Thách thức cho cơ quan thuế Việt Nam khi gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN

Bài viết dựa trên góc độ của lý thuyết hội nhập và lý thuyết về thuế quốc tế đánh giá và phân tích những thách thức trong ngắn hạn và dài hạn cho cơ quan thuế VN trước thềm ra đời và phát triển của Cộng đồng

Kinh tế ASEAN (AEC) từ 2015. Kết quả phân tích cho thấy VN về cơ bản cơ cấu

thuế các quốc gia ASEAN khá tương đồng nhau. Tuy nhiên, trên cơ sở so sánh các

đề xuất của OECD (2008, 2013) cho việc xây dựng mô hình quản lý thuế tiên tiến

đồng thời phân tích tương quan về năng lực quản lý thuế giữa các quốc gia trong

khối, Singapore được đánh giá là thành viên đã xây dựng những khuôn khổ quản lý

thuế đạt trình độ tiên tiến hơn. Chính vì vậy, để chuẩn bị cho việc hội nhập mang lại

những lợi ích cho quốc gia, VN cần có những bước chuẩn bị nghiêm túc và dài hạn

cho việc khẳng định thế mạnh và vị thế riêng của mình trong cộng đồng.

pdf 6 trang yennguyen 4180
Bạn đang xem tài liệu "Thách thức cho cơ quan thuế Việt Nam khi gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thách thức cho cơ quan thuế Việt Nam khi gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN

Thách thức cho cơ quan thuế Việt Nam khi gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
27
Thách thức cho cơ quan thuế 
Việt Nam khi gia nhập 
Cộng đồng Kinh tế ASEAN
ĐặNG THỊ BẠCH VâN
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Nhận bài: 29/07/2015 - Duyệt đăng: 03/10/2015
Bài viết dựa trên góc độ của lý thuyết hội nhập và lý thuyết về thuế quốc tế đánh giá và phân tích những thách thức trong ngắn hạn và dài hạn cho cơ quan thuế VN trước thềm ra đời và phát triển của Cộng đồng 
Kinh tế ASEAN (AEC) từ 2015. Kết quả phân tích cho thấy VN về cơ bản cơ cấu 
thuế các quốc gia ASEAN khá tương đồng nhau. Tuy nhiên, trên cơ sở so sánh các 
đề xuất của OECD (2008, 2013) cho việc xây dựng mô hình quản lý thuế tiên tiến 
đồng thời phân tích tương quan về năng lực quản lý thuế giữa các quốc gia trong 
khối, Singapore được đánh giá là thành viên đã xây dựng những khuôn khổ quản lý 
thuế đạt trình độ tiên tiến hơn. Chính vì vậy, để chuẩn bị cho việc hội nhập mang lại 
những lợi ích cho quốc gia, VN cần có những bước chuẩn bị nghiêm túc và dài hạn 
cho việc khẳng định thế mạnh và vị thế riêng của mình trong cộng đồng.
Từ khóa: Thách thức, quản lý thuế, Cộng đồng Kinh tế ASEAN, thuế 
quốc tế.
