng trả của du khách cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang.
Abstract
This study determines the mean willingness to pay and factors affecting the probability of the 
willingness to pay by domestic tourists. Through it, make out the recommendation policies for the local 
administrative agency to finance the environmental protection fund for Nha Trang Bay. The approach methods 
were the random untility function with estimating mean willingness to pay (MWTP) by Kaplan-Meier-Turnbull. 
The logits model has been used to analyze the factors affecting the probability of the willingness to pay (WTP) 
of domestic visitors for the Nha Trang Bay’ protection of landscape and environmental resource. 
Research results showed that visitors were willing to contribute the environmental protection fund with 
the amount of 19.561 VND /visistor/night at the hotel. Total amount for Nha Trang Bay’ environmental fund 
that dometic visitors are willing to pay to is the 52,719 billion VND in 2007. Some factors increase the 
probability of the willingness to pay by visitors such as: education level, marital status (tourist married) and 
income. Conversely, the factors age and gender (men) decrease the probability of the willinness to pay by 
visitors for Nha Trang Bay’ environmental fund.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
80 v TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
tới các địa điểm tham quan du lịch, tăng cường 
phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ và gia tăng nhu 
cầu sử dụng tài nguyên, v.v.., từ đó dẫn đến sự 
gia tăng áp lực của phát triển du lịch đến môi 
trường. Chính vì vậy, bảo vệ tài nguyên và môi 
trường du lịch là yêu cầu cấp bách không chỉ đối 
với riêng Việt Nam mà còn là thách thức lớn đối 
với các quốc gia trên thế giới.
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu để 
đưa ra hệ thống các giải pháp kinh tế - kỹ thuật 
góp phần bảo vệ môi trường nói chung và môi 
trường du lịch nói riêng. Trong năm 1993 tác 
giả Dixon và cộng sự [1] đã sử dụng phương 
pháp đánh giá ngẫu nhiên để ước lượng giá sẵn 
lòng trả cho công viên bờ biển Bonaire và giá 
sẵn lòng trả trung bình được xác định là 27,4 
đô la Mỹ hay tác giả Churaitapvong và Jittapatr 
Kruavan[2] đã sử dụng phương pháp đánh giá 
ngẫu nhiên trong nghiên cứu điển hình về cải 
thiện chất lượng nước của sông Chaopraya, Thái 
Lan vào năm 2003. Giá sẵn lòng trả của mỗi hộ 
gia đình cho việc cải thiện chất lượng nước sông 
này được tìm ra là 100,81 bath/ tháng
Tại Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu 
dưới góc độ kinh tế tài nguyên môi trường nhằm 
góp phần đưa ra những giải pháp quan trọng 
cho hoạt động bảo vệ môi trường như trong năm 
2001 Bộ kế hoạch và Đầu tư (MPI), Chương 
trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) và cơ 
quan hợp tác & phát triển Thụy Sỹ (SDC) đã sử 
dụng phương pháp phương pháp đánh giá ngẫu 
nhiên để xác định giá sẵn lòng trả trung bình để 
duy trì hoạt động bảo vệ và phát triển tài nguyên 
môi trường của vịnh Hạ Long. Mức giá sẵn lòng 
trả trung bình được xác định là 2,32 đô la Mỹ cho 
một ngày đêm nghỉ tại khách sạn ở Hạ Long[3]. 
