Thư viện số với hệ thống nguồn mở

Hiện nay trên thế giới, xu thế phát

triển Thư viện số đã trở thành một phần chủ

đạo trong toàn cảnh hoạt động thông tin thư

viện, trong khi phần mềm nguồn mở trở

thành một hiện tượng toàn cầu. Giống như

nhiên liệu và động cơ trong kỹ thuật, nguồn

mở và thư viện số là hai yếu tố không thể

tách rời.

pdf 5 trang yennguyen 5360
Bạn đang xem tài liệu "Thư viện số với hệ thống nguồn mở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thư viện số với hệ thống nguồn mở

Thư viện số với hệ thống nguồn mở
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THANG 8 /2006 
2 
NGUYỄN MINH HIỆP, BA., MS. 
GĐ. Thư viện Đại học Khoa học Tự nhiên 
TP. Hồ Chí Minh 
 iện nay trên thế giới, xu thế phát 
triển Thư viện số đã trở thành một phần chủ 
đạo trong toàn cảnh hoạt động thông tin thư 
viện, trong khi phần mềm nguồn mở trở 
thành một hiện tượng toàn cầu. Giống như 
nhiên liệu và động cơ trong kỹ thuật, nguồn 
mở và thư viện số là hai yếu tố không thể 
tách rời. 
Thư viện số 
Từ năm 1994, một dự án xây dựng Thư 
viện số của Liên bang Hoa kỳ do bốn trường 
đại học lớn thực hiện đã khai sinh ra Thư 
viện số. Đã có nhiều định nghĩa khác nhau 
về Thư viện số, tuy nhiên đều thống nhất 
một mục tiêu chung xây dựng Thư viện số là 
nhằm đối phó với tình trạng ‘quá tải thông 
tin – information overload’ đồng thời tiến 
hành ‘quản lý tri thức – knowledge 
management’. 
Tri thức là thông tin có ý nghĩa và hữu 
ích. Xây dựng Thư viện số là chọn lọc, sưu 
tầm, và tổ chức thông tin có ý nghĩa và hữu 
ích hay tri thức nhằm đáp ứng đúng yêu cầu 
của người sử dụng. Theo Branscomb, một 
nhà kinh tế tri thức thì ‘Nếu ví thông tin như 
bột mì thì tri thức chính là bánh mì’. Dựa 
vào lời ví von đầy ý nghĩa đó, ta có thể hiểu 
một cách nôm na rằng ‘Xây dựng thư viện số 
là làm những chiếc bánh mì’. Hay nói một 
cách khác, nếu chúng ta xây dựng thư viện 
số có nghĩa là chúng ta không phải chỉ phục 
vụ ‘bột mì’ tức là tài nguyên thông tin mình 
có, mà phải nhào nắn bột mì đó thành những 
‘chiếc bánh’ theo yêu cầu và nhu cầu của 
người sử dụng. Nói một cách chuyên 
nghiệp, chúng ta phải xây dựng những Bộ 
sưu tập kỹ thuật số nhằm hình thành Thư 
viện số. Những định nghĩa có giá trị sau 
đây cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa này. 
1. Định nghĩa Thư viện số của 
Liên đòan Thư viện số thế giới – DLF : 
“Thư viện số là một tổ chức cung cấp tài 
nguyên, bao gồm cả đội ngũ chuyên 
nghiệp, để chọn lọc, cấu trúc, cung ứng 
truy cập, biên dịch, phân phối, bảo quản 
nguyên vẹn, và đảm bảo bền vững theo 
thời gian những bộ sưu tập kỹ thuật số để 
sẳn sàng phục vụ cộng đồng một cách 
kinh tế” . 
DLF (Digital Library Federation) là 
một liên hiệp thư viện và các cơ sở liên hệ 
có nhiệm vụ tổ chức việc sử dụng công 
nghệ thông tin điện tử nhằm mở rộng việc 
sử dụng các bộ sưu tập và phát triển dịch 
vụ. 
2. Định nghĩa Thư viện số của 
TS. Ian Witten : 
“Thư viện số là tập hợp những bộ sưu 
tập thông tin của các đối tượng số hoặc 
đã được số hóa có tổ chức và tập trung. 
Tập trung theo đề tài hay chủ đề và có tổ 
chức để thông tin dễ truy cập và lưu trữ 
theo những tiêu chuẩn chuyên biệt cung 
