Thư viện đại học phía Nam: Năng động trong quá trình cải tạo và sáng tạo trên bước đường phát triển

1. Dẫn nhập

Hệ thống thư viện đại học phía

Nam đã năng động trong suy nghĩ và hành

động, cho nên đã có những bước đột phá

trong việc cải tạo và xây dựng. Điều này

đã tác động tích cực đến đường hướng

phát triển chung cho cả nước trong những

năm gần đây. Có hai nguyên nhân gây nên

hệ quả này:

1. Các thư viện đại học phía Nam không

nhiều thì ít cũng đã có một nền tảng

nhận thức về giá trị chuẩn mực

nghiệp vụ thư viện căn bản – Tất cả

các thư viện đại học miền Nam trước

đây đều tổ chức xếp tài liệu theo môn

loại, sử dụng Bảng phân loại thập

phân Dewey, sử dụng hệ thống biên

mục đề mục; một số thư viện đã tổ

chức kho mở. Hầu hết những giá trị

đó đều được lưu giữ trong các thư

viện đại học phía Nam sau này.

2. Các thư viện đại học phía Nam đã

chủ động liên kết với nhau để định

hướng cùng phát triển, chẳng hạn như

bằng hình thức Câu lạc bộ Thư viện,

trong đó vai trò tiên phong của Thư

viện Cao học, ĐH Khoa học Tự

nhiên, ĐHQG-HCM là đáng kể

pdf 10 trang yennguyen 1720
Bạn đang xem tài liệu "Thư viện đại học phía Nam: Năng động trong quá trình cải tạo và sáng tạo trên bước đường phát triển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thư viện đại học phía Nam: Năng động trong quá trình cải tạo và sáng tạo trên bước đường phát triển