1. Dẫn nhập
Cộng đồng Kinh tế ASEAN – 
AEC được thành lập vào năm 2015 
với mục tiêu “ Tầm nhìn ASEAN 
2020” tạo điều kiện hình thành một 
ASEAN ổn định, phồn vinh, xây 
dựng những trụ cột vững chắc cho 
sự phát triển bền vững, cụ thể: (i) 
Các quốc gia thành viên hội nhập 
sâu, rộng hơn, (ii) Giảm bớt khoảng 
cách giữa các nước thành viên; và 
(iii) Nâng cao khả năng giải quyết 
các vấn đề hiện tại và cả các vấn đề 
mới phát sinh. Yêu cầu về cải cách 
về thể chế, về chính sách của các 
quốc gia thành viên cho quá trình 
hội nhập được thuận tiện là yêu cầu 
nhất thiết. Trong đó việc cải cách 
hệ thống thuế nội địa, thuế quốc tế 
và các bước chuẩn bị cho lộ trình 
hội nhập nhằm khẳng định tầm vóc 
cơ quan thuế VN trong khu vực 
là thách thức hiện tại cho cơ quan 
thuế quốc gia. Kết quả khảo sát của 
Hội Tư vấn thuế VN (2014) tiến 
hành trên 17 doanh nghiệp tư nhân 
(24,64%), 31 doanh nghiệp có vốn 
đầu tư nước ngoài (44,93%), 11 
doanh nghiệp là công ty TNHH/
công ty cổ phần có vốn nhà nước 
(15,94%), 1 doanh nghiệp nhà 
nước và 10 doanh nghiệp thuộc 
loại hình khác (14,45%) cho thấy: 
Về tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực 
hiện của các văn bản pháp luật thuế 
hiện hành, có 62,71% số cán bộ và 
88,89% số doanh nghiệp đánh giá 
ở mức trung bình và thấp, 27% 
cán bộ thuế và hơn 11% số doanh 
nghiệp có ý kiến đánh giá cao về 
tính minh bạch, rõ ràng của chính 
sách thuế hiện hành; đáng chú ý 
là khi được yêu cầu chỉ ra các văn 
bản pháp luật thuế cụ thể gây khó 
khăn trong việc thực hiện, cán bộ 
thuế và doanh nghiệp đều nêu ví dụ 
về thuế thu nhập cá nhân, thuế đối 
với nhà thầu nước ngoài, quy định 
về đối tương không chịu thuế của 
Luật Thuế giá trị gia tăng và các 
quy định về ưu đãi thuế thu nhập 
doanh nghiệp1. 
1
thue-khi-viet-nam-con-mot-minh-mot-san-
20141120114355994.htm
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016
Nghiên Cứu & Trao Đổi
28
2. Cơ sở lý thuyết 
Toàn cầu hóa và hội nhập – tăng 
cường nền kinh tế mở giúp trao đổi 
và đầu tư kết hợp với giảm thiểu 
chi phí vận chuyển và cải thiện 
thông tin liên lạc – có tác dụng ít 
nhiều trong việc xây dựng chính 
sách thuế:
Thuế có thể ảnh hưởng đến chi 
phí sản xuất hàng hoá và dịch vụ, 
và do đó thay đổi khả năng cạnh 
tranh quốc tế tương đối ở một số 
lĩnh vực, thúc đẩy thay đổi cơ cấu.
Du lịch và mua sắm xuyên biên 
giới có nghĩa là ngay cả thuế GTGT 
và thuế bán hàng, mà thông thường 
không áp dụng đối với hàng xuất 
khẩu, có thể ảnh hưởng đến nhu 
cầu của người nước ngoài đối với 
hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong 
nước.
Thuế thu nhập cá nhân có thể 
ảnh hưởng đến người lao động, đặc 
biệt là những người đang được trả 
lương cao, tùy thuộc vào quốc gia 
mà họ làm việc.
Thuế thu nhập doanh nghiệp có 
thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn địa 
điểm đặt nhà máy và văn phòng. 
Hệ thống thuế chỉ là một yếu tố 
trong số rất nhiều thứ để cải thiện 
năng lực cạnh tranh quốc gia, nếu 
không họ sẽ có được một dòng vốn 
và các hoạt động lớn từ nước đánh 
thuế cao đến nước đánh thuế thấp, 
nhưng có bằng chứng rằng các 
quyết định về địa điểm đang trở 
nên nhạy cảm hơn với thuế.
Sự lựa chọn liên quan đến thuế 
của doanh nghiệp bị ảnh hưởng 
nhiều nhất bởi toàn cầu hóa vì sự 
dễ dàng mà các doanh nghiệp đa 
quốc gia có thể di chuyển địa điểm 
ít nhất một trong các hoạt động của 
họ. Tuy nhiên, công nhân có tay 
nghề cao cũng đang trở nên linh 
động hơn và một số nước đang áp 
dụng điều này trong việc xây dựng 
hệ thống thuế riêng của họ. Ngược 
lại, việc đánh thuế vào người lao 
động có tay nghề và tiêu dùng thấp 
hơn được xem là ít bị ảnh hưởng 
bởi toàn cầu hoá vì những căn cứ 
tính thuế ít tính linh động hơn. Cuối 
cùng, việc đánh thuế bất động sản 
được xem là ít bị tác động nhất của 
công cuộc toàn cầu hóa.
Các vấn đề liên quan đến việc 
đánh thuế thu nhập tương đối với 
mức tiêu thụ và dưới mức tiêu thụ, 
thuế nhập khẩu so với việc đánh 
thuế tiêu thụ trong nước. Cả hiệu 
quả (cho dù thuế làm tăng hay làm 
giảm phúc lợi chung của những 
người bị đánh thuế) và công bằng 
(cho dù thuế là công bằng cho tất 
cả mọi người) là trọng tâm nghiên 
cứu. 