cấp hai khả năng chính: 
• P hương thức truy cập, chọn lọc, 
hiển thị tài nguyên số (dành cho 
người sử dụng); 
H 
 THƯ VIỆN SỐ 
 với 
 HỆ THỐNG NGUỒN MỞ 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THANG 8 /2006 
3 
• Phương thức xây dựng, tổ chức và 
lưu hành (dành cho cán bộ thư viện). 
TS. Ian Witten là chuyên gia Thư viện 
số của Đại học Waikato, New Zealand, chủ 
biên Phần mềm nguồn mở Thư viện số 
Greenstone. 
Bộ sưu tập 
Một bộ sưu tập thông tin bao gồm 
nhiều tài liệu dưới nhiều dạng thức khác 
nhau: văn bản, hình ảnh, âm thanh, hình ảnh 
động. Tài liệu là đơn vị căn bản từ đó sưu 
tập thông tin được xây dựng. Một bộ sưu tập 
có thể chứa nhiều loại tài liệu khác nhau. Ví 
dụ một bộ sưu tập về đề tài "Phố cổ Hội An" 
sẽ bao gồm những tài liệu dạng văn bản về 
lịch sử, văn hoá, phong tục, vv; tài liệu 
dạng hình ảnh về những di tích, trang phục, 
các bản thiết kế, vv; tài liệu dạng âm 
thanh về những bài hát, dân ca, vv; tài 
liệu dạng phim về những lễ hội, sinh hoạt 
cộng đồng, vv Một bộ sưu tập chứa nhiều 
tài liệu với dạng thức khác nhau, tuy nhiên 
cung cấp một giao diện đồng nhất qua đó tất 
cả các tài liệu có thể được truy cập, mặc dù 
cách mà tài liệu đó hiển thị sẽ tuỳ thuộc vào 
phương tiện và dạng thức của tài liệu đó. 
 Một bộ sưu tập như thế trước khi trình 
bày phải qua một quá trình hình thành để tạo 
nên những cấu trúc hỗ trợ cho việc truy tìm 
và lướt tìm được dùng cho việc truy cập sưu 
tập. Khi xây dựng xong, bộ sưu tập có thể 
được xuất bản trên Internet hoặc xuất ra CD-
ROM một cách hoàn toàn tự động. Một khi 
sưu tầm thêm tài liệu mới, ta có thể dễ dàng 
bổ sung thêm vào bộ sưu tâp bằng cách tái 
xây dựng. 
 Một thư viện nói chung bao gồm nhiều 
bộ sưu tập khác nhau, mỗi sưu tập tổ chức 
mỗi khác, tuy nhiên hoàn toàn giống nhau 
về phương cách hiển thị. Những bộ sưu tập 
như thế có thể được tạo nên bằng một Phần 
mềm nguồn mở, chẳng hạn như Phần mềm 
nguồn mở đa ngôn ngữ thư viện số 
Greenstone (Greenstone digital library 
multilingual open source software). 
Hệ thống nguồn mở 
Phần mềm nguồn mở cũng có một mối 
quan hệ cộng đồng. Mặc dù những định 
nghĩa về Phần mềm nguồn mở luôn chú 
trọng đến việc có thể sử dụng mã nguồn, 
điều chúng ta đáng lưu ý hơn là phần mềm 
nguồn mở được tạo nên và nuôi dưỡng bởi 
một cộng đồng. OSI (Open Source 
Initiative), đã nắm giữ thương hiệu phần 
mềm nguồn mở, là một tổ chức phi lợi 
nhuận nhằm thiết kế nên việc quản lý và 
xúc tiến việc xác định quyền hạn của 
nguồn mở đối với sản phẩm công cộng, đã 
có một định nghĩa về phần mềm nguồn mở 
như sau: 
“Phần mềm nguồn mở không chỉ là 
một thuật ngữ cho biết việc có thể sử 
dụng mã nguồn, mà còn sử dụng những 
tiêu chí bao gồm việc tự do phân phối 
phần mềm ứng dụng, cũng như dự 
phòng cho việc sử dụng tương lai của 
những mã nguồn nhằm chỉnh sửa và 
thực hiện việc mở rộng ứng dụng mà 
không phân biệt đối xử giữa những 
người hay nhóm người sử dụng chúng”. 
Phần mềm nguồn mở thường mang 
đặc tính như phần mềm tự do. Một sản 
phẩm phần mềm nguồn mở sẽ thông 
thường được phân phối với một giấy phép 
khống chế việc sử dụng và phân phối sản 
phẩm đó. Richard Stallman, người sáng 
lập Dự án GNU (GNU là viết tắt của 
