Thị trường kế toán, kiểm toán Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế là một thực tế khách quan. Bên cạnh đó, với tư cách là thành viên của AEC, Việt Nam phải có nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận và nghĩa vụ của mình. Hội nhập kinh tế quốc tế, kế toán, kiểm toán Việt Nam đang đứng trước cơ hội và thách thức đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt và có những định hướng phát triển. Bài viết đề cập đến những thuận lợi cũng những khó khăn, thách thức, đồng thời đưa ra một số ý kiến nhằm góp phần phát triển thị trường kế toán- Kiểm toán Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, với tư cách là thành viên của AEC nói riêng

pdf 9 trang yennguyen 9360
Bạn đang xem tài liệu "Thị trường kế toán, kiểm toán Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thị trường kế toán, kiểm toán Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Thị trường kế toán, kiểm toán Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 47Số 115 - tháng 5/2017
thò tröÔøng Keá toaùn, Kieåm toaùn
vieät nam trong Boái caûnh hoäi nhaäp 
Kinh teá quoác teá
PGS.TS. NGUYỄN QUANG HùNG*
*Đại học Thương mại
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế là một thực tế khách quan. Bên cạnh đó, với tư cách là thành viên của AEC, Việt Nam phải có nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận và nghĩa vụ của mình. Hội nhập kinh tế quốc tế, kế toán, kiểm toán Việt Nam đang đứng trước cơ hội và thách thức đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt và có những định hướng phát triển. Bài viết đề 
cập đến những thuận lợi cũng những khó khăn, thách thức, đồng thời đưa ra một số ý kiến nhằm góp phần 
phát triển thị trường kế toán- kiểm toán Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, với 
tư cách là thành viên của AEC nói riêng.
Từ khóa: thị trường kế toán kiểm toán
Vietnam accounting and auditing market in the context of international economic integration
Vietnam’s integration into the international economy is an objective reality; besides, as a member of 
the AEC, Vietnam must be obliged to implement its agreements and obligations. International economic 
integration has made Vietnam’s accounting and auditing professional face opportunities and challenges that 
require us to grasp and have development orientations. The paper discusses the advantages and disadvantages 
and challenges and gives some ideas to contribute to the development of the Vietnamese accounting and 
auditing market in the context of international economic integration in general and as a member of the AEC 
in particular.
key word: accounting and auditing market
1. Một vài nét khái quát về bối cảnh hội nhập 
kinh tế quốc tế của Việt Nam
Ngày 05 tháng 10 năm 2015, Bộ trưởng của 12 
nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình 
Dương (TPP) đã tuyên bố kết thúc đàm phán. Kết 
quả đàm phán là một hiệp định chất lượng cao, 
tham vọng, toàn diện và cân bằng sẽ thúc đẩy tăng 
trưởng kinh tế; hỗ trợ tạo ra và duy trì việc làm; 
thúc đẩy việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh; 
nâng cao mức sống, giảm nghèo tại các nước và 
nâng cao minh bạch hóa, quản trị tốt cũng như bảo 
hộ lao động và bảo vệ môi trường. Việc kết thúc 
đàm phán hiệp định TPP với các tiêu chuẩn mới 
và cao về thương mại và đầu tư tại khu vực châu á 
Thái Bình Dương được đánh giá là một bước quan 
trọng để tiến tới mục tiêu cao nhất về thương mại 
tự do và hội nhập trên toàn khu vực.
Ngày 22/11/2015: Tại Hội nghị thượng đỉnh 
ASEAN lần thứ 27, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký 
kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập Cộng 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN48 Số 115 - tháng 5/2017
đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Mục tiêu hướng tới 
của AEC là một thị trường đơn nhất và cơ sở sản 
xuất chung, thông qua tự do lưu chuyển hàng hoá, 
tự do lưu chuyển dịch vụ, tự do lưu chuyển đầu tư, 
tự do lưu chuyển vốn, tự do lưu chuyển lao động 
có tay nghề; một khu vực kinh tế cạnh tranh, thông 
qua các chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người 
tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở 
hạ tầng, thuế quan thương mại điện tử; phát triển 
kinh tế cân bằng thông qua các kế hoạch phát triển 
doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), sáng kiến hội 
nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong 
ASEAN; hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, thông 
qua việc tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác 
kinh tế, nâng cao năng lực tham gia vào mạng lưới 
cung cấp toàn cầu. 
Ngày 23/1/2017 Tổng thống Mỹ Donald Trump 
đã ký sắc lệnh rút Mỹ khỏi Hiệp định Đối tác xuyên 
Thái Bình Dương (TPP). Động thái này của lãnh 
đạo nền kinh tế lớn nhất TPP đồng nghĩa với việc 
11 nước còn lại phải đàm phán lại hoặc “khai tử” 
hiệp định, bởi theo thoả thuận trước đó, TPP chỉ có 
hiệu lực được ít nhất 6 nước phê chuẩn trước tháng 
2/2018 và các nước này phải đóng góp ít nhất 85% 
GDP trong khối (tức là không thể thiếu Mỹ hoặc 
Nhật). Trước diễn biến đó các nước tham gia Hiệp 
định đã có những động thái.