Mối quan tâm khác trong việc 
lựa chọn giữa việc đánh thuế thu 
nhập và thuế tiêu thụ liên quan đến 
tác động tương đối của chúng đến 
công bằng. Đánh thuế tiêu thụ có 
truyền thống được coi là có khả 
năng lũy thoái hơn (nghĩa là khó 
khăn hơn đối với người nghèo so 
với người giàu) so với thuế thu 
nhập. Nghi ngờ đã được tạo ra dựa 
trên quan niệm này là tốt. Xem xét 
lý thuyết và thực tế cho thấy các 
vấn đề công bằng về hình thức 
truyền thống của việc đánh thuế 
tiêu thụ có thể phóng đại và đối với 
các nước đang phát triển, cố gắng 
để giải quyết những mối quan tâm 
của các sáng kiến như thông qua 
thuế tiêu thụ sẽ không hiệu quả và 
không thực tế hành chính. 
Đối với thuế nhập khẩu, giảm 
các loại thuế sẽ dẫn đến cạnh tranh 
nhiều hơn từ các doanh nghiệp 
nước ngoài. Trong khi việc giảm 
bảo hộ các ngành công nghiệp 
trong nước trước sự cạnh tranh từ 
bên ngoài là một hệ quả tất yếu, 
hoặc thậm chí khách quan, của một 
chương trình tự do hóa thương mại, 
giảm thu ngân sách sẽ là một sản 
phẩm phụ không mong muốn của 
chương trình. Biện pháp thu bù khả 
thi trong các trường hợp hầu như 
luôn luôn liên quan đến việc tăng 
thuế tiêu thụ trong nước. Hiếm khi 
tăng thuế thu nhập sẽ được coi là 
một lựa chọn khả thi trên cơ sở cả 
chính sách (do tác động của nhận 
thức tiêu cực về đầu tư) và quản lý 
(vì năng suất doanh thu của họ là ít 
chắc chắn hơn và ít kịp thời hơn từ 
những thay đổi thuế tiêu thụ). 
Dữ liệu từ các nước công 
nghiệp và đang phát triển cho thấy 
tỷ lệ thu nhập thuế tiêu dùng ở các 
nước công nghiệp liên tục duy trì 
nhiều hơn gấp đôi tỷ lệ ở các nước 
đang phát triển. (Nghĩa là, so với 
các nước phát triển, các nước công 
nghiệp lấy theo tỷ lệ gấp đôi doanh 
thu từ thuế thu nhập hơn từ thuế 
tiêu thụ). Các dữ liệu cũng cho thấy 
một sự khác biệt đáng chú ý trong 
tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp 
đến thuế thu nhập cá nhân. Các 
nước công nghiệp tăng khoảng 
bốn lần so với thuế thu nhập cá 
nhân hơn là so với thuế thu nhập 
doanh nghiệp. Sự khác biệt giữa 
hai nhóm nước là ở thu nhập tiền 
lương, trong sự tinh tế của quản lý 
thuế, và trong quyền lực chính trị 
của các phân khúc người giàu nhất 
là những người đóng góp chính cho 
sự khác biệt này. Mặt khác, doanh 
thu từ thuế xuất nhập khẩu ở các 
nước đang phát triển cao hơn so 
với các nước công nghiệp đáng kể. 
Như vậy, cấu trúc thuế các nước là 
vấn đề đáng quan tâm trong việc 
cải cách hệ thống thuế cho mục 
đích tăng trưởng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết trước tiên phân tích 
về vai trò của cấu trúc thuế đến sự 
phát triển của các quốc gia để có 
Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
29
Hình 1: Tỷ trọng (%) thuế so với GDP một số quốc gia ASEAN 
Nguồn: 
dataset 
Hình 2 : Tỷ trọng (%) các khoản thuế trực thu so với GDP 
một số quốc gia ASEAN 
Nguồn:  
 Hình 3 : Tỷ trọng (%) thuế gián thu so với GDP một số quốc 
gia ASEAN 
a 
Nguồn:  
cái nhìn tổng quan về cơ cấu thuế các nước ASEAN. 