Thư viện đại học phía Nam: Năng động trong quá trình cải tạo và sáng tạo trên bước đường phát triển
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG12/2003 
2 
T
THƯ VIỆN ĐẠI HỌC PHÍA NAM: NĂNG ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH 
CẢI TẠO VÀ SÁNG TẠO TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN 
NGUYỄN MINH HIỆP, BA., MS. 
Chủ nhiệm Câu lạc bộ Thư viện (1998-2001) 
Chủ tịch Liên hiệp Thư viện các trường đại học khu vực phía Nam (FESAL) 
Hội viên Hội đồng Lãnh đạo thư viện đại học CONSAL (CAL) 
Cộng tác viên Trung tâm Chương trình Thư viện thế giới Mortenson, ĐH Iliinois, Hoa Kỳ 
 hư viện đại học phía Nam với quan điểm "CHUẨN HOÁ - HỘI NHẬP" đã năng động 
 trong quá trình cải tạo và xây dựng thư viện. Nay vận dụng quan điểm mới "ĐI TẮT 
 ĐÓN ĐẦU ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TIÊN TIẾN" nhằm bắt kịp nhịp phát triển với cộng 
đồng thế giới, tiến đến liên thông chia sẻ thông tin để đáp ứng mọi yêu cầu của độc giả trong 
kỷ nguyên tri thức – Thư viện đại học phía Nam đã và đang sáng tạo trên bước đường phát 
triển. 
NĂNG ĐỘNG TRONG CẢI TẠO VÀ XÂY DỰNG THƯ VIỆN 
1. Dẫn nhập 
Hệ thống thư viện đại học phía 
Nam đã năng động trong suy nghĩ và hành 
động, cho nên đã có những bước đột phá 
trong việc cải tạo và xây dựng. Điều này 
đã tác động tích cực đến đường hướng 
phát triển chung cho cả nước trong những 
năm gần đây. Có hai nguyên nhân gây nên 
hệ quả này: 
1. Các thư viện đại học phía Nam không 
nhiều thì ít cũng đã có một nền tảng 
nhận thức về giá trị chuẩn mực 
nghiệp vụ thư viện căn bản – Tất cả 
các thư viện đại học miền Nam trước 
đây đều tổ chức xếp tài liệu theo môn 
loại, sử dụng Bảng phân loại thập 
phân Dewey, sử dụng hệ thống biên 
mục đề mục; một số thư viện đã tổ 
chức kho mở. Hầu hết những giá trị 
đó đều được lưu giữ trong các thư 
viện đại học phía Nam sau này. 
2. Các thư viện đại học phía Nam đã 
chủ động liên kết với nhau để định 
hướng cùng phát triển, chẳng hạn như 
bằng hình thức Câu lạc bộ Thư viện, 
trong đó vai trò tiên phong của Thư 
viện Cao học, ĐH Khoa học Tự 
nhiên, ĐHQG-HCM là đáng kể. 
2. Vài nét về quá trình phát triển 
của các thư viện đại học phía 
Nam 
Ngày 22/2/1997 là một cuộc Hội 
thảo đầu tiên tại Thư viện Cao học quy tụ 
lãnh đạo thư viện của 10 trường thuộc 
ĐHQG-HCM lúc đó và một số trường đại 
học khác trên địa bàn TP. HCM nhằm bàn 
thảo vấn đề hợp tác và nối mạng giữa các 
thư viện ĐHQG-HCM. Cuộc hội thảo này 
được xem như là mở đầu cho một tiến 
trình giao lưu, hợp tác nhằm đi đến liên 
thông trên tinh thần tự nguyện giữa các thư 
viện đại học trên địa bàn TP. HCM. Cuộc 
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG12/2003 
3 
Khoá tập huấn đầu tiên 
"Nghiệp vụ và sử dụng thư viện hiện đại" 
khai giảng vào ngày 02/10/1998 
Hội thảo thứ hai vào ngày 20/12/1997 
cũng được tổ chức tại Thư viện Cao học 
với chủ đề"Hội thảo bàn tròn định hướng 
phát triển thư viện"quy tụ đông đảo cán 
bộ thư viện không những trên địa bàn TP. 
HCM mà còn ở các tỉnh khu vực phía Nam 
như Cần Thơ, Đà Lạt, Nha Trang, Buôn 
Mê Thuộc và Huế. Các đồng nghiệp đến 
tham dự mang theo nhiều trăn trở về 
hướng phát triển cho thư viện mình. Do đó 
cuộc hội thảo là một diễn đàn sôi nổi về 
hiện trạng thư viện Việt Nam. Hội thảo đã 
đúc kết được một hướng phát triển là 
CHUẨN HOÁ - HỘI NHẬP. Chính 
hướng đi này đã tạo sức mạnh và niềm tin 
cho một số thư viện đại học phía Nam bắt 