Một công trình nghiên cứu khác trong năm 2007 
do hai tác giả Đặng Lê Hoa & Nguyễn Thị Ý Ly 
sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên để 
ước lượng giá sẵn lòng trả của các hộ gia đình 
tại Thành Phố Hồ Chí Minh về kế hoạch bảo 
tồn rừng quốc gia Lò Gò – Xa Mát ở Tây Ninh 
là 5.666 đồng [4] Những hộ gia đình này sẵn 
lòng trả giá trị trên hàng tháng được tính thêm 
vào hóa đơn tiền điện tiêu dùng của các hộ gia 
đình này, v.v
Với vịnh Nha Trang là vịnh biển có vai trò 
rất quan trọng trong hoạt động phát triển kinh tế 
du lịch của Việt Nam. Trong những năm gần đây 
vịnh Nha Trang đang đứng trước nhiều thách 
thức và khó khăn trong quá trình phát triển kinh 
tế và quá trình đô thị hóa của địa phương. Theo 
báo cáo1 của Viện hải dương học, chỉ tính từ 
năm 1994 đến 2005 độ phủ của san hô sống đã 
giảm từ 52,4% xuống 21,2%; tốc độ giảm trung 
bình 2,8%/năm. Nếu duy trì mức độ suy giảm 
như hiện nay, 30 năm nữa rạn san hô trong vịnh 
Nha Trang sẽ không còn. Hòn Tằm và Hòn Miễu 
là vùng rạn san hô bị suy thoái trầm trọng nhất và 
rong rêu đang bắt đầu phát triển. Nguyên nhân 
của tình trạng này là việc khai thác thủy sản 
mang tính hủy diệt bằng chất nổ, thuốc độc,v.v 
Ngoài ra, các hoạt động du lịch còn gây hại cho 
rạn san hô do rác thải từ tàu du lịch, do neo đậu 
tàu thuyền, giẫm đạp của du khách khi bơi lặn 
và đánh bắt sinh vật rạn,v.v Chính vì thế, môi 
trường vịnh Nha Trang vốn được xem là trong 
sạch nay tiềm ẩn nhiều nguy cơ suy giảm.
Nếu không tìm ra những giải pháp kinh tế 
- kỹ thuật mà trước hết là những nguồn lực tài 
chính cần thiết để góp phần tài trợ cho các hoạt 
động bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang thì 
môi trường của vịnh Nha Trang ngày càng xấu đi 
và chắc chắn không chỉ làm suy thoái tài nguyên 
môi trường của vịnh Nha Trang mà còn tác động 
xấu đến việc cạnh tranh và thu hút du khách của 
ngành du lịch Nha Trang - Khánh Hòa.
II - CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Độ thỏa dụng - cơ sở của việc xác 
định giá sẵn lòng trả (WTP)
Việc sử dụng ước lượng giá sẵn lòng trả 
dựa trên mô hình cơ bản cho việc phân tích 
những câu trả lời trong nghiên cứu đánh giá 
ngẫu nhiên, xuất phát từ mô hình đánh giá độ 
thỏa dụng ngẫu nhiên [5]. 
Hàm hữu dụng [6] của người trả lời thứ j 
được xác định một cách gián tiếp như sau:
1 Báo cáo tham luận tại hội thảo “Vì sự phát triển bền vững 
 vịnh Nha Trang do UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức nhân 
 Festival biển Nha Trang tháng 6 năm 2007.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 81
Uij = Ui (Yj, Zj, εij)
Trong đó: Yj là yếu tố thu nhập của người 
 trả lời thứ j
 Zj là yếu tố thể hiện các đặc 
 điểm kinh tế xã hội của người 
 trả lời thứ j 
 εij là yếu tố không quan sát 
 được về sự ưa thích của 
 người trả lời 
Để mô tả các đặc tính của i có hai giá trị: “0” 
và “1”. Giá trị “1” là giá trị sẵn lòng trả và giá trị 
‘0” là giá trị không sẵn lòng trả cho cho việc cải 
thiện hàng hóa chất lượng môi trường. 
Khi có sự thay đổi từ trạng thái “0” tới trạng 
thái “1”, những đặc tính khác được đưa vào để 
làm thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái kia 
được gọi là hàng hóa chất lượng môi trường (q) 
được thể hiện trong mô hình. Vì vậy, hàm hữu 
dụng[9] ở trạng thái “0” và trạng thái “1” được viết 
như sau: 
U0j = U0 (Yj, Zj, q
0, ε0j)
U1j = U1 (Yj, Zj, q
1, ε1j)
Một câu hỏi sẽ đề nghị người trả lời về mức 
sẵn lòng trả của họ cho việc cải thiện chất lượng 
môi trường. Họ sẵn lòng trả ở mức Tj và nếu như 
chất lượng môi trường thay đổi từ trạng thái “0” 
đến trạng thái ‘1”. Nếu câu trả lời là “Có”, điều 
này có nghĩa rằng họ sẵn lòng trả và độ thỏa 
dụng của họ có thể cao hơn trạng thái “0” hoặc 
ở trạng thái “1”.