Dữ liệu về tỷ trọng từng loại thuế trong tổng GDP của 
các nước ASEAN được thu thập từ bộ dữ liệu của trung 
tâm thuế và phát triển quốc tế (ICTD). Đây là nguồn 
dữ liệu tổng hợp từ ngân hàng thế giới, từ IMF, ...phục 
vụ cho việc phân tích chính sách thuế và tăng trưởng 
các quốc gia qua các thời kỳ. Sau đó căn cứ vào các 
yêu cầu đặt ra cho việc quản lý thuế quốc tế, tác giả 
phân tích những thách thức cơ bản mà VN đối diện và 
cần được điều chỉnh kịp thời nhằm hội nhập sâu và tốt 
vào cộng đồng, phát triển cùng cộng đồng. Tuy nhiên, 
bộ dữ liệu này chỉ cập nhật số thu thuế đến năm 2010 
một vài quốc gia trong mẫu, vì vậy để tăng thêm tính 
cập nhật cho vấn đề nghiên cứu, tác giả bổ sung thêm 
dữ liệu của Ngân hàng Thế giới năm 2013 để có cái 
nhìn so sánh tương quan mới nhất về cấu trúc thuế các 
nước ASEAN 2013.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Tổng quan về cấu trúc thuế một số quốc gia 
Asean
Về cơ bản, cơ cấu thuế các quốc gia ASEAN tập 
trung chủ yếu vào thuế gián thu (Indirect), (hình 1) 
trong đó đa phần số thu thuế gián thu này bao gồm 
thuế đánh trên hàng hóa dịch vụ và thuế đánh trên hoạt 
động xuất khẩu, nhập khẩu. Chỉ riêng trường hợp của 
Singapore (SGP) và Myanma (MMR) số thuế trực thu 
chiếm tỷ trọng lớn trên GDP so với các loại thuế còn 
lại. Điều này phù hợp với lý thuyết về thuế ở các quốc 
gia đang phát triển, phần lớn số thu thuế có nguồn từ 
các khoản thuế gián thu do yêu cầu về quản lý thuế 
gián thu ít phức tạp hơn quản lý thuế trực thu nên các 
quốc gia đang phát triển và kém phát triển thường tập 
trung nguồn thu vào nhóm này.
Về tỷ trọng số thu thuế trực thu (Hình 2), số thu 
thuế trực thu có nguồn từ thu nhập, lợi nhuận và lợi tức 
(Taxes on Income, Profits and Capital Gains) chiếm tỷ 
trọng cao nhất trong tổng số các thành phần của thuế 
trực thu, trong đó, VN là quốc gia phụ thuộc lớn nhất 
vào khoản thuế này, đóng góp hơn 10% GDP; tiếp đó 
là Singapore, Thái Lan và Lào. Điều này chứng minh 
được rằng vai trò của các nguồn thu nhập trong việc 
tạo ra nguồn thu cho ngân sách. Thuế thu nhập cá nhân 
chiếm tỷ trọng không đáng kể và thuế tài sản là thành 
phần đóng góp thấp nhất cho tổng thu ngân sách.
Về cơ cấu thuế gián thu (Hình 3), thuế tiêu dùng 
(Taxes on Sales) và thuế thu trên hàng hóa xuất nhập 
khẩu (Taxes on International Trade and Transactions) 
là 2 khoản thu đóng góp đáng kể trong tổng GDP, thuế 
Hình 1: ỷ g (%) thuế so với GDP một số nước ASEAN
Hình 2: Tỷ trọng (%) thuế trực thu so với GDP 
một số nước ASEAN
Hình 3: Tỷ trọng (%) thuế gián thu so với GDP 
một số nước ASEAN
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016
Nghiên Cứu & Trao Đổi
30
tiêu thụ đặc biệt chiếm tỷ lệ thấp 
nhất. Tuy nhiên, thuế tiêu dùng có 
xu hướng tăng dần qua các năm, 
và thuế đối với hàng hóa xuất nhập 
khẩu, theo đúng xu hướng hội nhập 
và tự do hóa, nguồn thu này càng 
ngày càng giảm qua các năm.