đầu phát triển. Ngày 19/2/1998 Thư viện 
Cao học bắt đầu phát hành "Bản tin điện 
tử Thư viện Cao học" trên mạng Internet 
nhằm quảng bá hướng phát triển CHUẨN 
HOÁ - HỘI NHẬP. Hiện nay bản tin này 
được ấn hành chuyên nghiệp hơn dưới 
dạng PDF tại địa chỉ: 
www.glib.hcmuns.edu.vn/btclb.htm 
Đã đến lúc mô hình xây dựng thư 
viện theo hướng Chuẩn hóa - Hội nhập cần 
phải được nhân rộng ra một cách có tổ 
chức, Thư viện Cao học bắt đầu tổ chức 
những khoá tập huấn nghiệp vụ. Khoá tập 
huấn đầu tiên "Nghiệp vụ và sử dụng thư 
viện hiện đại" khai giảng vào ngày 
02/10/1998 được tổ chức cho 40 cán bộ 
lãnh đạo khoa, phòng, ban và cán bộ thư 
viện của trường ĐH Sư Phạm TP. HCM. 
Khoá học kéo dài trong 4 tuần lễ nhằm 
giới thiệu một mô hình thư viện hiện đại 
để lãnh đạo nhà trường định hướng phát 
triển đồng thời trang bị kiến thức và kỹ 
năng nghiệp vụ cho cán bộ thư viện cam 
kết thực hiện. Khoá tập huấn này là cơ sở 
cho việc cải tạo và phát triển Thư viện ĐH 
Sư Phạm TP. HCM. Khoá thứ hai khai 
giảng vào ngày 9/10/1998 tại Thư viện ĐH 
Đà Lạt dành cho cán bộ thư viện tại khu 
vực Đà Lạt. 
ĐHQG-HCM hợp đồng với Thư 
viện Cao học tổ chức hai khoá tập huấn 
cho cán bộ thư viện của 10 trường thành 
viên từ 30/11/1998 đến 23/12/1998. 
Những khoá tập huấn này giúp các thư 
viện thành viên mạnh dạn hơn trong việc 
cải tạo thư viện theo một hướng chung. 
Kể từ ngày 02/11/1998 Thư viện 
Cao học bắt đầu tổ chức chiêu sinh các 
khoá "Căn bản nghiệp vụ thư viện hiện 
"Hội thảo bàn tròn định hướng phát triển thư 
viện"ngày 20/12/1997 bắt đầu phát triển quan 
điểm CHUẨN HOÁ-HỘI NHẬP 
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG12/2003 
4 
đại", "Kỹ năng căn bản nghề thư viện", 
"Thực hành phân loại Dewey", "Thực 
hành biên mục đề mục", "Trình bày 
thông tin và xuất bản điện tử", "Dịch vụ 
thông tin và tham khảo", "Xây dựng và 
quản lý thư viện điện tử", vv ; đồng 
thời cán bộ Thư viện Cao học đến tận cơ 
sở trực tiếp giúp đồng nghiệp cải tạo thư 
viện như Thư viện ĐH Đà Lạt, ĐH Thuỷ 
sản Nha Trang, ĐH Nông Lâm-HCM, ĐH 
DL Văn Lang-HCM, ĐH DL Hùng 
Vương-HCM, vvCác khóa tập huấn 
cung cấp những kỹ năng kỹ thuật giúp 
đồng nghiệp cải tạo và xây dựng thư viện 
theo hướng hiện đại nhằm tiến đến xây 
dựng thư viện điện tử, chẳng hạn như: 
– Cải tạo kho sách từ sắp xếp theo 
cá biệt thành sắp xếp theo môn 
loại 
– Kho sách được mở từng phần 
đến toàn phần 
– Giải thể kho giáo trình bao cấp 
– Sử dụng Bảng phân loại thập 
phân Dewey thay cho BBK và 
19 dãy 
– Thực hành Biên mục đề mục và 
sử dụng Mục lục đề mục thay 
cho Mục lục phân loại 
– Thực hành biên mục mô tả theo 
AACR2 
– Thực hành OPAC, WebPAC 
tiến đến việc sử dụng những 
phần mềm tiên tiến thay cho 
CDS/ISIS 
– Thực hành Web để trình bày 
thông tin và xuất bản điện tử 
– Tổ chức dịch vụ tham khảo 
Câu lạc bộ Thư viện được thành lập 
vào ngày 21/11/1998 quy tụ hơn 160 cán 
bộ thư viện trong 60 đơn vị thành viên. 
Những hoạt động phong phú và có hiệu 
quả của CLB Thư viện đã giúp cho các thư 
viện thành viên củng cố thêm niềm tin 
CHUẨN HOÁ - HỘI NHẬP để xây dựng 
thư viện mình ngày càng tốt hơn. Trong ba 
năm hoạt động 1998-1999-2000, CLB Thư 
viện đã tiến hành 7 lần Hội thảo chuyên đề 
để đúc kết những ý kiến thảo luận trong 
diễn đàn Bản tin điện tử được phát hành 
hàng tháng theo từng chủ đề. Các cuộc hội 
thảo được tổ chức luân phiên tại các thư 
viện thành viên. 
– 25/3/1999: Hội thảo Quý I/1999 
"Liên thông thư viện" tại Thư 