U1j (Yj - Tj, Zj, ε1j) > U0j (Yj, Zj, ε0j) [7]
Khả năng để du khách trả lời là “Có” là khả 
năng mà người được phỏng vấn nghĩ rằng họ có 
thể sẽ tốt nhất ở trạng thái “1”, mặc dù họ chỉ trả 
ở trạng thái Tj
Pr(Cój) = Pr(U1j (Yj - Tj, Zj, ε1j) > U0j (Yj, Zj, ε0j)) [8]
Biến đổi một cách đơn giản, hàm hữu dụng 
được viết dưới dạng:
Pr(Cój) = Pr[V1j(Yj - Tj, Zj) + ε1j > V0j(Yj, Zj) + ε0j] [9]
Hàm hữu dụng này là một hàm tuyến tính 
và có thể được viết dưới dạng:
V1j(Yj - Tj) = α1Zj + β1(Yj - Tj) 
V0j(Yj) = α0Zj + β0Yj
V1j - V0j = (α1 - α0)Zj + β1(Yj - Tj) - β0Yj 
Với giả thiết rằng hữu dụng biên của thu 
nhập là một hằng số nằm giữa trạng thái “0” và 
trạng thái “1” β1 bằng với β0 [13] nên có thể viết 
lại hàm như sau:
V1j - V0j = (α1 - α0)Zj - βTj
Đặt α = (α1 - α0) , do đó:
V1j - V0j = αZj - βTj
Khả năng để du khách trả lời là “Có” sẽ là: 
Pr(Cój) = Pr(αZj - βTj + εj>0) εj = ε1j - ε0j [10]
Theo Kaplan-Meier-Turnbull, để xác định 
mức sẵn lòng trả trung bình cần xây dựng các 
mức sẵn lòng trả. Giá sẵn lòng trả trung bình 
(MWTP) được xác định bằng công thức MWTP 
= ∑tj (Pj – Pj+1)
 [11]. Trong đó: tj là các mức sẵn 
lòng trả và Pj là tỉ lệ trả lời “Có”.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự sẵn lòng trả
Một mô hình hữu dụng ngẫu nhiên với hàm 
hữu dụng tuyến tính được sử dụng để xác định 
các yếu tố ảnh hưởng tới mức sẵn lòng trả của 
du khách. Do vậy, chúng ta sử dụng mô hình hồi 
qui logit với hai giá trị trả lời là Có/Không đối với 
câu hỏi sẵn lòng trả (biến phụ thuộc). Mô hình 
hồi quy logit có dạng sau đây: 
 e(Yj, Zj,εij)
P (Có
j
) = −−−−−−−−−−
 1 + e(Yj, Zj,εij)
Trong đó, các yếu tố: Yj, zj, εij là các biến 
được giải thích tại mục 2.1
III - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
3.1. Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu là du khách nội địa 
khi thực hiện du lịch tại các địa điểm du lịch của 
vịnh Nha Trang trong năm 2008. Nghiên cứu đã 
tiến hành điều tra 350 du khách đến từ nhiều địa 
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
82 v TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
phương khác nhau của Việt Nam được phỏng 
vấn bằng một bảng câu hỏi xây dựng sẵn.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định mức giá sẵn lòng trả trung bình 
(MWTP) của du khách nội địa bằng phương 
pháp Kaplan-Meier-Turnbull.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá sẵn 
lòng trả của du khách nội đối với quỹ môi trường 
của vịnh Nha Trang, đồng thời xác định mức độ 
ảnh hưởng của các yếu tố này đối với giá sẵn 
lòng trả của du khách nội địa.