Như vậy, hầu hết các quốc gia 
thành viên ASEAN đều có cơ cấu 
thuế tương đồng nhau, thể hiện 
ở tỷ trọng của thuế trực thu, thuế 
gián thu và từng khoản thu thuế cụ 
thể, về xu hướng thay đổi số thu 
của thuế đánh trên hoạt động xuất 
khẩu, nhập khẩu cũng phù hợp với 
lộ trình hội nhập và phát triển. Tuy 
nhiên, xét về mức độ tiên tiến và 
trình độ quản lý thuế giữa các nước 
có sự chênh lệch đáng kể: Theo Chỉ 
số cạnh tranh toàn cầu 2013/2014 
(Global Competitiveness Index) của 
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) 
VN xếp vị trí thứ 70 trên 148 quốc 
gia, cao hơn so với năm 2012/2013 
(75/144) nhưng lại thấp hơn nhiều 
so với năm 2010/2011 (59/144) và 
năm 2011/2012 (65/144). Riêng 
về thể chế kinh tế, VN xếp thứ 98 
trong năm 2013/2014, tụt 9 bậc so 
với vị trí 89 trong năm 2012/2013. 
Chỉ số môi trường kinh doanh 
(Doing Business) của Ngân hàng 
Thế giới (WB) năm 2013 xếp VN 
ở vị trí 99, tụt 9 bậc so với năm 
2012. Tuy các thước đo này còn 
nhiều khiếm khuyết nhưng đều là 
những nguồn thông tin tham khảo 
được nhiều nhà đầu tư sử dụng2. 
Trong số các quốc gia Đông Nam 
Á, Singapore hầu như luôn chiếm 
vị trí đầu bảng, VN chỉ đứng trên 
Philippines và Campuchia, riêng 
năm 2014, Philippines đã có những 
bước tiến tốt hơn hẳn VN. Bảng 1 
cho thấy chi tiết hơn về sự khác biệt 
2
cao-nang-luc-canh-tranh-quoc-gia-qua-lang-
kinh-pci-a268.html
này trong chính sách thuế đối với 
loại hình doanh nghiệp các nước 
ASEAN năm 20133. Điều này dẫn 
đến những thách thức trong quản 
lý thuế cho quá trình hội nhập sâu 
mà tác giả phân tích ở mục 4.2.
4.2. Hội nhập Cộng đồng Kinh 
tế ASEAN và những yêu cầu đặt 
ra trong quản lý thuế 
Lợi ích thu được từ việc thành 
lập AEC là cụ thể và rõ ràng cho 
từng quốc gia thành viên và cả khu 
vực trong ngắn hạn và dài hạn. Tuy 
nhiên, xét ở góc độ quản lý thuế 
và các bước chuẩn bị cải cách cho 
hội nhập, cơ quan thuế và Hải quan 
VN cần lưu ý một số vấn đề cốt lõi 
như sau:
Quản lý thuế đối với hàng hóa 
xuất khẩu, nhập khẩu:
Các lý thuyết kinh tế đã khẳng 
định vai trò của xuất khẩu, nhập 
khẩu đối với tăng trưởng và phát 
triển kinh tế của một quốc gia 
(Rivera-Batiz và Romer, 1991; 
Forslid và Richard, 1996, ). 
Nghiên cứu thực nghiệm của Trần 
Thị Tuấn Anh (2014) và Đinh Thị 
Thu Hồng, Lê Tuấn Anh (2014) 
cũng khẳng định vai trò của xuất 
3Thuế/Lao động bao gồm thuế thu nhập cá 
nhân và các khoản đóng góp bắt buộc khác tính 
trên lương mà doanh nghiệp phải chịu. Thuế 
khác bao gồm các khoản phải nộp khác của 
doanh nghiệp, kể cả các khoản phí, ..
khẩu, nhập khẩu đến tăng trưởng 
kinh tế các quốc gia ASEAN. 
Thương mại nội bộ ASEAN 2012 
chiếm khoảng 30% tổng giá trị kim 
ngạch xuất nhập khẩu của khối 
(Ban thư ký ASEAN), và tỷ trọng 
này có xu hướng gia tăng nhằm 
đảm bảo sự phát triển vững mạnh 
của khối. Điều này đặt ra áp lực rất 
lớn cho công tác quản lý thuế xuất 
khẩu, thuế nhập khẩu ở nhiều góc 
độ: ở góc độ hỗ trợ và dịch vụ cung 
ứng cho người nộp thuế, đó là vấn 
đề thủ tục khai báo hải quan, thời 
gian thông quan hàng hóa, việc 
phân luồng và kiểm tra sau thông 
quan, hệ thống cửa khẩu hải quan 
và năng suất hoạt động các bộ 
phận có liên quan, việc phát triển 
các dịch vụ logistic hỗ trợ cho hoạt 
động xuất khẩu, nhập khẩu; ở góc 
độ phát huy hiệu lực và hiệu quả 
của công tác quản lý, giảm thiểu 
tình trạng gian lận là việc kiểm tra 
trị giá tính thuế hàng nhập khẩu 
của các giao dịch, nhất là các giao 
dịch liên kết giữa các thành viên 
trong khối được dự đoán là gia 
tăng mạnh khi cộng đồng Kinh tế 
ASEAN được thành lập và phát 
triển.