viện Cao học. 
– 3/7/1999: Hội thảo Quý II/1999 
"Chuẩn hoá nghiệp vụ I" tại 
Thư viện Cao học. 
– 2/10/1999: Hội thảo Quý 
III/1999 "Chuẩn hoá nghiệp vụ 
II" tại Thư viện Trường ĐH 
Nông Lâm. 
– 21/11/1999: Hội thảo Kỷ niệm 
một năm thành lập CLB Thư 
viện "Ổn định nghiệp vụ, Khai 
thác tư liệu điện tử, và Thiết 
lập CSDL chuyên ngành" tại 
Thư viện Trường ĐH Kiến trúc. 
– 25/3/2000: Hội thảo Quý I/2000 
"Thư viện điện tử" tại Thư viện 
Cao học. 
Lễ ra mắt CLB Thư viện ngày 23/12/1998 
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG12/2003 
5 
– 30/6/2000: Hội thảo Quý 
II/2000 "Vai trò Thư viện đại 
học" tại Thư viện ĐH Cần Thơ. 
– 7/11/2000: Hội thảo Kỷ niệm 
hai năm thành lập CLB Thư 
viện "Chuẩn hoá - Hội nhập - 
Phát triển thư viện" tại Thư 
viện ĐH Mở - Bán công. 
CLB Thư viện ra đời đã "gặt hái 
những kết quả bất ngờ và là mối gắn kết 
giữa các thư viện đại học trên địa bàn 
TP. HCM và vùng phụ cận đồng thời 
cũng góp phần thay đổi cách nhìn của xã 
hội với vai trò của thư viện đặc biệt trong 
công tác giáo dục" như GS. Nguyễn Ngọc 
Giao, nguyên PGĐ ĐHQG-HCM, Chủ tịch 
Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật TP. 
HCM đã đánh giá trong Lễ Kỷ niệm hai 
năm thành lập CLB Thư viện. 
 Hoạt động CLB Thư viện là những 
bước khai phá mới mẽ vào lĩnh vực thông 
tin thư viện đối với toàn thể hội viên và đã 
có một tác động tích cực trong việc đổi 
mới từ tư duy đến hành động của nhiều 
đồng nghiệp. Tác động này đã vượt ra khỏi 
giới hạn của những trường đại học khu vực 
phía Nam và đã ảnh hưởng đến đường lối, 
chính sách phát triển của hệ thống thư viện 
nước ta đang dần dần được hình thành. 
Một vài tác động tích cực do hoạt động 
CLB Thư viện mang lại cụ thể như sau: 
– Thúc đẩy sự phát triển nhanh 
chóng của các thư viện thành 
viên ở phía Nam theo hướng 
Chuẩn hoá - Hội nhập: Hầu hết 
các thư viện thành viên đã ứng 
dụng Kho mở, Bảng Phân loại 
thập phân Dewey, Tiêu đề đề 
mục, Tổ chức hệ thống Mục lục 
đề mục, AACR2, Sử dụng 
WebPAC, vv Điều này tác 
động mạnh mẽ đến nhận thức 
quan niệm chuẩn hoá của đồng 
nghiệp khắp nơi trong cả nước. 
– Bảng phân loại thập phân 
Dewey ngày càng được dùng 
rộng rãi trong các thư viện đại 
học phía Nam (Đầu tiên chỉ có 
hai thư viện dùng là Thư viện 
Cao học và Thư viện ĐH cần 
Thơ). Sự kiện này đã tác động 
đến sự quan tâm của lãnh đạo 
ngành Thư viện và nhiều đồng 
nghiệp khác về việc đánh giá 
Bảng phân loại DDC – Lần đầu 
tiên một cuộc Hội thảo về việc 
ứng dụng Bảng phân loại DDC 
do Vụ Thư viện Bộ Văn hóa - 
Thông tin tổ chức tại Hội trường 
3/5 Bộ Văn hoá vào ngày 
17/3/2000 và hiện nay đã đi đến 
thành lập một Hội đồng Tư vấn 
và Tổ dịch thuật Bảng phân loại 
DDC do Thư viện Quốc gia chủ 
trì để tiến hành dịch thuật trong 
2 năm Bảng DDC 14. 
– Tính hiệu quả của những khoá 
tập huấn của Thư viện Cao học 
bao gồm ý nghĩa hình thành 
những giá trị mới và bổ sung 
những điều mà trường lớp chính 
GS. Nguyễn Ngọc Giao tại Hội thảo Kỷ niệm 
hai năm thành lập CLB Thư viện "Chuẩn hóa 
- Hội nhập - Phát triển Thư viện" tại Thư viện 
ĐH Mở-Bán công ngày 7/11/2000 
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG12/2003 
6 
quy chưa dạy, một phần nào đã 
và sẽ tác động đến việc đổi mới 
chương trình và nội dung đào 
tạo ngành Thông tin Thư viện 
hiện nay. 
Liên hiệp thư viện các trường đại 
học khu vực phía Nam (FESAL) chính 
thức được thành lập vào ngày 3/12/2001. 
Những thành quả của CLB Thư viện là nền 