Chia sẻ sau loạt hội nghị của các Bộ trưởng Kinh 
tế ASEAN vừa diễn ra ở Philippines, Bộ trưởng 
Công Thương - Trần Tuấn Anh cho biết Việt Nam 
đã có trao đổi song phương với các nước ASEAN 
về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương. “Rất 
mừng là các nước ASEAN có những nhận định và 
đánh giá tương đối giống nhau về hiệp định này”. 
Các nước trong nội khối Đông Nam á đã thống 
nhất sẽ thảo luận, đánh giá tình hình kỹ hơn về 
TPP tại Hội nghị Bộ trưởng Thương mại APEC tại 
Hà Nội vào tháng 5 tới.
Trong khi đó, vào ngày 15/3/2017, đại diện Bộ 
trưởng Ngoại giao, Thương mại các nước tham gia 
đàm phán TPP đã kết thúc cuộc họp tại Chile với 
3 chủ đề là khả năng TPP không có Mỹ; việc xây 
dựng một hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu 
vực và khu vực thương mại tự do Châu á - Thái 
Bình Dương... ông Heraldo Munoz - Ngoại trưởng 
Chile đánh giá đây là cơ hội gửi đi thông điệp mạnh 
mẽ về tự do thương mại, chống bảo hộ mậu dịch... 
Theo Nikkei, tại cuộc họp diễn ra ở New York 
ngày 19/4/2017, ông Taro Aso - Phó Thủ tướng 
Nhật cho hay các nước thành viên còn lại của TPP 
sẽ có cuộc đàm phán để “thoả thuận TPP có hiệu 
lực mà không có Mỹ tại Diễn đàn Hợp tác Kinh 
tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) 2017”. Cuộc 
đàm phán này được tiến hành cùng với cuộc họp 
Bộ trưởng Thương mại APEC diễn ra tại Hà Nội 
vào tháng 5 tới. Lãnh đạo Nhật Bản cho biết sẽ cố 
gắng thúc đẩy các nước thành viên đi tới một thoả 
thuận tại cuộc họp này. ông Aso cũng nhấn mạnh 
các cuộc đàm phán đa phương như TPP sẽ giúp 
Nhật nhận được nhiều lợi ích từ các nước khác, 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 49Số 115 - tháng 5/2017
trong khi các thoả thuận song phương mà Mỹ 
đang theo đuổi sẽ “không mang lại nhiều lợi ích 
cho các nước”. Chánh Văn phòng Nội các Nhật 
Bản - Yoshihide Suga cũng khẳng định tại cuộc 
họp báo trong nước rằng Chính phủ “không loại 
trừ bất kỳ khả năng nào”, song sẽ tiếp tục giải thích 
các lợi ích TPP cho Mỹ, với hy vọng nước này sẽ 
thay đổi lập trường. 
Mặc dù vậy, trong bình diện ASEAN thì xu 
hướng chung vẫn là hợp tác, tăng cường hội nhập. 
“Dường như xu hướng bảo hộ ở một số nơi càng 
làm các nước ASEAN quyết tâm đẩy mạnh hợp tác 
kinh tế - thương mại hơn, cả trong nội khối cũng 
như với các đối tác bên ngoài”, theo Bộ trưởng Bộ 
Công thương Trần Tuấn Anh. ông cũng cho biết, 
Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã thống nhất 
lộ trình để sớm ký kết và đưa Hiệp định Thương 
mại tự do (FTA) Việt Nam - EU vào thực hiện thời 
gian tới. “Về kinh tế thị trường, EU khẳng định sẽ 
không có bất cứ biện pháp phân biệt đối xử nào với 
Việt Nam...”. Như vậy, có thể nói rằng, trong bất 
cứ hoàn cảnh nào, việc Việt Nam hội nhập kinh tế 
quốc tế là một thực tế khách quan. Bên cạnh đó, 
với tư cách là thành viên của AEC, Việt Nam phải 
có nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận và nghĩa vụ 
của mình. Trước tình hình đó, kế toán, kiểm toán 
Việt Nam đang đứng trước cơ hội và thách thức đòi 
hỏi chúng ta phải nắm bắt và có những định hướng 
phát triển. 