Đề xuất các chính sách nhằm cải thiện chất 
lượng môi trường của Vịnh Nha Trang.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp xác định giá sẵn lòng trả 
trung bình (MWTP)
Để xác định MWTP của du khách cho quỹ 
môi trường của vịnh Nha Trang, nghiên cứu này 
đã xây dựng sáu mức giá sẵn lòng trả được thiết 
lập đó là: t1, t2, t3, t4, t5, t6. Từ phương pháp của 
Kaplan-Meier-Turnbull [12] và từ kết quả trả lời 
của mẫu điều tra, số lượng mẫu trả lời là “Có” và 
tỉ lệ mẫu trả lời “Có” trên tổng số mẫu trả lời là: 
P1, P2, P3, P4, P5, P6. được thể hiện qua bảng 1
Bảng 1. Phương pháp của Kaplan-Meier-Turnbull
Mức sẵn lòng trả 
(tj)
Số mẫu trả lời 
`(n)
Số mẫu trả lời “Có” 
(Y)
Tỉ lệ trả lời (Pj) 
(Y/n)
t1 P1
t2 P2
t3 P3
t4 P4
t5 P5
t6 P6
 (Nguồn: Haab, T.C. and K.E. McConnell)
3.3.2. Phương pháp độ thỏa dụng ngẫu nhiên 
và mô hình kinh tế lượng
Phương pháp nghiên cứu dựa trên phương 
pháp đánh giá độ thỏa dụng ngẫu nhiên của kinh 
tế học. Một mô hình kinh tế lượng nhị thức được 
xây dựng để tìm ra những yếu tố kinh tế xã hội 
của du khách có tác động thực sự đến giá sẵn 
lòng trả cho việc duy trì và tái tạo cảnh quan môi 
trường của vịnh Nha Trang. Các biến cụ thể đưa 
vào những mô hình kinh tế lượng này được diễn 
giải cụ thể dưới đây.
INC – Biến số thu nhập của du khách. Kỳ 
vọng nghiên cứu mang dấu dương (+). Theo 
kinh nghiệm và kết quả điều tra cùng với những 
nghiên cứu khác cho rằng biến số thu nhập sẽ 
làm tăng xác suất sẵn lòng trả của du khách.
MR - Là biến giới tính (biến dummy), nhận 
giá trị 0 nếu du khách là nữ, nhận giá trị 1 nếu 
du khách là nam. 
AGE - Biến số tuổi tính từ năm sinh của du 
khách. 
MAR - Biến tình trạng hôn nhân (là biến 
Dummy), nhận giá trị 0 nếu du khách chưa có 
gia đình và giá trị 1 nếu du khách đã có gia đình. 
EDU - Là biến thể hiện số năm đi học của 
du khách. Kỳ vọng mang dấu dương (+). Điều 
này có nghĩa là trình độ học vấn của du khách 
càng cao càng làm tăng xác suất sẵn lòng trả 
cho quỹ môi trường
ε là sai số ngẫu nhiên của hàm hồi qui tổng 
thể khi các giả định truyền thống của hàm hồi qui 
tổng thể được thoả mãn.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 83
Do đó, để định lượng ảnh hưởng của một 
số biến số kinh tế - xã hội đối với việc du khách 
được đánh giá là có sẵn lòng trả hay không, một 
mô hình hồi quy logistic đã được thiết lập mà 
biến phụ thuộc có giá trị bằng 1 (nếu du khách 
sẵn lòng trả) và bằng 0 (cho tất cả những du 
khách khác).
Mô hình Binary Logistic cho các Pi được xác 
định như sau:
 e (β0 +	β1INC +	β2MR +	β3AGE +	β4MAR +	β5EDU +	ε)
P = −−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−−
 1 + e (β0 +	β1INC +	β2MR +	β3AGE +	β4MAR +	β5EDU +	ε)
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Nghiên cứu đã tiến hành thu thập thông 
tin theo hình thức nêu trên với 350 phiếu được 
phỏng vấn, sau khi loại những mẫu không đạt 
yêu cầu nghiên cứu, số mẫu chỉ còn 331 mẫu đủ 
chất lượng để sử dụng phân tích và sử dụng mô 
hình hồi quy logit.