tảng cho sự phát triển của Liên hiệp. Nhiều 
khoá tập huấn và Hội thảo do Liên hiệp 
phối hợp tổ chức tại TP. HCM, Cần Thơ, 
Đà Nẵng, Huế, vv đã tạo cơ sở cho các 
thư viện đại học khu vực phía Nam phát 
triển theo hướng CHUẨN HOÁ - HỘI 
NHẬP. 
3. Thực trạng các thư viện đại học 
phía Nam 
Khu vực phía Nam kể từ Đà Nẵng 
trở vào hiện có 41 trường đại học và 37 
trường cao đẳng. Đa số các cơ sở đó đều 
có thư viện và đang cố gắng xây dựng thư 
viện, nhưng mức độ đầu tư không đồng 
đều, tạo nên sự phát triển không đồng bộ. 
Một số thư viện được đầu tư lớn từ nguồn 
nước ngoài và ngân hàng thế giới như: ĐH 
Đà Nẵng, ĐH Cần Thơ, ĐH Thủy sản Nha 
Trang, ĐH Đà Lạt, ĐH Tây Nguyên, 
ĐHQG-HCM, ĐH Sư phạm-HCM, ĐH 
Kiến trúc-HCM; một số thư viện khác 
cũng được đầu tư thích đáng từ những 
nguồn khác nhau như: ĐH Khoa học Tự 
nhiên-HCM, ĐH Bách khoa-HCM, ĐH 
Khoa học Xã hội và Nhân văn-HCM, ĐH 
Y Dược-HCM, ĐH Kinh tế-HCM, ĐH Sư 
phạm Kỹ thuật-HCM, ĐH Nông lâm-
HCM, ĐH Luật-HCM, ĐH An ninh Nhân 
dân-HCM, ĐH Mở-Bán công-HCM, ĐH 
DL Kỹ thuật-Công nghệ-HCM, CĐ Công 
nghiệp 4-HCM, ĐH An Giang, CĐ Sư 
phạm Đồng Nai, ĐH Sư phạm Quy Nhơn, 
ĐH Kinh tế Đà Nẵng. 
 Với tác động của CLB Thư viện và 
Liên hiệp thư viện các trường đại học khu 
vực phía Nam, những thư viện đại học 
phía Nam đã có những thay đổi tích cực 
trong sinh hoạt nghiệp vụ và tổ chức hoạt 
động thư viện, tuy nhiên vẫn còn nhiều 
hạn chế trong vấn đề hợp tác, liên thông. 
Đã có bàn bạc, thảo luận và nhiều dự kiến, 
nhưng đến nay vẫn chưa hình thành một 
consortium nào. 
 Một số sinh hoạt đáng lưu ý trong 
các thư viện đại học phía Nam như sau: 
– Về tài nguyên thông tin: Trong 
quá trình phát triển của các thư 
viện đại học phía Nam, số lượng 
sách, báo, biểu ghi và các nguồn 
Hội nghị thành lập Liên hiệp thư viện các trường đại học khu vực phía Nam tại Trường ĐH Khoa 
học Tự nhiên và Đại hội FESAL lần thứ nhất tại Thư viện ĐH Y-Dược vào ngày 3/12/2001 
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG12/2003 
7 
tài nguyên điện tử đang phát 
triển nhanh và khá phong phú. 
Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên 
này hiện nay được lưu trữ phân 
tán tại các thư viện và chỉ cho 
phép sử dụng và truy hồi theo 
cách quản lý riêng lẻ của từng 
thư viện và từ các phần mềm địa 
phương của mỗi thư viện đó. 
– Về việc tổ chức sắp xếp tài liệu 
trên giá theo môn loại và kho 
mở: Tất cả đều nhận thức rằng 
đây là tiêu chí đầu tiên trong 
việc đưa thông tin đến với độc 
giả. Việc cải tạo kho sách từ xếp 
theo kích cỡ và số cá biệt sang 
sắp xếp theo môn loại được tiến 
hành từ năm 1998 và hiện nay 
tất cả thư viện các trường đại 
học và cao đẳng tại TP. HCM 
đều tổ chức kho sách xếp theo 
môn loại; hầu hết thư viện các 
trường đại học và cao đẳng phía 
Nam đã và đang chuyển sang 
sắp xếp theo môn loại. Đại bộ 
phận thư viện đại học phía Nam 
tổ chức kho mở; tất cả thư viện 
các trường đại học tại TP. HCM 
đều tổ chức kho mở. 
– Về việc giải thể kho giáo trình 
bao cấp: Kho giáo trình phục 
vụ bao cấp trong thư viện đại 
học là một nét đặc thù trong thư 
viện đại học, nhưng đây là hình 
ảnh thư viện thời xa xưa – nó 
phản ánh một thời kinh tế bao 
cấp, một nền giáo dục từ chương 
và hơn thế nữa đó là hình ảnh 
của một thư viện lạc hậu của 
thời quản lý tư liệu. Thư viện 
đại học ngày nay là trung tâm tri 
thức của một trường đại học, thư 
viện đóng vai trò tích cực trong 
sự nghiệp đổi mới giáo dục – là 