2. Thuận lợi và cơ hội đối với kế toán, kiểm 
toán Việt Nam trong bối cảnh gia nhập kinh tế 
quốc tế
2.1. Thuận lợi đối với kế toán - kiểm toán 
Việt Nam
Việt Nam đã có thời gian hội nhập tương đối 
dài. Trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, chúng ta đã 
đạt được nhiều thành tựu trên các mặt: hệ thống 
pháp lý, chuẩn mực về kế toán, kiểm toán được xây 
dựng và không ngừng hoàn thiện; thị trường dịch 
vụ về kế toán, kiểm toán được hình thành và phát 
triển; các tổ chức, hội nghề nghiệp về kế toán, kiểm 
toán ra đời từng bước đáp ứng được các nhu cầu 
hội nhập quốc tế; các tổ chức nghề nghiệp quốc tế 
thâm nhập vào Việt Nam góp phần thúc đẩy, cũng 
như ủng hộ, tài trợ Việt Nam trong phát triển nghề 
nghiệp, hoàn thiện hệ thống luật pháp. Đồng thời, 
Việt Nam cũng từng bước thực hiện các cam kết 
hội nhập trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán theo các 
điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia 
nhập. Có thể nêu một số thuận lợi cơ bản đối với kế 
toán, kiểm toán Việt Nam sau đây.
Hệ thống pháp luật về kế toán, kiểm toán của 
Việt Nam trong những năm qua đã liên tục được 
phát triển và hoàn thiện, tiếp cận với các tiêu 
chuẩn quốc tế và phù hợp hơn với yêu cầu của nền 
kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường.
Để thống nhất quản lý kế toán, bảo đảm kế toán 
là công cụ quản lý, giám sát chặt chẽ, có hiệu quả 
mọi hoạt động kinh tế, tài chính, cung cấp thông 
tin đầy đủ, trung thực, kịp thời, công khai, minh 
bạch, đáp ứng yêu cầu tổ chức, quản lý điều hành 
của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức và 
cá nhân, Quốc hội đã ban hành Luật Kế toán năm 
2003, sửa đổi năm 2015 góp phần nâng cao tính 
pháp lý của hệ thống văn bản pháp luật về kế toán 
và đảm bảo sự quản lý thống nhất về kế toán. 
Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện 
căn bản hệ thống khuôn khổ pháp luật về kế toán 
cho phù hợp với Luật Kế toán 2003, Luật Kế toán 
sửa đổi năm 2015 và thông lệ quốc tế. Hàng loạt 
văn bản hướng dẫn thực thi Luật Kế toán bao gồm 
các Nghị định, chuẩn mực, chế độ kế toán và các 
thông tư hướng dẫn thực hiện các Chuẩn mực kế 
toán (CMKT) để đảm bảo tính thực thi của Luật Kế 
toán. Nội dung các văn bản hướng dẫn hiện hành 
cơ bản đã phù hợp với hoạt động của nền kinh tế 
thị trường. Đặc biệt, Luật cho cho phép các đơn vị 
kế toán được quyền thuê các tổ chức, cá nhân có đủ 
tiêu chuẩn, điều kiện làm kế toán, kế toán trưởng. 
Để đáp ứng nhu cầu dịch vụ kế toán phát triển lành 
mạnh, các văn bản liên quan đến hoạt động nghề 
nghiệp kế toán đã được ban hành đầy đủ và đồng bộ, 
bao gồm quy chế thi và cấp chứng chỉ hành nghề kế 
toán, quy định về đăng ký và quản lý hành nghề kế 
toán, quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, 
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh 
vực kế toán, quy định về xử phạt vi phạm trong hoạt 
động kế toán của các tổ chức, cá nhân có liên quan.
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN50 Số 115 - tháng 5/2017
Từ năm 2000, Việt Nam bắt đầu nghiên cứu, xây 
dựng và công bố Hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt 
Nam trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng hệ thống 
Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và chuẩn mực 
Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) phù hợp với điều 
kiện thực tiễn và trình độ phát triển của Việt Nam.
Việc ban hành hệ thống Chuẩn mực kế toán đã góp 
phần quan trọng trong việc hướng các hoạt động 
kế toán của doanh nghiệp từng bước phù hợp với 
tiêu chuẩn quốc tế và được quốc tế thừa nhận. Cho 
đến nay, Việt Nam đã ban hành được 26 Chuẩn 
mực kế toán, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt 
động của mọi loại hình doanh nghiệp, các thông 
tư hướng dẫn thực hiện các Chuẩn mực kế toán đã 
ban hành, một chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế 
toán, kiểm toán Việt Nam trên cơ sở bộ chuẩn mực 
đạo đức nghề nghiệp của Liên đoàn Kế toán Quốc 
tế (IFAC).
Việc ban hành hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt 
Nam trong thời gian qua đã đóng góp một phần 
quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp 
lý về kế toán, tăng cường tính minh bạch của thông 
tin tài chính và tạo dựng môi trường kinh doanh 
phù hợp với khu vực và quốc tế, duy trì niềm tin 
cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bộ 
Tài chính tiếp tục ban hành mới và cập nhật, sửa 
đổi, bổ sung các Chuẩn mực kế toán đã ban hành 
nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống khuôn khổ 
pháp lý về kế toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh 
tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường 
tính minh bạch của thông tin tài chính và đảm bảo 
hệ thống kế toán Việt Nam luôn phù hợp với thông 
lệ mới nhất của kế toán quốc tế, tạo niềm tin cho 
các nhà đầu tư nước ngoài, góp phần thúc đẩy đầu 
tư nước ngoài vào Việt Nam.