Gnu’s Not UNIX) và là người đứng đầu 
trong thế giới phần mềm nguồn mở, cũng 
là người được giới Tin học Việt Nam đánh 
giá là “người cộng sản của xã hội phần 
mềm” nhân dịp ông viếng thăm Hà Nội 
vào tháng 3/2004, đã ấn định bốn loại tự 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THANG 8 /2006 
4 
do cho những phần mềm ứng dụng nguồn 
mở được hỗ trợ cho việc cấp giấy phép là: 
• Tự do chạy chương trình với bất 
cứ mục đích nào; 
• Tự do chỉnh sửa cho phù hợp với 
yêu cầu của mình; 
• Tự do tái phân phối bản sao để 
giúp người khác sử dụng; 
• Tự do phát triển chương trình và 
bán rộng rãi phần phát triển đó nhằm 
mang đến lợi ích chung cho cộng 
đồng. 
Những lọai giấy phép thông dụng bao 
gồm: 
• GNU General Public License 
(GPL) 
• Creative Commons 
• GNU Lesser Public License 
(LGPL), Artistic 
• Berkley System Distribution (BSD) 
License, Apache Software License, 
MIT License, NCSA License 
• Mozilla Public License (MPL hay 
MozPL), Netscape Public License 
(NPL) 
• OCLC Research Public License 
Giấy phép phần mềm nguồn mở được 
xem như là mối tương quan đặc thù giữa 
một hệ thống sắp được tái đóng gói để phân 
phối với những hệ thống khác sử dụng sản 
phẩm đó trong môi trường thương mại. 
Vốn tài liệu thư viện, đội ngũ nhân 
viện thư viện, và ngay cả hạ tầng cơ sở, 
trang thiết bị thư viện thường được dùng để 
phục vụ rộng rãi cho cộng đồng người sử 
dụng dựa trên cơ sở phi lợi nhuận. Thư viện 
cũng giống như những tổ chức khác, người 
sử dụng thường xuyên phần mềm nguồn mở 
thông qua đội ngũ nhân viên thư viện 
thường không quan tâm đến bao nhiêu dịch 
vụ thư viện được cung cấp đã dùng những 
phần mềm nguồn mở nào. 
Tham gia ứng dụng phần mềm nguồn 
mở nhiều nhất đối với hầu hết những 
người sử dụng máy tính là thông qua 
Internet, không chỉ bởi vì hạ tầng cơ sở 
này được xây dựng dựa trên những ứng 
dụng phần mềm nguồn mở, mà còn bởi vì 
Internet đã trở nên có mặt mọi lúc mọi nơi, 
điều này khiến cho những công nghệ nổi 
trội được dễ dàng công nhận và sử dụng 
rộng rãi. Hệ điều hành nguồn mở Linux là 
một ví dụ điển hình. Linux còn được xem 
như là một bích chương quảng bá phần 
mềm nguồn mở. 
Thuật ngữ then chốt kết nối thư viện số 
với phần mềm nguồn mở là mở. Thật vậy, 
thư viện số đôi khi được xem như là thư 
viện số mở (ODL – Open Digital Library), 
và mô hình “mở” chẳng hạn như lưu trữ 
mở đã nảy sinh ra trong chừng mực nào đó 
vấn đề chia sẻ quyền sở hữu trí tuệ. Nhiều 
người cho rằng, thư viện đã bắt nguồn từ 
cơ sở lý luận rằng một xã hội mở là phụ 
thuộc vào việc trao đổi tự do những quan 
niệm và ý tưởng, cũng như hiện hữu một 
cộng đồng cư dân am hiểu. Thư viện số và 
phần mềm nguồn mở là một sản phẩm tự 
nhiên của những mô hình trao đổi mở giúp 
cho xã hội phát triển và thịnh vượng. 
Vài phần mềm nguồn mở thư viện 
số tiêu biểu. 
1. Phần mềm xây dựng bộ sưu tập: 
Greenstone 
Greenstone là một trong những hệ 
thống phần mềm nguồn mở thư viện số nổi 
tiếng và phổ biến nhất hiện nay. Được phát 
triển bởi Dự án thư viện số New Zealand 
của trường đại học Waikato, New Zealand 
và được UNESCO phân phối, Greenstone 
là một phần mềm đa ngôn ngữ được dịch 