nơi và thầy và trò cùng phát huy 
tinh thần “tự học, học liên tục, 
học suốt đời”, do đó hình ảnh 
của một kho giáo trình cất giữ 
những kiến thức không được 
cập nhật từ năm này sang năm 
khác để phát không cho sinh 
viên là không chấp nhận được 
trong một thư viện đại học ngày 
nay. Đó là lý do mà hầu hết các 
thư viện đại học phía Nam 
không còn tồn tại kho giáo trình. 
Tất cả các thư viện đại học tại 
TP. HCM đều không còn phục 
vụ giáo trình bao cấp và hoàn 
Kho mở tại Thư viện ĐH Sư phạm Kỹ thuật và Thư viện ĐH DL Kỹ thuật-Công nghệ 
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG12/2003 
8 
toàn giải thể kho giáo trình. 
Nhiều thư viện tổ chức thư quán 
để bán giáo trình cho sinh viên – 
giáo trình được cập nhật hàng 
năm và tất cả sinh viên đều phải 
mua giáo trình để học. Giáo 
trình mỗi ngày mỗi mới, tri 
thức mỗi ngày mỗi nâng cao. 
Không phục vụ kho giáo trình, 
cán bộ thư viện tập trung công 
sức để học tập nâng cao trình độ 
cũng như kỹ năng nghiệp vụ 
nhằm theo kịp đà phát triển của 
thư viện trong và ngoài nước. 
– Về việc sử dụng Bảng phân 
loại thập phân Dewey: 
Quan 
niệm sử 
dụng 
Bảng 
phân 
loại 
cũng 
như 
những 
tiêu 
chuẩn 
khác 
được 
thay đổi 
theo tiến trình phát triển ngành 
thông tin thư viện. Trong giai 
đoạn Quản lý tư liệu, mỗi thư 
viện hoạt động đơn độc, quan 
niệm sử dụng Bảng phân loại 
thật đơn giản là chỉ nhằm đáp 
ứng được yêu cầu của thư viện 
đó. Mỗi khu vực, mỗi cộng 
đồng, thậm chí mỗi quốc gia có 
thể biên soạn hay cải biên một 
Bảng phân loại nào đó cho phù 
hợp với hoạt động thư viện 
trong nước mình, chẳng hạn như 
Bảng phân loại 19 dãy. Tuy 
nhiên khi bước qua giai đoạn 
Quản lý thông tin và Quản lý tri 
thức, vấn đề liên thông thư viện 
trở nên vô cùng quan trọng, 
quan niệm chuẩn hoá phải thay 
đổi - đó là chuẩn hoá trên phạm 
vi toàn cầu. Hiện nay hai Bảng 
phân loại được sử dụng rộng rãi 
nhất trên thế giới là DDC và LC. 
Tại khu vực phía Nam, Thư viện 
ĐH Cần Thơ là thư viện duy 
nhất sử dụng Bảng phân loại 
DDC từ trước đến sau 1975; 
Thư viện Cao học, Đại học 
Tổng 
hợp TP. 
HCM 
và sau 
này 
thuộc 
ĐH 
Khoa 
học Tự 
nhiên, 
ĐHQG-
HCM là 
thư viện 
sử dụng 
Bảng 
phân loại DDC sớm nhất ngay 
từ khi thành lập (11/5/1995) và 
thư viện này đã quảng bá việc 
sử dụng DDC từ đó. Đây là một 
công việc hết sức khó khăn bởi 
vì tại thời điểm đó quan điểm 
CHUẨN HÓA - HỘI NHẬP 
chưa được phổ biến rộng rãi. 
Tuy nhiên kể từ năm 1998 khi 
những khóa tập huấn “Thư viện 
hiện đại” được tổ chức đều đặn, 
hàng loạt thư viện đại học trên 
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG12/2003 
9 
địa bàn TP. HCM và khu vực 
phía Nam đã chuyển sang sử 
dụng DDC song song với việc 
chuyển kho sách từ xếp theo 
kích cở và số cá biệt sang xếp 
theo môn loại. Các thư viện đại 
học phía Nam đã tìm thấy sự 
thuận lợi và dễ dàng khi sử dụng 
Bảng phân loại DDC để cải tạo 
kho sách. Đó là lý do khiến 
Bảng phân loại DDC được chấp 
nhận và nhanh chóng triển khai 
trong các thư viện đại học phía 
Nam. Đầu năm 2003, Thư viện 
Cao học đã xuất bản cuốn sách 
"Hướng dẫn thực hành phân 
loại thập phân Dewey" bao 
gồm Bảng phân loại DDC được 
chuyển sang tiếng Việt đã giúp 
cho việc sử dụng DDC tiện lợi 
hơn. Hiện nay hầu hết các thư 
viện đại học phía Nam đều sử 
dụng DDC; một vài thư viện sử 
dụng Bảng phân loại chuyên 
ngành, chẳng hạn như Thư viện 
ĐH Y-Dược dùng bảng phân 
loại NLM (National Library of 