Bảng 1: So sánh chính sách thuế các nước ASEAN
Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
31
Quản lý thuế trực thu (thuế thu 
nhập doanh nghiệp và thuế thu 
nhập cá nhân) đối với các nguồn 
thu nhập có yếu tố nước ngoài:
Thuế thu nhập doanh nghiệp 
như phân tích ở phần trên là khoản 
thu đóng góp đáng kể vào GDP của 
mỗi nước. Trước áp lực giảm sút 
nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu, 
nhập khẩu, các khoản thuế trực 
thu trở thành mối quan tâm của cơ 
quan thuế các nước nhằm đảm bảo 
cân đối nguồn thu. Việc xác định 
thu nhập tính thuế của đối tượng cư 
trú, cơ chế khấu trừ thuế được quy 
định trong các hiệp định tránh đánh 
thuế hai lần, các vấn đề đáng lo ngại 
trong quản lý thuế quốc tế và tránh 
đánh trùng thuế đối với các nguồn 
thu nhập, quản lý giá chuyển giao 
giữa các công ty đa quốc gia, việc 
định giá của các giao dịch liên quan 
đến tiền bản quyền và sở hữu trí 
tuệ, vấn đề chuyển thu nhập giữa 
các quốc gia; quản lý thuế đối với 
các giao dịch mua bán và sáp nhập 
tất cả tạo nên áp lực nặng nề cho 
hệ thống quản lý thuế VN vốn đã 
khá mỏng về cơ sở dữ liệu và trình 
độ công nghệ thông tin ứng dụng 
trong các khâu quản lý. Nội dung 
cơ bản của AEC là di chuyển hàng 
hóa tự do, di chuyển dịch vụ tự do, 
di chuyển đầu tư tự do, di chuyển 
vốn tự do, di chuyển lao động có 
kỹ năng tự do, đẩy mạnh thương 
mại điện tử,...Điều này đồng nghĩa 
với việc các cơ quan chức năng 
của VN phải quản lý và kiểm soát 
được các vấn đề đa phương. Bản 
kế hoạch chi tiết của AEC về thuế 
khóa đã nhấn mạnh chủ trương 
hoàn thiện hiệp định song phương 
về tránh đánh thuế 2 lần giữa tất cả 
các quốc gia thành viên.
Yêu cầu về việc không ngừng 
nâng cao năng lực của đội ngũ 
quản lý thuế và hoàn thiện cơ chế 
hoạt động: 
Trong giai đoạn 2012 – 2013 
và 2013 – 2014, Singapore có vị 
trí xếp hạng cao nhất (thứ hai liên 
tiếp trong 2 năm trong danh sách 
148 quốc gia tham gia trong mẫu), 
VN nằm trong nhóm các nước có 
năng lực cạnh tranh toàn cầu khá 
thấp (tương ứng 2 năm lần lượt là 
thứ 75, 70 (Diễn đàn kinh tế thế 
giới WEF). Điều này cho thấy môi 
trường, thể chế và năng lực quản 
lý giữa các quốc gia trong khối tại 
thời điểm xuất phát cho AEC thiếu 
tương đồng đáng kể, thậm chí là 
khập khễnh. Năm 2008, OECD đề 
xuất phương thức quản lý thuế tiên 
tiến – the Enhanced Relationships 
- dựa trên nền tảng sự tin tưởng lẫn 
nhau giữa cơ quan quản lý thuế, 
người nộp thuế lớn và các trung 
gian thuế (các đại lý thuế) đồng thời 
có sự hỗ trợ minh bạch thông tin 
từ phía các ngân hàng. Năm 2013, 
OECD đề xuất khuôn khổ quản lý 
thuế tiến bộ hơn nữa, chuyển từ việc 
tăng cường mối quan hệ giữa các 
bên sang mối quan hệ hợp tác lẫn 
nhau cùng phát triển. Trong bảng 
đánh giá năm 2013 của OECD, chỉ 
có Singapore là quốc gia tiến bộ 
nhất trong các nước ASEAN xây 