Để Chuẩn mực kế toán đi vào cuộc sống, Bộ Tài 
chính đã ban hành Chế độ kế toán doanh nghiệp 
theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC. Trên cơ sở 
Chế độ kế toán doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã và 
đang tiếp tục hướng dẫn chế độ kế toán cho các 
lĩnh vực đặc thù và phù hợp với từng loại hình 
doanh nghiệp như chế độ kế toán áp dụng cho 
doanh nghiệp bảo hiểm, công ty chứng khoán, các 
quỹ đầu tư chứng khoán, các công ty quản lý quỹ 
đầu tư chứng khoán; chế độ kế toán cho các doanh 
nghiệp nhỏ và vừa, cơ sở ngoài công lập; hướng 
dẫn kế toán bổ sung những nghiệp vụ kinh tế đặc 
thù cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoài. Ngày 22/12/2014, Bộ Trưởng Bộ Tài chính 
ký Thông tư số 200/2014/TT-BTC thay thế Quyết 
định số 15/2006 ngày 20/03/2006 về chế độ kế toán 
doanh nghiệp và Quyết định 202/2014 về hướng 
dẫn lập báo cáo tài chính hợp nhất.
Cùng với công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ 
thống khuôn khổ pháp luật về kế toán, việc phát 
triển hoạt động kiểm toán độc lập là điều kiện cần 
thiết để đảm bảo tính tuân thủ đối với các quy định 
về kế toán, tính công khai, minh bạch và trách 
nhiệm giải trình đối với các Báo cáo tài chính, làm 
lành mạnh hóa môi trường đầu tư. Luật Kiểm toán 
độc lập số 67/2011/QH12 do Quốc hội ban hành, 
có hiệu lực ngày 01/01/2012, quy định nguyên tắc, 
điều kiện, phạm vi, hình thức hoạt động kiểm toán 
độc lập; quyền, nghĩa vụ của kiểm toán viên hành 
nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh 
nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam và đơn 
vị được kiểm toán. 
Dịch vụ kế toán kiểm toán hình thành và phát 
triển nhanh, các công ty kiểm toán lớn nhất thế 
giới đã vào Việt Nam, bảo trợ cho các hoạt động 
kiểm toán của Việt Nam.
Trong khuôn khổ cam kết với WTO, Việt Nam 
đã mở cửa hoàn toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài 
đối với lĩnh vực dịch vụ này. Có thể nói, dịch vụ 
kế toán, kiểm toán đã trở thành ngành nghề kinh 
doanh có điều kiện, hoạt động độc lập và được xã 
hội hoá và chính thức được công nhận trong khuôn 
khổ pháp luật của Nhà nước. Hoạt động của tổ 
chức nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán được đổi 
mới, phong phú và đa dạng. Thị trường kế toán, 
kiểm toán sôi động hơn và hệ thống pháp luật về 
kế toán, kiểm toán trở nên phù hợp hơn với thông 
lệ quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng khi Hiệp 
định khung về thừa nhận lẫn nhau (MRA) trong 
lĩnh vực kế toán, kiểm toán đã được ký kết giữa các 
nước ASEAN.
Các tổ chức nghề nghiệp hình thành và phát 
triển các hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Việt Nam 
đã nhận thức được tầm quan trọng của tổ chức nghề 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 51Số 115 - tháng 5/2017
nghiệp, góp phần quản lý hoạt động kế toán, kiểm 
toán và đang thúc đẩy sự phát triển của tổ chức nghề 
nghiệp theo hướng chuyên nghiệp. Hội Kế toán 
và Kiểm toán Việt Nam (VAA) được thành lập từ 
năm 1994. Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam 
(VACPA) được thành lập năm 2005, là một Hội 
thành viên tích cực và quan trọng của VAA.
Các tổ chức này thể hiện sự kết hợp giữa quản 
lý nhà nước và với quản lý của các tổ chức nghề 
nghiệp, tạo môi trường về pháp lý và nghề nghiệp, 
tạo điều kiện cho thị trường dịch vụ về kế toán, 
kiểm toán hoạt động và phát triển. Bên cạnh đó, 
tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán theo uỷ quyền 
của Bộ Tài chính thực hiện kiểm tra tình hình tuân 
thủ pháp luật và chất lượng dịch vụ kiểm toán của 
các doanh nghiệp k ... à hợp tác giữa các thành viên và 
với các tổ chức quốc tế khác; đại diện phát ngôn cho 
nghề nghiệp kế toán trên phạm vi quốc tế.