Medicine) của Hiệp hội Y học 
Quốc gia Hoa Kỳ; một số ít thư 
viện còn sử dụng Bảng BBK và 
Bảng thập tiến 19 dãy. 
– Về việc sử dụng tiêu đề đề 
mục và tổ chức mục lục đề 
mục: Hầu hết cán bộ thư viện 
Việt Nam quen sử dụng Từ 
khoá, cho nên khi được hướng 
dẫn sử dụng Tiêu đề đề mục 
trong những khoá tập huấn của 
Thư viện Cao học thì vấn đề tiếp 
thu rất khó khăn. Năm 1999 
CLB Thư viện xuất bản cuốn 
sách "Chọn tiêu đề đề mục cho 
thư viện" với sự tài trợ của 
ĐHQG-HCM để quảng bá việc 
sử dụng tiêu đề đề mục, đồng 
thời là công cụ giúp cho các thư 
viện dựa vào đó để xây dựng 
tiêu đề đề mục cho sưu tập của 
thư viện mình. Các thư viện đại 
học phía Nam nhận thức được 
tầm quan trọng của tiêu đề đề 
mục như là phương pháp thứ hai 
để giúp độc giả tiếp cận thông 
tin nên hầu hết đã cố gắng sử 
dụng tiêu đề đề mục để phản 
ánh nội dung tài liệu và tổ chức 
mục lục đề mục để phản ánh nội 
dung kho tài liệu của thư viện 
mình thay cho mục lục phân 
loại. Một số thư viện sử dụng 
tiêu đề đề mục vừa tiếng Việt 
vừa tiếng Anh như Thư viện ĐH 
Y dược TP. HCM và Thư viện 
ĐH Cần Thơ; nhiều thư viện 
dựa vào Khung đề mục của Thư 
viện Quốc hội Hoa Kỳ "Library 
of Congress Subject Heading 
List" và "Sears List of Subject 
Heading"để định tiêu đề đề 
mục; Thư viện ĐH Y dược hoàn 
toàn dựa vào Khung đề mục 
"Medical Subject Headings" 
của Hiệp hội Y học Quốc gia 
Hoa Kỳ; một số thư viện thường 
xuyên khai thác hệ thống tiêu đề 
đề mục từ OPAC của Thư viện 
Quốc hội Hoa Kỳ trong quá 
trình định tiêu đề đề mục như 
Thư viện ĐH Đà Nẵng, Thư 
viện ĐH Đà Lạt, Thư viện ĐH 
DL Khoa học - Công nghệ TP. 
HCM, vv Nói chung chỉ có 
vài thư viện tổ chức tốt hệ thống 
mục lục đề mục của mình như 
Thư viện ĐH Khoa học Tự 
nhiên TP.HCM, Thư viện ĐH 
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG12/2003 
10 
Mở-Bán công TP. HCM, Thư 
viện ĐH Cần Thơ, vv còn đa 
số thì cần phải đầu tư nhiều để 
hoàn thiện. Tuy nhiên phải thừa 
nhận rằng việc sử dụng rộng rãi 
tiêu đề đề mục và hệ thống mục 
lục đề mục thay cho mục lục 
phân loại trong các thư viện đại 
học phía Nam là một tiến bộ lớn 
trong tiến trình Chuẩn hóa - Hội 
nhập. 
– Về việc Biên mục mô tả. Biên 
mục mô tả là một khâu quan 
trọng trong công việc kiểm soát 
thư tịch để nêu rõ lý lịch sách 
(thư tịch). ISBD (International 
Standards of Bibliographic 
Description) là tiêu chuẩn quốc 
tế về mô tả thư tịch, dựa vào đó 
các nhà thư viện học định ra 
những quy tắc mô tả cụ thể cho 
từng loại hình tài liệu. Quy tắc 
mô tả được xem chuẩn nhất là 
AACR2 (Anglo-American 
Cataloging Rules-Second 
Edition). Các thư viện đại học 
phía Nam từng sinh hoạt trong 
CLB Thư viện đều được tập 
huấn sử dụng AACR2, tuy nhiên 
vì chịu ảnh hưởng với cách làm 
cũ, nên việc tiếp thu có hạn chế, 
do đó hiện nay việc mô tả là 
thiếu chính xác và đồng bộ 
trong hầu hết các thư viện đại 
học phía Nam. 
– Về việc tổ chức dịch vụ tham 
khảo (Reference). 
Ngày nay giá trị chuyên 
nghiệp của công tác thư viện 
không phải chỉ tập trung vào việc 
mua và cho mượn sách và những 
tài liệu khác mà là phải biết nhận 
định nhu cầu và tìm ra giải pháp 
thông tin cho người sử dụng. 
Trước đây người cán bộ thư viện 
thu thập thông tin và để dành chờ 
người đến sử dụng. Giờ đây, công 
nghệ điện tử cho phép người cán 
bộ thư viện thu thập thông tin để 
đáp ứng yêu cầu tức thì của người 
sử dụng – Đây là cốt lõi của dịch 
vụ tham khảo ngày nay. Để thực 