4.1. Ước lượng giá sẵn lòng trả của du khách 
nội địa
Kết quả điều tra cho thấy có 18 du khách 
không cho biết về mức sẵn lòng trả của mình 
cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang. Mức 
sẵn lòng trả của du khách ở các mức độ khác 
nhau được thể hiện qua bảng dưới đây:
Bảng 2. Mức sẵn lòng trả (WTP) của du khách nội địa
Mức sẵn lòng trả Số lượng trả lời (người)
Tỉ lệ (%)
(%)
Không sẵn lòng trả 18 5,44
5 nghìn đồng 77 23,26
10 nghìn đồng 56 16,92
20 nghìn đồng 80 24,17
30 nghìn đồng 39 11,78
40 nghìn đồng 29 8,76
50 nghìn đồng 32 9,67
Tổng 331 100,0
 (Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Từ bảng trên cho thấy, mức sẵn lòng trả phổ biến nhất ở mức 5 nghìn đồng, 10 nghìn đồng và 
20 nghìn đồng/người/1 đêm, chiếm tỉ lệ lần lượt là 23,26%, 16,92 và 24,17%. Những du khách sẵn 
lòng trả ở mức cao từ 40 đến 50 nghìn đồng/người/1 đêm chỉ chiếm dưới 10%. 
Mức sẵn lòng trả của du khách nội địa cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang được tính toán 
theo phương pháp Turnbull. Mức sẵn lòng trả trung bình được xác định là 19.561 đồng/người/1 đêm 
tại khách sạn.
Bảng 3. Ước lượng giá sẵn lòng trả bằng phương pháp Turnbull
Mức giá sẵn lòng trả (tj)
Số du khách phản 
hồi (n)
Số lượng du khách đồng ý 
sẵn lòng trả (Y)
Tỉ lệ trả lời “Có” sẵn lòng 
trả (Pj) (%)
(Y/n)
5 nghìn đồng 331 313 94,56
10 nghìn đồng 331 236 71,30
20 nghìn đồng 331 180 54,38
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
84 v TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
30 nghìn đồng 331 100 30,21
40 nghìn đồng 331 61 18,43
50 nghìn đồng 331 32 9,67
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra của tác giả)
MWTP = ∑tj (Pj – Pj+1) = 19.561 đồng/người/đêm
4.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới giá sẵn lòng trả (WTP) của du khách đối với vịnh Nha 
Trang
Theo kết quả điều tra từ mẫu điều tra cho thấy có tới 38,4% số lượng du khách được hỏi đều 
không thích việc tồn tại nhiều rác thải tại các khu du lịch của vịnh Nha Trang; có khoảng 21% số du 
khách không hài lòng về việc bán hàng rong và tranh cãi của những người bán hàng, trong khi đó có 
7,6% số du khách không thích về thái độ phục vụ của nhân viên du lịch và khoảng 12% số du khách 
không hài lòng về những nguyên nhân khác. Những vấn đề về môi trường du lịch của Nha Trang 
được thể hiện qua bảng 4. 
Bảng 4. Những vấn đề về môi trường du lịch ở Nha Trang
 Những vấn đề Số lượng (Người) Tỉ lệ (%)
Rác thải 127 38,4
Bán hàng rong nhiều 69 20,8
Cãi nhau trên bãi biển 71 21,5
Thái độ phục vụ của nhân viên du lịch 25 7,6
Khác 39 11,8
Tổng 331 100,0
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Mục tiêu của ngành du lịch Nha Trang là 
không chỉ dựa vào nguồn lực của địa phương 
mà còn tranh thủ sự ủng hộ của toàn xã hội, 
nhất là du khách trong việc duy trì, tái tạo 
tài nguyên môi trường của vịnh Nha Trang. 