IFAC ban hành các chuẩn mực quốc tế về kiểm 
toán về đạo đức nghề nghiệp, về đào tạo kế toán và 
về kế toán khu vực công. IFAC hiện nay nhận trách 
nhiệm tổ chức Diễn đàn kế toán quốc tế (World 
Congress of Accountants –WCOA). WCOA được 
tổ chức lần đầu năm 1904, từ năm 1977, được tổ 
chức 5 năm một lần và từ năm 2002, được tổ chức 4 
năm một lần bởi IFAC. WCOA là nơi bàn bạc, chia 
sẻ và tranh luận về những giải pháp toàn cầu của 
nghề nghiệp vì lợi ích của công chúng, nhà đầu tư 
và doanh nghiệp trên thế giới.
Lực lượng chuyên nghiệp của Việt Nam có 
sự lớn mạnh không ngừng. Theo ông Đặng Thái 
Hùng tại Hội thảo quốc tế “Gia nhập TPP & AEC 
- thời cơ và thách thức đối với kế toán kiểm toán 
Việt Nam” do Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh 
(ACCA) phối hợp với Hội kế toán và kiểm toán 
Việt Nam (VAA) tổ chức ngày 18/12 tại Hà Nội thì 
hiện nay Việt Nam có khoảng 5000 kế toán, kiểm 
toán viên được cấp chứng chỉ, trong đó có khoảng 
2000 kế toán, kiểm toán viên làm dịch vụ kế toán, 
kiểm toán. Trong các công ty kiểm toán có vốn đầu 
tư nước ngoài thì lực lượng quản lý là người Việt 
Nam chiếm phần lớn và được quốc tế thừa nhận.
2.2. Cơ hội đối với kế toán kiểm toán Việt Nam 
trong bối cảnh gia nhập kinh tế quốc tế
Việc hội nhập kinh tế quốc tế trong đó có AEC 
tạo điều kiện thuận lợi cho người làm kế toán, kiểm 
toán ở Việt Nam có nhiều cơ hội việc làm, cơ hội 
học tập kinh nghiệm từ những quốc gia có bề dày 
phát triển trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán thông 
qua các phương thức cung cấp dịch vụ mang tính 
thương mại quốc tế. Các công ty hành nghề kế toán, 
kiểm toán ở Việt Nam có thể cung cấp dịch vụ ra 
nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam; 
các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán nước ngoài 
có thể mở công ty, chi nhánh ở Việt Nam để thực 
hiện việc kinh doanh; các hiệp hội nghề nghiệp 
như Hội kế toán viên công chứng Anh ACCA, Hội 
kế toán công chứng Australia đều mở văn phòng 
đại diện ở Việt Nam. Bên cạnh đó, khi gia nhập 
các doanh nghiệp kiểm toán quốc tế, các công ty 
Việt Nam có thể cử nhân viên trao đổi, học tập, làm 
việc cũng như tham gia các khóa học các chứng chỉ 
kiểm toán quốc tế giúp nâng cao trình độ chuyên 
môn của nhân viên. 
Kế toán, kiểm toán Việt Nam sẽ nhận được sự 
hỗ trợ của các chuyên gia nước ngoài trong quá 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 53Số 115 - tháng 5/2017
trình soạn thảo các chuẩn mực kế toán và kiểm 
toán. Để việc hội nhập thuận lợi, dễ dàng hơn đòi 
hỏi hệ thống kế toán, kiểm toán phải phù hợp với 
thông lệ quốc tế. Quá trình soạn thảo các chuẩn 
mực kế toán, kiểm toán có sự tham gia của các 
chuyên gia từ các công ty kiểm toán, các trường đại 
học trên cả nước và cả các chuyên gia nước ngoài sẽ 
giúp cho việc soạn thảo tiến hành thuận lợi và đạt 
chất lượng cao.
Việc hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp các nhân 
viên hành nghề kế toán, kiểm toán nâng cao kỹ 
năng nghề nghiệp, kỹ năng mềm và trình độ ngoại 
ngữ. Bên cạnh đó, khi làm việc ở nhiều quốc gia 
khác nhau sẽ làm tăng tính linh hoạt, khả năng 
thích ứng với môi trường làm việc đa văn hóa của 
nhân viên hành nghề kế toán, kiểm toán Việt Nam.
3. Thách thức, khó khăn với thị trường kế 
toán, kiểm toán Việt Nam
3.1. Thách thức, khó khăn đối với nền kinh tế 
nói chung 
Bên cạnh những thuận lợi, việc cam kết và thực 
hiện các cam kết sâu rộng trong bối cảnh hội nhập 
kinh tế quốc tế sẽ đặt ra những thách thức không 
nhỏ, đặc biệt là sức ép về mở cửa thị trường, cạnh 
tranh đối với các doanh nghiệp của Việt Nam vốn 
còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều bất cập. Các 
ngành dịch vụ chịu sức ép cạnh tranh lớn là ngân 
hàng, thương mại bán lẻ, viễn thông, vận tải, bảo 
hiểm, tài chính với nước ngoài. 
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo nhiều cơ hội cho 
Việt Nam, song nó cũng đòi hỏi Việt Nam phải 
tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao 
tính thị trường, đẩy mạnh công cuộc tái cơ cấu, đổi 
mới mô hình tăng trưởng, đổi mới thể chế.