hiện điều này mỗi thư viện trước 
hết phải có một sưu tập tham khảo 
phong phú và một đội ngũ có 
trình độ nghiệp vụ tham khảo tốt. 
Ở nước ta dịch vụ tham khảo còn 
mới mẽ. Một số thư viện đại học 
phía Nam có tổ chức công tác tìm 
tin và phổ biến tin cho độc giả, 
đây là một trong những chức năng 
của dịch vụ tham khảo. Thư viện 
ĐH Đà Nẵng tổ chức tốt dịch vụ 
phổ biến thông tin có chọn lọc 
SDI. Hai thư viện có tổ chức bộ 
sưu tập khá phong phú là Thư 
viện ĐH Mở-Bán công-HCM và 
Thư viện ĐH Khoa học Tự nhiên. 
– Về việc tự động hóa thư viện. 
Hầu hết các thư viện đều có sử 
dụng máy tính, nhưng thực sự tự 
động hoá thì không nhiều. Hiện 
nay một số thư viện đã và đang 
tiến dần đến hoàn thiện việc tự 
động hoá là Thư viện ĐH Đà 
Nẵng, ĐH Đà Lạt, ĐH Cần Thơ, 
ĐH An Giang, ĐH Khoa học Tự 
nhiên-HCM, ĐH Y Dược-HCM, 
ĐH Kinh tế-HCM, ĐH Sư phạm-
HCM, ĐH Sư phạm Kỹ thuật-
HCM, ĐH Nông lâm-HCM, ĐH 
Mở-Bán công-HCM, ĐH DL Kỹ 
thuật Công nghệ-HCM, CĐ Công 
nghiệp 4-HCM, vv Một vài thư 
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG12/2003 
11 
viện có hoạt động thư viện điện tử 
như Thư viện ĐH Khoa học Tự 
nhiên, ĐH Đà Nẵng, ĐH An 
Giang, vvVài thư viện có tiềm 
năng phát triển lớn về quy mô và 
công nghệ như Thư viện ĐH Đà 
Nẵng, ĐH Cần Thơ với dự án xây 
dựng Trung tâm học liệu do tổ 
chức Atlantic Phylanthropies tài 
trợ với sự giúp đỡ kỹ thuật của 
trường RMIT Việt Nam và tổ 
chức Đông Tây Hội ngộ; Thư 
viện trung tâm ĐHQG-HCM và 
Thư viện ĐH Khoa học Tự nhiên 
Trong đó Thư viện ĐH Khoa học 
Tự nhiên đang triển khai dự án 
xây dựng Thư viện số với công 
nghệ tiên tiến, bắt đầu tiến hành 
việc thiết lập e-collections của 
Giai đoạn Quản lý tri thức. 
SÁNG TẠO TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN 
1. Nhận thức vai trò CNTT 
Việc phát triển nhanh chóng của 
CNTT và truyền thông đã tác động lớn đến 
mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Đối với 
ngành thông tin 
thư viện việc tác 
động càng sâu sắc 
hơn khi vai trò 
CNTT được thay 
đổi từ chổ CNTT 
được xem như là 
ứng dụng tích cực 
của ngành thông 
tin thư viện đến 
CNTT là một phần 
quan trọng của 
nghiệp vụ thông 
tin thư viện; hay 
nói một cách khác 
việc quản lý thông 
tin được xem như là thành quả của CNTT. 
Do đó việc phát triển ngành thông tin thư 
viện gắn liền với phát triển CNTT. 
2. Quan điểm đi tắt đón đầu 
 Một khi đã định được hướng đi 
CHUẨN HOÁ - HỘI NHẬP thì yêu cầu của 
chúng ta là phải bắt kịp nhịp phát triển với 
cộng đồng thế giới để hiện đại hoá. 
Chúng ta không nên loay hoay với những 
giá trị cũ và hài lòng với những khám 
phá mới trên những giá trị cũ đó mà phải 
sáng suốt để nhận 
thức rằng: 
– Nhịp phát triển 
của ngành Thông 
tin thư viện chính 
là nhịp phát triển 
của CNTT. 
– Công nghệ mới là 
cứu cánh của 
chúng ta trong giai 
đoạn phát triển 
hiện nay chứ 
không phải là 
những nhà thư 
viện học già nua 
trên thế giới. 
Nhận thức được điều này chính là 
sự sáng tạo trong tư duy. Với truyền 
thống năng động trong việc cải tạo và 
xây dựng thư viện trong thời gian qua, 
Thư viện đại học phía Nam sẽ mạnh dạn 
ứng dụng những công nghệ tiên tiến nhất 
trong việc phát triển và liên thông với 
nhau trong thời gian tới. 
Tại cuộc Hội thảo FESAL ở TT Thông tin Tư 
liệu ĐH Đà Nẵng, ngày 25/9/2003 lần đầu tiên 
Quan điểm "Đi tắt đón đầu ứng dụng công nghệ
tiên tiến"được khẳng định 

File đính kèm:

  • pdfthu_vien_dai_hoc_phia_nam_nang_dong_trong_qua_trinh_cai_tao.pdf