dựng một khuôn khổ chiến lược 
kiểm soát tuân thủ nhằm tối đa hóa 
việc tuân thủ thuế của người nộp 
thuế đồng thời Singapore cũng xây 
dựng riêng khuôn khổ giao dịch 
với người nộp thuế với tư cách là 
khách hàng thực thụ của người nộp 
thuế. Khuôn khổ hoạt động mà cơ 
quan thuế Singapore thực thi được 
OECD đánh giá cao và thật sự dựa 
trên việc quản lý tuân thủ. Những 
năm qua VN đã chuyển sang chiến 
lược quản lý thuế và kiểm tra, thanh 
tra thuế dựa trên việc quản lý rủi 
ro, tuy nhiên chiến lược kiểm soát 
tuân thủ của chúng ta chưa thật sự 
rõ ràng và sắc nét. Điều này tạo áp 
lực lớn cho công tác quản lý thuế 
cho VN khi gia nhập AEC là việc 
người nộp thuế lựa chọn đăng ký 
thuế tại Singapore hay bất kỳ quốc 
gia nào trong khối với cơ chế quản 
lý thuế hỗ trợ tích cực cho người 
nộp thuế hay họ sẽ chọn đăng ký 
thuế tại cơ quan thuế VN? Việc 
phân chia quyền thu thuế giữa các 
chính phủ như thế nào để không 
ảnh hưởng đáng kể đến nguồn thu 
của mỗi quốc gia?
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016
Nghiên Cứu & Trao Đổi
32
Yêu cầu về hệ thống cơ sở dữ 
liệu và công nghệ thông tin trong 
quản lý thuế:
Năm 2009, ngành Thuế bắt đầu 
xây dựng hệ thống quản lý thuế thu 
nhập cá nhân (TNCN) sử dụng giải 
pháp có sẵn của SAP (hãng phần 
mềm của Đức) đã được áp dụng tại 
nhiều nước tiên tiến trên thế giới. 
Bên cạnh đó, hệ thống ứng dụng 
quản lý thuế tập trung (viết tắt là 
TMS – Tax Managment System) 
cũng được Tổng cục Thuế xây 
dựng theo giải pháp SAP, trên cơ 
sở mở rộng hệ thống quản lý thuế 
TNCN (QLT_TNCN) để quản 
lý các loại thuế còn lại (giá trị gia 
tăng (GTGT), thu nhập doanh 
nghiệp (TNDN), tiêu thụ đặc biệt 
(TTĐB)...). Hệ thống TMS thay 
thế 16 ứng dụng hỗ trợ công tác 
quản lý thuế đang vận hành và 
triển khai phân tán tại 3 cấp của 
ngành Thuế (Tổng cục, Cục Thuế 
và Chi cục Thuế), đáp ứng toàn 
bộ các khâu xử lý dữ liệu cho các 
quy trình nghiệp vụ: Đăng ký thuế, 
quản lý hồ sơ thuế, quản lý và xử 
lý kê khai/quyết toán thuế, kế toán 
thuế nội địa, quản lý nợ, sổ sách, 
báo cáo phân tích, đánh giá và có 
khả năng kết nối với các dịch vụ 
hỗ trợ người nộp thuế (NNT) trong 
thực hiện các thủ tục về thuế4. Tuy 
nhiên, hệ thống công nghệ này chỉ 
hỗ trợ thay thế cho việc lưu trữ hồ 
sơ giấy trước khi áp dụng kê khai 
thuế điện tử. Bằng chứng là hàng 
loạt sai phạm liên quan đến chuyển 
giá của các công ty đa quốc gia 
thời gian vừa qua cơ quan thuế VN 
không có đủ bằng chứng về mặt dữ 
liệu thuyết phục nhằm xử lý triệt để 
vấn đề này. Hệ thống cơ sở dữ liệu 
4 h t t p : / / w w w. m o f . g o v. v n / p o r t a l /
p a g e / p o r t a l / m o f _ v n / 1 5 3 9 7 8 1 ? p e r s _
id=2177092&item_id=149140416&p_
details=1
về giá thị trường của các giao dịch 
độc lập hiện đang vẫn là áp lực rất 
lớn cho công tác quản lý thuế quốc 
tế quốc gia và khu vực.