nghiên cứu đã sử dụng mô hình hồi qui 
binary logistis để phân tích các nhân tố tác 
động thực sự tới giá sẵn lòng trả và ước lượng 
xác suất sẵn lòng trả của du khách. Từ kết quả 
hồi quy cho thấy tỉ lệ dự đoán đúng về giá sẵn 
lòng trả của du khách nội địa của toàn bộ mô 
hình là 94,6% . Điều này có nghĩa rằng có tới 
94,6% du khách nội địa sẵn lòng trả một khoàn 
tiền cho việc duy trì cảnh quan và bảo vệ môi 
trường của vịnh Nha Trang. Như vậy, nếu như 
trong năm 2007, chỉ tính riêng du khách nội địa 
đến Nha Trang là 925 nghìn du khách với tổng 
số ngày lưu trú là 2.847,8 ngày, trung bình một 
du khách nội địa lưu trú là 3,08 ngày thì số 
tiền mà du khách sẵn lòng trả cho quỹ bảo vệ 
môi trường của vịnh Nha Trang sẽ là: 925.000 
du khách * 3,08 ngày *94,6% *19.561 đồng/
du khách/ngày đêm = 52.719.907.394 đồng 
(52,719 tỷ đồng) 
Kết quả cụ thể của mô hình trong trường 
hợp này được thể hiện qua bảng 4.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 85
Bảng 4. Mô hình Binary Logistic về giá sẵn lòng trả (WTP)
Biến phụ thuộc: Giá sẵn lòng trả của 
du khách (Sẵn lòng trả = 1, không 
sẵn lòng trả = 0)
Hệ số
(bk )
S.E. Wald df Sig. Exp(B)
Nam giới (biến dummy) MR -1,141 0,584 3,825 1 0,050** 0,319
Tuổi AGE -0,033 0,020 2,784 1 0,095* 0,968
Tình trạng hôn nhân MAR 0,931 0,754 1,526 1 0,217 2,538
Trình độ học vấn EDU 0,741 0,573 1,675 1 0,196 2,099
Thu nhập INC 0,001 0,000 6,072 1 0,014** 1,001
Hằng số β0 2,428 0,994 5,963 1 0,015** 11,333
Số quan sát 331
-2 Log likelihood 116,167
 (Nguồn: Haab, T.C. and K.E. McConnell) 
* Có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10%
 ** Có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%
 Từ kết quả hồi quy cho thấy, bộ dữ liệu đã 
thể hiện khá tốt sự phù hợp mô hình của tổng 
thể. Hệ số của các biến mang dấu âm có nghĩa 
nếu các yếu tố khác không đổi, việc tăng thêm 
một đơn vị biến này sẽ làm giảm xác suất sẵn 
lòng trả của du khách. Những biến có hệ số 
mang giá trị dương là những yếu tố làm tăng xác 
suất sẵn lòng trả của du khách nếu tăng thêm 
một đơn vị biến này trong điều kiện cố định tất 
cả biến còn lại. 
- Giới tính: Nếu thay MR = 0 cho được mô 
hình cho nữ giới và MR = 1 cho được kết quả mô 
hình dành cho nam giới.
Biến nam giới trong hàm hồi quy mang dấu 
âm. Điều này hàm ý rằng nữ giới sẵn lòng trả 
một khoản lệ phí cho quỹ môi trường của vịnh 
Nha Trang cao hơn nam giới. Vấn đề này có thể 
được hiểu là nữ giới thường có trách nhiệm về 
các vấn đề của cộng đồng và xã hội cao hơn 
nam giới, nên họ thường tự nguyện thực hiện 
hơn và sẽ tích cực hơn trong việc đóng góp và 
thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Tuổi của du khách: Trong mô hình của hồi 
quy trên, biến tuổi mang dấu âm. Điều này ám 
chỉ rằng nếu các yếu tố khác không đổi, việc 
tăng thêm một đơn vị biến tuổi sẽ làm giảm xác 
suất sẵn lòng trả của du khách ở mức ý nghĩa 
10% trong giới hạn biến thiên độ tuổi từ 18 đến 
65. Vấn đề này có thể được giải thích là những 
người lớn tuổi thường quan tâm tới các vấn đề 
ở hiện tại nhiều hơn mà ít hoặc không quan tâm 
nhiều tới những vấn đề trong tương lai. 