sang gần 50 thứ tiếng, bản tiếng Việt do 
Công ty IES của Phần Lan ở Việt Nam 
phối hợp với Thư viện Đại học Khoa học 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THANG 8 /2006 
5 
Tự nhiên TP. HCM biên dịch. Phần mềm 
nguồn mở thư viện số Greenstone và tài liệu 
hướng dẫn bằng tiếng Việt có thể tải xuống 
thông qua trang web GreenstoneWiKi 
(
x.php/GreenstoneWiki). Greenstone được 
dùng để thu gom và biên mục tài liệu theo 
Dublin Core, đồng thời tổ chức thành bộ sưu 
tập và xuất ra đĩa CD hay Internet. 
Greenstone được lưu hành với giấy phép 
GPL, được dùng rộng rãi khắp nơi trên thế 
giới như là một “mốt – fashion”. Ở Việt 
Nam nhiều thư viện đã sử dụng Greenstone 
để xây dựng nhiều bộ sưu tập có giá trị cao, 
đáng kể nhất là Thư viện ĐH Khoa học Tự 
nhiên và Thư viện ĐH Ngân hàng TP. Hồ 
Chí Minh. 
2. Phần mềm gặt hái metadata: 
dlbox. 
dlbox hay “Digital Libraries-in-a-Box” 
được phân phối bởi Phòng thí nghiệm Thư 
viện số thuộc trường đại học Virginia Tech, 
Hoa Kỳ. Phần mềm này được dùng để hỗ trợ 
việc tích hợp những thành phần mô tả dữ 
liệu biên mục. Đây là một ứng dụng việc mở 
rộng giao thức OAI (Open Archives 
Initative) cho việc gặt hái metadata (XOAI-
PMH). Những thành phần có thể được tải 
xuống và được xây dựng bởi những công cụ 
Pert và Java. Nếu chúng ta đã xây dựng cấu 
trúc cho một bộ sưu tập kỹ thuật số rồi trong 
một cơ sở dữ liệu quan hệ, thì những thành 
phần này có thể bổ sung thêm chức năng 
cho cấu trúc hiện hữu. Gặt hái metadata là 
để tạo nên những bộ sưu tập mới dựa vào tài 
nguyên bên ngòai. 
3. Phần mềm truy hồi và quản lý 
thông tin: SiteSearch 
Vào Tháng Sáu 2001, OCLC công bố 
rằng SiteSearch, một bộ gồm những công cụ 
truy hồi và quản lý thông tin, sẽ không còn 
là một sản phẩm thương mại nữa. Với việc 
phát hành phiên bản 4.0.2a vào 5/2002, 
SiteSearch được sản xuất và cấp phép với 
danh nghĩa Giấy phép nguồn mở OCLC và 
là một trong ít ví dụ trong thế giới thư 
viện, một sản phẩm thương mại trở thành 
nguồn mở. SiteSearch có một tầng Z39.50 
mạnh và có thể cung cấp một giao diện đối 
với những bộ sưu tập địa phương hay từ 
xa. Nhiều máy chuyển đổi và những công 
cụ khác có thể được dùng để chuyển tải 
nội dung vào trong SiteSearch, và nó có 
thể chỉ mục trực tiếp những khổ mẫu 
MARC, XML, và SGML. 
4. Phần mềm chuyển đối MARC-
Dublin Core và Dublin Core-MARC: 
MarcEdit 
MarcEdit được xây dựng bởi Terry 
Reese, ĐH Oregon, Hoa Kỳ. Phần mềm 
được thiết kế nhằm hỗ trợ các dạng khác 
nhau của MARC như MARC 21, 
UNIMARC, vv đồng thời cung cấp các 
chức năng chuyển đổi từ MARC sang 
Text, Text sang MARC; MARC sang 
MARC-XML; MARC sang Dublin Core 
và ngược lại. MarcEdit được thiết kế dựa 
trên Window COM. Cho phép tận dụng 
các tiện ích của Windows Scripting Host. 
MarcEdit là một chương trình lý tưởng cho 
bất kỳ dự án liên quan đến MARC – từ bảo 
trì dữ liệu đến tạo biểu ghi cơ sở. 
Biên mục trên Web hay tạo lập 
metadata. 
Như chúng ta đã nhận thấy, xây dựng 
thư viện số đồng nghĩa với việc xây dựng 
những bộ sưu tập. Cơ sở của bộ sưu tập là 
những tài liệu do cán bộ thư viện sưu tầm, 
chọn lọc, và biên mục từng tài liệu. Cũng 
giống như trong thư viện truyền thống, 