 Độ mở của nền kinh tế Việt Nam còn ở mức độ 
thấp, tính bảo hộ nhiều hơn các quốc gia. Trên thực 
tế, ở Việt Nam các thị trường dịch vụ, thị trường 
lao động, khoa học-công nghệ vẫn chưa phát 
triển hoàn chỉnh hoặc mới chỉ manh nha. 
Việc cam kết và thực hiện các cam kết sâu và 
rộng trong khuôn khổ các thỏa thuận sẽ đòi hỏi Việt 
Nam trong việc phải nhanh chóng kiện toàn hệ thống 
luật pháp; các chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, môi 
trường, xã hội theo thông lệ quốc tế. Trong khi 
đó, hệ thống luật pháp của Việt Nam hiện nay kém 
phát triển hơn những đối tác khác trên thế giới. 
Luật pháp của Việt Nam yếu từ khâu soạn thảo đến 
ban hành, thực thi. Hiện tại Việt Nam vẫn tồn tại 
tình trạng phải sử dụng nhiều văn bản dưới luật để 
triển khai một luật. Các bộ chỉ tiêu đánh giá chất 
lượng sản phẩm, mức độ phát triển của các ngành 
và cả nền kinh tế nói chung còn khác biệt lớn so với 
thông lệ quốc tế cả về chất lượng lẫn phương thức 
tính toán. Để thực thi cam kết trong các Hiệp định, 
Việt Nam sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi nhiều quy 
định pháp luật cũng như các chỉ tiêu chất lượng về 
thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ
Kinh tế thị trường ở Việt Nam định hướng XHCN 
đang trong thời kỳ chuyển đổi, các quy luật của thị 
trường về cung cầu-cạnh tranh-giá cả chưa thực sự 
được phát huy. Thị trường ở Việt Nam về cơ bản mới 
có thị trường sản phẩm; thị trường vốn, lao động, 
khoa học công nghệ còn ở mức khiêm tốn. 
Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong công 
cuộc tự do hoá nền kinh tế và đã trở thành thành 
viên của WTO. Tuy vậy, Việt Nam vẫn còn nhiều 
hạn chế trong các tiêu chuẩn lao động, sở hữu trí 
tuệ và vấn đề tham nhũng. Vấn đề quyền sở hữu trí 
tuệ chưa được đảm bảo, sản phẩm lậu và nhái vẫn 
được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường, vi phạm bản 
quyền là vấn đề nhức nhối và chưa có biện pháp 
triệt để. 
3.2. Thách thức, khó khăn đối với thị trường kế 
toán- kiểm toán Việt Nam
Đối với lĩnh vực kế toán, kiểm toán Việt Nam 
khi hội nhập kinh tế quốc tế gặp không ít thách 
thức, trước hết là thách thức liên quan đến việc thừa 
nhận chứng chỉ nghề nghiệp giữa các nước tham gia, 
vì thế Việt Nam cần phải có sự đánh giá lại về tiêu 
chuẩn, điều kiện, nội dung tổ chức thi và cấp chứng 
chỉ kế toán viên hành nghề để đáp ứng được đòi hỏi 
của quốc tế.
Khả năng cạnh tranh của các công ty kiểm toán 
Việt Nam hiện nay còn thấp so với các công ty có 
vốn đầu tư nước ngoài. Phần lớn các công ty Việt 
Nam có quy mô nhỏ, năng lực tài chính giới hạn, 
đội ngũ nhân viên thiếu về số lượng và yếu về chất 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 115 - tháng 5/2017
lượng nên chưa đủ tiềm lực để cung cấp dịch vụ 
sang nước ngoài mà chỉ mới cung cấp dịch vụ cho 
khách hàng trong nước. Như vậy, nếu không chuẩn 
bị kỹ lưỡng nguồn nhân lực thì có khả năng kiểm 
toán viên các nước phát triển hơn như Singapore, 
Thailand, Malaysia, Philippines có thể sang Việt 
Nam cạnh tranh trực tiếp với người lao động nước 
ta, lao động trong nước có thể khó tìm việc ở các 
công ty kiểm toán lớn (Big 4) ngay trên sân nhà.
Nhân viên có chứng chỉ kế toán còn nhiều hạn chế 
trong sử dụng ngoại ngữ vì thế khó làm việc trong 
môi trường hội nhập. Số lượng nhân sự ngành kế 
toán, kiểm toán được đào tạo hàng năm của các cơ 
sở đào tạo là rất lớn nhưng trình độ chuyên môn, 
trình độ ngoại ngữ và các kỹ năng mềm khác của 
đội ngũ cán bộ kế toán, kiểm toán chưa cao, chưa 
đạt được đến mặt bằng chung của khu vực. Hiện 
tại, số lượng kiểm toán viên nắm vững các thông lệ 
và nguyên tắc kế toán quốc tế chưa nhiều.