- Tình trạng hôn nhân: Kết quả hồi quy cũng 
cho thấy tình trạng hôn nhân của du khách nội 
địa có dấu dương. Xác suất để những người đã 
có gia đình sẵn lòng chi trả cho quỹ môi trường 
của vịnh Nha Trang là cao hơn so với những 
người chưa có gia đình. Điều này dễ thấy rằng, 
những người đã có gia đình khi đi du lịch đa phần 
là những người có thu nhập khá và ổn định, họ 
dễ dàng bỏ ra một khoản tiền để được hưởng 
chất lượng môi trường du lịch tốt hơn ở hiện tại 
hoặc có giá trị sử dụng hàng hóa chất lượng môi 
trường tốt hơn trong tương lai.
Tuy nhiên, yếu tố này không có ý nghĩa 
thống kê ở cả hai mức ý nghĩa 5% và 10%.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
86 v TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
- Trình độ học vấn: Trình độ học vấn cũng 
có dấu như dự đoán (dấu dương). Điều này cho 
thấy rằng, xác suất để những du khách có trình 
độ học vấn cao sẵn lòng đóng góp cho quỹ môi 
trường của vịnh Nha Trang là cao hơn. Điều này 
có thể từ quá trình điều tra chọn mẫu (thông 
thường những du khách có trình độ học vấn 
cao hơn thì việc hoàn thành các câu hỏi tốt hơn, 
những du khách có trình độ học vấn thấp đã 
không hoàn thành một cách đầy đủ nên những 
bộ câu hỏi này đã bị loại ra ngay). Mặt khác, 
những người có trình độ học vấn cao thường là 
những người được giáo dục một cách bài bản. 
Do vậy, họ có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi 
trường – cái mà họ sẽ mong muốn được hưởng 
trong tương lai. 
- Thu nhập: Kết quả hồi quy cho thấy, thu 
nhập trong mô hình cũng cho dấu như mong đợi 
(dấu dương) và có ý nghĩa thống kê ở mức ý 
nghĩa 5%. Kết quả này cho thấy rằng xác suất để 
du khách sẵn lòng trả cho quỹ môi trường vịnh 
Nha Trang là cao hơn nếu như thu nhập của họ 
càng cao trong điều kiện các yếu tố khác không 
đổi. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết 
kinh tế đó là khi thu nhập cao hơn, người tiêu 
dùng sẵn lòng chi tiêu cho hàng hóa nhiều hơn, 
trong đó có hàng hóa chất lượng môi trường. 
V. KẾT LUẬN KHUYẾN NGHỊ
Từ kết quả nghiên cứu trên đã cho phép rút 
ra một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, hầu hết du khách nội địa đều sẵn 
lòng trả một khoản tiền từ việc đóng góp thêm 
vào giá thuê phòng tại khách sạn ở Nha Trang. 
Số tiền mà du khách nội địa sẵn sàng đóng góp 
cho một ngày đêm nghỉ tại khách sạn là 19.561 
đồng/nguời/ngày đêm. Tổng số tiền mà chỉ tính 
riêng du khách nội địa sẵn lòng trả cho quỹ môi 
trường của vịnh Nha Trang là trên 52,719 tỷ 
đồng vào thời điểm năm 2007. Do vậy, có thể 
đề nghị với chính quyền địa phương, Ban quản 
lý khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang nên sử dụng 
chính sách thuế, hoặc lệ phí đối với du khách 
khi sử dụng nguồn tài nguyên của vịnh bằng 
cách tính thêm khoản phí vào tiền thuê phòng ở 
khách sạn tại Nha Trang. Đây cũng chính là một 
trong những vấn đề cốt yếu trong việc giải quyết 
vấn đề hàng hóa công - hàng hóa chất lượng 
môi trường. 