chúng ta biên mục để tạo nên những phiếu 
hay biểu ghi mục lục để giúp độc giả tra 
cứu sách; trong thư viện số với sự hỗ trợ 
của phần mềm nguồn mở, người ta biên 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THANG 8 /2006 
6 
mục để tạo nên metadata cũng nhằm giúp 
người sử dụng có thể truy cập tài liệu. 
Metadata và phiếu mục lục tương đồng 
với nhau về mục đích sử dụng, thậm chí còn 
giống nhau về nội dung. Tuy nhiên khác 
nhau cơ bản là phiếu mục lục thì tách rời với 
kho sách, trong khi metadata thì thường gắn 
liền vào nội dung tài liệu. Điều này giải 
thích rằng, nếu tra cứu vào phiếu mục lục thì 
ta chỉ được lý lịch của tài liệu mà ta gọi là 
biểu ghi thư tịch (bibliographic record) 
trong khi tra cứu vào metadata thì ta có thể 
có được cả nội dung tài liệu đó. 
Tài liệu điện tử hay kỹ thuật số ở dạng 
toàn văn và đa phương tiện phải được đóng 
gói bằng công nghệ Web. Vì metadata phải 
gắn liền vào nội dung tài liệu nên cũng phải 
được đóng gói để trở thành siêu dữ liệu thư 
tịch (bibliographic metadata). Chẳng hạn 
như những biểu ghi thư tịch sử dụng khổ 
mẫu MARC 21 trong thư viện truyền thống, 
khi sử dụng với tài nguyên điện tử thì phải 
được đóng gói bằng ngôn ngữ XML để trở 
thành MARC-XML. Nhiều phần mềm 
nguồn mở hỗ trợ việc chuyển đổi này, trong 
đó có MarcEdit. 
Nếu sử dụng Dublin Core với 15 thành 
phần đã được đóng gói bằng XML để biên 
mục tài liệu truyền thống lẫn điện tử như 
Thư viện ĐH Khoa học Tự nhiên TP. HCM 
đang sử dụng hiện nay thì ta không cần phải 
chuyển đổi. Nếu có chuyển đổi thì chuyển 
đổi sang MARC để có thể trao đổi với hệ 
thống cũ những biểu ghi thư tịch trong thư 
viện truyền thống. Cách biên mục này 
được gọi là biên mục trên Web (Web-
based cataloging), cũng đồng nghĩa với 
việc tạo lập metadata. 
Phần mềm nguồn mở, cụ thể là 
Greenstone hỗ trợ chúng ta biên mục trên 
web bằng Dublin Core để tạo nên những 
bộ sưu tập với hệ thống mục lục tra cứu 
chuyên nghiệp theo tác giả, nhan đề, đặc 
biệt là tiêu đề đề mục (Subject Heading), 
vv mới thực sự là để xây dựng Thư viện 
số. Việc sử dụng bộ máy tra cứu Search 
Engine nhúng vào một cơ sở dữ liệu 
điện tử để tìm kiếm theo từ khóa một 
cách máy móc thì chỉ là một hình thức 
thông tin trên web, hòan tòan khác hẳn 
với Thư viện số. 
Kết luận. 
Xây dựng bộ sưu tập (collections) là 
cốt lõi trong việc hình thành Thư viện số. 
Công việc này đòi hỏi người cán bộ thông 
tin thư viện tạo lập và gặt hái metadata 
hơn là chỉ biết sử dụng search engine. Hệ 
thống nguồn mở là trợ thủ đắc lực cho 
công việc này. 
Sử dụng Hệ thống nguồn mở nói 
chung và Phần mềm Greenstone do 
UNESCO quảng bá nói riêng để xây dựng 
Bộ sưu tập trong việc hình thành Thư viện 
số là rất cần thiết và là cơ hội đồng đều 
cho tất cả các thư viện ở Việt Nam hiện 
nay.
THAM KHẢO 
1. How to build a Digital Library / Ian H. Witten and David Bainbridge.- New York: 
Morgan Kaufmann, 2003 
2. Using Open Source Systems for Digital Libraries / Art Rhyno.- Westport, 
Connecticut: Libraries Unlimited, 2004 
3. Digital and Digital Libraries Module - Information Management Resource Kit / 
FAO and UNESCO, 2005 (CD-ROM) 

File đính kèm:

  • pdfthu_vien_so_voi_he_thong_nguon_mo.pdf