Quá trình hội nhập tạo cơ hội cho công dân các 
nước di chuyển tự do trong khối dẫn đến việc các 
nước trong khối ASEAN phát triển ngành kiểm 
toán đi trước chúng ta như Singapore, Thailand, 
Malaysia, Philippines... với số lượng kiểm toán viên 
lớn và trình độ ngoại ngữ tốt sẽ chuyển sang Việt 
Nam làm việc và cạnh tranh trực tiếp với đội ngũ 
kế toán, kiểm toán trong nước. 
 4. Một số giải pháp kiến nghị nhằm phát triển 
thị trường kế toán - kiểm toán Việt Nam
Phát biểu tại Hội thảo quốc tế “Gia nhập TPP & 
AEC - thời cơ và thách thức đối với kế toán kiểm 
toán Việt Nam”, PGS.TS Đặng Văn Thanh Chủ tịch 
Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam khẳng định: 
Theo cam kết quốc tế, Việt Nam sẽ mở cửa lĩnh vực 
kế toán kiểm toán và tài chính, với mục tiêu mở 
cửa rộng rãi vào năm 2020. Với thực tế AEC là thị 
trường dịch vụ tự do, cho phép tự do di chuyển thể 
nhân, lao động chuyên nghiệp và thừa nhận những 
chứng chỉ hành nghề... đây sẽ là một thách thức 
lớn cho Việt Nam; đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực để 
có thể đáp ứng và cạnh tranh được. Để có thể hội 
nhập tốt, theo chúng tôi, cần giải quyết những vấn 
đề căn bản sau:
Rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp lý, luật pháp, 
hệ thống chuẩn mực kế toán, tiếp tục hoàn thiện hệ 
thống chuẩn mực kiểm toán cho dịch vụ kiểm toán, 
ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán công. Hệ 
thống văn bản pháp luật về kế toán, kiểm toán cần 
hoàn thiện theo hướng phù hợp với chuẩn mực, 
thông lệ quốc tế. Để thực hiện được điều này, cơ 
quan nhà nước cần huy động sự hợp tác của các 
chuyên gia đến từ các Bộ, ban ngành có liên quan, 
các trường đại học, các công ty kế toán - kiểm toán, 
hội nghề nghiệp... Ngoài ra, cần tranh thủ sự hợp 
tác của các chuyên gia nước ngoài để học tập kinh 
nghiệm, trao đổi nhằm nâng cao chất lượng của hệ 
thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam.
Đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện các giải pháp 
chiến lược do Chính phủ đã đề ra, cần phải phân 
định rõ vai trò của Nhà nước và vai trò của tổ chức 
nghề nghiệp trên cơ sở củng cố, đề cao vai trò, nâng 
cao tính tự chủ của các tổ chức nghề nghiệp Việt 
Nam, dần chuyển giao việc quản lý hành nghề kế 
toán, kiểm toán cho các hội nghề nghiệp. Theo đó, 
việc ban hành chuẩn mực kế toán, kiểm toán, việc 
quản lý và kiểm tra hành nghề kế toán, kiểm toán, 
việc tổ chức ôn thi, thi và cấp chứng chỉ nghề 
nghiệp về kế toán và kiểm toán cần sớm giao cho 
hội nghề nghiệp theo đúng thông lệ quốc tế. Nâng 
cao vai trò của hội nghề nghiệp như hội kiểm 
toán viên hành nghề (VACPA), chi hội kế toán 
hành nghề Việt Nam (VICA) giúp tăng cường 
kiểm tra, giám sát chất lượng hành nghề kế toán, 
kiểm toán để đảm bảo những người đủ điều kiện 
mới có thể hành nghề. Có như vậy mới nâng cao 
chất lượng và tính cạnh tranh của những công ty 
kiểm toán Việt Nam trên thị trường. Đồng thời, 
khi những chuẩn mực mới ban hành, hội nghề 
nghiệp nên mời những chuyên gia trao đổi, cập 
nhật kiến thức mới thông qua các lớp đào tạo để 
nâng cao trình độ đội ngũ kế toán viên, kiểm toán 
viên hành nghề.
Hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các hội nghề nghiệp 
trên thế giới để đào tạo đội ngũ kế toán viên, kiểm 
toán viên đạt trình độ ngang bằng với trình độ của 
khu vực. Đẩy mạnh việc thỏa thuận, hợp tác giữa 
các quốc gia trong khối ASEAN để tiến tới công 
nhận các bằng cấp và chứng chỉ hành nghề lẫn 
nhau. Thiết lập mối liên kết giữa cơ quan nhà nước, 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 55Số 115 - tháng 5/2017
cơ sở đào tạo, hội nghề nghiệp và doanh nghiệp. 
Trong đó, các cơ quan nhà nước, hội nghề nghiệp 
đóng vai trò ban hành, hướng dẫn doanh nghiệp 
thực hiện. Trong quá trình thực hiện, doanh nghiệp 
sẽ đóng góp ý kiến để cơ quan nhà nước điều chỉnh 
lại hệ thống văn bản pháp luật phù hợp hơn với 
tình hình thực tế.