 4.3. Kết luận và một số kiến nghị 
hoàn thiện hệ thống thuế cho quá 
trình hội nhập AEC
Hội nhập là xu hướng tất yếu 
cho sự phát triển hiện tại. Tuy nhiên 
việc cải cách thể chế, chính sách và 
xây dựng, thực thi các khuôn khổ 
quản lý thuế tiên tiến cũng như đầu 
tư hạ tầng, hệ thống dữ liệu quản 
lý cho quá trình hội nhập buộc cơ 
quan thuế và chính phủ cần có cái 
nhìn nghiêm túc và lộ trình điều 
chỉnh phù hợp trong ngắn hạn và 
dài hạn. Trước mắt, cơ quan Thuế 
VN cần quán triệt rõ tinh thần 
của hội nhập và những yêu cầu 
đặt ra trong quản lý thuế hiện đại 
cho các viên chức ngành thuế; 
song hành thiết lập các khuôn khổ 
hợp tác giữa cơ quan thuế, người 
nộp thuế, các trung gian thuế, hệ 
thống ngân hàng,...trên tinh thần 
tạo thuận lợi nhất cho người nộp 
thuế; chuyển hẳn từ cách tiếp cận 
kiểm soát, thiếu tin cậy lẫn trong 
quản lý sang hợp tác cùng có lợi 
trên nguyên tắc tuân thủ tự nguyện 
và tạo điều kiện cho tuân thủ; xây 
dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đồng 
bộ cho quản lý và dữ liệu thống 
kê lịch sử tuân thủ thuế của người 
nộp thuế để có phương thức quản 
lý thuế phù hợp với từng mức độ 
tuân thủ thuế. Riêng phương diện 
quản lý thuế quốc tế, VN cần hợp 
tác tích cực với các quốc gia trong 
khối để tăng cường công tác quản 
lý song phương, đa phương, hỗ trợ 
xây dựng các chương trình quản lý 
tích hợp thông tin người nộp thuế. 
Trong dài hạn, nhằm đảm bảo sự 
phát triển vững mạnh của từng 
quốc gia thành viên cũng như sự 
phát triển chung của cả cộng đồng, 
hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực, 
tăng cường minh bạch thông tin 
quản lý và hệ thống giám sát là giải 
pháp ưu tiên hàng đầu.
4.4. Hạn chế của bài viết
Các dữ liệu thống kê về thuế 
vốn dĩ là một góc khuất trong các 
nghiên cứu thế giới, riêng trường 
hợp ASEAN lại càng trở nên khó 
khăn hơn khi số liệu không đầy đủ 
và không đồng nhất, vì vậy trong 
phạm vi giới hạn cho phép, tác giả 
chỉ có thể phân tích sơ bộ những 
nội dung có liên quan đến thuế 
nhằm giúp VN tiên liệu những tình 
huống khó khăn khi gia nhập và 
phát triển trong cộng đồngl 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
thue-khi-viet-nam-con-mot-minh-mot-
san-20141120114355994.htm
h t t p : / / w w w. i c t d . a c / e n / a b o u t - i c t d -
government-revenue-dataset
ht tp : / /www.mof.gov.vn/por ta l /page/
p o r t a l / m o f _ v n / 1 5 3 9 7 8 1 ? p e r s _
id=2177092&item_id=149140416&p_
details=1
cao-nang-luc-canh-tranh-quoc-gia-qua-
lang-kinh-pci-a268.html 
OECD. (2008). Study into the role of Tax 
Intermediaries. OECD. Paris. 2008.
OECD. (2010). “Growth-oriented Tax Policy 
Reform Recommendations”, in Tax 
Policy Reform and Economic Growth. 
OECD Publishing.
OECD. (2013). Co-operative compliance: A 
Framwork from enhanced relationship 
to co-operative compliance, http://
www.oecd.org/tax/administration/co-
operative-compliance.htm.
Vito Tanzi & Howell Zee. (2001). Tax Policy 
for Developing Countries, in Economic 
Issues, No. 27. IMF Publishing.

File đính kèm:

  • pdfthach_thuc_cho_co_quan_thue_viet_nam_khi_gia_nhap_cong_dong.pdf