Thứ hai, từ kết quả mô hình kinh tế lượng 
cho thấy cần có những chính sách để thu hút 
và tranh thủ sự ủng hộ đối với những du khách 
có thu nhập cao. Do vậy, trong chiến lược phát 
triển du lịch của mình, một mặt Nha Trang cần 
tập trung đầu tư trở thành trung tâm du lịch lớn 
với chất lượng dịch vụ - du lịch dành cho những 
người có thu nhập cao, đồng thời cần có những 
chính sách khuyến khích những du khách này 
sẵn lòng tài trợ nhiều hơn cho các hoạt động 
bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang. 
Trong điều kiện nền kinh tế càng phát triển 
thì người dân càng có điều kiện hơn về thu nhập, 
vì vậy mà nhu cầu đi du lịch của người dân ngày 
càng nhiều hơn và rất có thể mức giá sẵn lòng 
trả của du khách cho quỹ môi trường của vịnh 
Nha Trang có thể sẽ thay đổi theo chiều hướng 
tích cực hàng năm. Do đó, các nghiên cứu điều 
tra mức sẵn lòng trả của du khách nên được 
đánh giá định kỳ từ 3 tới 5 năm một lần để xác 
định mức phí phụ thu từ du khách tại khách sạn 
ở Nha Trang.
Thứ ba, nếu xem xét từ góc độ nào đó 
có thể thấy rằng, với ưu điểm của mình Nha 
Trang là bảo tàng sinh vật biển “sống” của Việt 
Nam vừa thực hiện chức năng giải trí vừa thực 
hiện các chức năng về nghiên cứu - giáo dục 
môi trường biển. Nên chăng những người làm 
chính sách về du lịch cần có những chính sách 
quảng bá nhiều hơn ngoài các sản phẩm du lịch 
truyền thống mà còn hướng những sản phẩm 
và dịch vụ du lịch này phục vụ cho các hoạt 
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 87
động học tập và nghiên cứu. Điều này sẽ tạo 
ra lợi ích không chỉ về mặt tài chính mà còn tác 
động tích cực tới ý thức bảo vệ môi trường của 
du khách.
Sự đóng góp của du khách, những người 
được hưởng lợi trực tiếp từ tài nguyên môi 
trường của vịnh sẽ là một nguồn lực tài chính 
quan trọng góp phần tài trợ cho các hoạt động 
bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang. Do vậy, 
các cơ quan quản lý của địa phương có thể đề 
ra chính sách cho việc tạo ra một nguồn lực tài 
chính từ sự đóng góp tự nguyện của du khách 
hoặc có thể đưa ra mức phí sử dụng môi trường 
- tài nguyên của Nha Trang.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. [1]. John A Dixon, Louis Fallon Scura, Richard A Carpenter and Paul B Sherman. 1994. Economic 
analysis of Environmental Impact, Earthscan Publications Ltd, chap 5, p. 63 - 83.
2. [2]. Churaitapvong và Jittapatr Kruavan. 2003. A Contigent Valueation Study of the Chao Phraya river, 
Economy & Environment Program for Southeat Asia, reseach reports 2004.
3. [3]. Ministry of Planing and Investment, United Nations Development Programme & Swiss Agency for 
Development and Cooperation. 2001. Financing environmental Protection Activities in Quang Ninh 
Province.
4. [4]. Dang Le Hoa and Nguyen Thi Y Ly. 2007. Estimating households’ willingness to pay for preserving Lo 
Go - Xa Mat National Park, Tay Ninh province using contingent valuation method.
5. [5], [6], [7], [8], [9], [10]. Haab, T.C. and K.E. McConnell. 2002. Valuing Environmental and Natural 
Resources – The Econometrics of Non-market Valuation, Cheltenham and Northampton: Edward Elgar, pp 
25 – 27.
6. [11], [12]. Turnbull, B. 1976. The empirical distribution function with arbitrarily grouped, censored and 
truncated data, Joural of the Royal Statistical Sociaty, 38B, 290 - 95.

File đính kèm:

  • pdftai_tro_cho_hoat_dong_bao_ve_moi_truong_cua_vinh_nha_trang_v.pdf