Tổ chức quản lý tốt thị trường dịch vụ kế toán, 
kiểm toán, hoàn thiện cơ chế quản lý theo hướng 
cung cấp các công cụ cho các doanh nghiệp Việt 
Nam phát triển và thực hiện các dịch vụ của mình 
ở trong nước và ngoài nước, các doanh nghiệp kế 
toán, kiểm toán nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty 
kiểm toán trong nước bằng cách tái cơ cấu, sáp 
nhập đối với các công ty có quy mô nhỏ, tham gia 
các hãng kiểm toán nước ngoài.
Các cơ sở đào tạo kế toán cần đổi mới chương 
trình đào tạo theo hướng tiệm cận với chuẩn mực kế 
toán quốc tế ISA, chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc 
tế IFRS. Đẩy mạnh phối hợp và tăng cường hợp tác 
với ACCA, CPA Úc, CIMA để đổi mới nội dung 
và chương trình đào tạo. Tăng cường giảng dạy 
ngoại ngữ và ngoại ngữ chuyên ngành thông qua 
mô hình đào tạo cử nhân kế toán chất lượng cao 
để sinh viên có thể chuyển đổi sang bằng cấp quốc 
tế (ACCA, CPA Úc, CIMA) dễ dàng hơn. Đối 
với sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán cần 
thực hiện nghiêm ngặt quy định chuẩn đầu ra về 
ngoại ngữ. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban 
ngành như Bộ Tài chính, Hội nghề nghiệp trong 
việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán, kiểm toán 
mới qua đó giúp nhà trường đẩy nhanh việc đổi 
mới giáo trình một cách toàn diện và phù hợp với 
yêu cầu thực tiễn. Phối hợp chặt chẽ với các doanh 
nghiệp và tiếp nhận các ý kiến phản hồi để đổi mới 
chương trình và nội dung đào tạo. 
Các hội nghề nghiệp tăng cường chất lượng kiểm 
soát chất lượng hội viên, quản lý đạo đức nghề 
nghiệp, đổi mới về tổ chức, phương thức hoạt động 
và nội dung hoạt động để làm trọn chức năng là nơi 
tập hợp và kiểm soát nghề nghiệp. Đổi mới chương 
trình đào tạo, tăng cường công tác kiểm soát chất 
lượng các dịch vụ kiểm toán nhằm hỗ trợ hội viên 
nâng cao chất lượng và lập kế hoạch triển khai quy 
chế hoạt động hỗ trợ hội viên nâng cao chất lượng 
dịch vụ và kiểm soát chất lượng hiệu quả hơn. 
Các doanh nghiệp hành nghề kế toán, kiểm toán 
cần thường xuyên huấn luyện các nhân viên kế toán 
hiểu biết các chuẩn mực kế toán, các chế độ kế toán 
mới, các quy định về thuế hiện hành và đóng góp 
các ý kiến về việc áp dụng các văn bản pháp quy 
về kế toán trong thực tế tại doanh nghiệp thông 
qua các tổ chức nghề nghiệp, các lớp bồi dưỡng tập 
huấn nghiệp vụ; khuyến khích và tạo điều kiện 
để nhân viên học các chứng chỉ kiểm toán quốc 
tế; phối hợp với các trường đại học trong việc đổi 
mới nội dung và chương trình đào tạo thông qua 
việc phản hồi về chất lượng sinh viên ra trường; 
phối hợp với các trường đại học trong công tác đào 
tạo thông qua việc tiếp nhận sinh viên thực tập 
nghề nghiệp, các buổi nói chuyện chuyên đề, định 
hướng nghề nghiệp; tham gia phản biện các chính 
sách chế độ kế toán, kiểm toán mới. 
Đối với các nhân viên hành nghề kế toán, kiểm 
toán cần thường xuyên cập nhật kiến thức về kế 
toán, kiểm toán, tài chính, thuế; tăng cường năng 
lực ngoại ngữ; học chuyển đổi sang các bằng cấp 
quốc tế được công nhận tại Việt Nam: ACCA, CPA 
Úc, CPA Mỹ, CIMA
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công thương Việt Nam- Hiệp định đối 
tác xuyên Thái Bình Dương-TPP.
2. 
3. 
4. Tài liệu Hội thảo quốc tế: Gia nhập TPP & 
AEC- thời cơ và thách thức đối với kế toán 
kiểm toán Việt Nam ngày 18/12- Hà Nội.
5. 
nr091019080134/nr091019083649/
ns110923115344.
6. b a o t i n t u c . v n / v a n - d e - q u a n - t a m /
g ia-nhap-tpp-aecthoi-co-va-thach-
thuc-doi-voi-ke-toan-kiem-toan-viet-
nam-20151218123356604.htm.
7. 
tom-luoc-cong-dong-kinh-te-asean-aec.

File đính kèm:

  • pdfthi_truong_ke_toan_kiem_toan_viet_nam_trong_boi_canh_hoi_nha.pdf