Thực trạng stress của học viên trường Sĩ quan Lục quân 1

Abstract: Learning and training activities of learners at Tran Quoc Tuan University are a special

kind of activity, taking place with great intensity, requiring huge physical and intellectual losses,

that makes students more susceptible to stress. When students are stressed, it will cause negative

impacts on their health, their learning and training results are not high; Since then, affecting the

quality of staff training. In the article, we analyze the current status of learners’ stress at Tran Quoc

Tuan University as a basis for preventing and overcoming stress for learners.

pdf 5 trang yennguyen 5080
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng stress của học viên trường Sĩ quan Lục quân 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng stress của học viên trường Sĩ quan Lục quân 1

Thực trạng stress của học viên trường Sĩ quan Lục quân 1
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 464 (Kì 2 - 10/2019), tr 30-34 
30 
Email: damquangk11@gmail.com 
THỰC TRẠNG STRESS CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 1 
Tạ Quang Đàm - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng 
Ngày nhận bài: 17/8/2019; ngày chỉnh sửa: 29/8/2019; ngày duyệt đăng: 30/8/2019. 
Abstract: Learning and training activities of learners at Tran Quoc Tuan University are a special 
kind of activity, taking place with great intensity, requiring huge physical and intellectual losses, 
that makes students more susceptible to stress. When students are stressed, it will cause negative 
impacts on their health, their learning and training results are not high; Since then, affecting the 
quality of staff training. In the article, we analyze the current status of learners’ stress at Tran Quoc 
Tuan University as a basis for preventing and overcoming stress for learners. 
Keywords: Stress, learners at Tran Quoc Tuan University, current situation. 
1. Mở đầu 
Trong cuộc sống hiện đại, stress đang là một trong 
những hiện tượng khá phổ biến và có tác động to lớn tới 
con người. Đã có nhiều khoa học quan tâm nghiên cứu 
về stress như: tâm lí học, y học, sinh lí học, xã hội học. 
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở mức độ nhất định, stress 
có thể kích thích cơ thể hoạt động, huy động nguồn năng 
lượng dự trữ của cơ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho quá 
trình hoạt động, giúp con người vượt qua được những 
tình huống nguy hiểm, khó khăn; nhưng nếu stress thái 
quá, kéo dài hoặc thường xuyên thì sẽ làm cho cơ thể suy 
giảm khả năng miễn dịch, kiệt sức, căng thẳng, lo âu, mất 
ngủ, dễ bị kích động, giảm khả năng lao động. Trong 
trường hợp cơ thể không tự điều chỉnh được để lấy lại sự 
cân bằng tâm - sinh lí, stress sẽ gây ra bệnh tật ở con 
người. Đây là tác hại của stress đòi hỏi cần được nghiên 
cứu và có giải pháp khắc phục. 
Hoạt động học tập và rèn luyện của học viên trường 
Sĩ quan Lục quân 1 là một loại hình hoạt động đặc biệt, 
diễn ra với cường độ lớn, đòi hỏi sự hao tổn rất lớn về thể 
lực và trí tuệ. Trong quá trình học tập, rèn luyện, học viên 
không những phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, 
chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà 
nước mà còn phải tuân thủ nghiêm chỉnh Điều lệnh, Điều 
lệ, các chế độ quy định của nhà trường. Do vậy, để đáp 
ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường, học viên 
phải có sự nỗ lực rất lớn về thể lực, trí lực, ý chí nên dễ 
gây ra căng thẳng ở học viên. Bên cạnh đó, những lo toan 
về cuộc sống gia đình, vấn đề thành tích học tập, những 
mâu thuẫn nảy sinh trong cuộc sống, hoạt động chung 
đang là những yếu tố tác động mạnh mẽ làm cho học viên 
căng thẳng về tâm lí, ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động 
học tập, rèn luyện của họ. 
Bài viết phân tích thực trạng stress ở học viên Trường 
Sĩ Quan Lục quân 1, làm cơ sở phòng ngừa và khắc phục 
stress cho học viên. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Phương pháp nghiên cứu 
Để đánh giá một cách khách quan thực trạng vấn đề 
stress ở học viên, chúng tôi sử dụng phương pháp khảo 
sát như sau: 
- Khách thể đánh giá: 210 học viên đang học tập ở 
Trường Sĩ quan Lục quân 1, gồm: 70 học viên chuyên 
ngành Trinh sát đặc nhiệm, 70 học viên chuyên ngành Trinh 
sát cơ giới, 70 học viên chuyên ngành Chỉ huy tham mưu. 
- Thời gian khảo sát: tháng 3-6/2019. 
- Các mức đánh giá: dựa theo thang đo 3 mức độ và 
gán điểm như sau: Rất căng thẳng - 3 điểm, Căng thẳng 
- 2 điểm, Ít căng thẳng - 1 điểm. Với cách tính và thang 
điểm quy ước sử dụng cách tính điểm trung bình (ĐTB) 
theo công thức n -1/n. Thang đo 3 mức độ chuyển định 
lượng tương ứng từ 3 đến 1. Với cách tính điểm như trên, 
điểm tối đa của thang đo là 3 và điểm tối thiểu là 1. Do 
vậy, X của các mức sẽ nằm trong khoảng: 1 ≤ X ≤ 3. 
Do vậy, kết quả sẽ được tính như sau: mức 1 (Ít căng 
thẳng): ĐTB ≤ 1,67; mức 2 (Căng thẳng): 1,67 < ĐTB ≤ 
2,34; mức 3 (Rất căng thẳng): 2,34 < ĐTB ≤ 3,0. 
2.2. Kết quả nghiên cứu 
2.2.1. Thực trạng nhận biết về stress của học viên 
Trường Sĩ quan Lục quân 1 
- Để đánh giá nhận biết về stress ở học viên, chúng 
tôi sử dụng câu hỏi: “stress là gì?” và thu được kết 
quả (bảng 1): 
Bảng 1. Thực trạng nhận biết về stress ở học viên 
Stress 
Tỉ lệ Thứ 
bậc Số lượng % 
Là sự căng thẳng lo lắng 172 81,9 1 
Là sự mệt mỏi của cơ thể 36 17,1 2 
Là sự bâng khuâng hồi hộp 2 1 3 
Tổng 210 100 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 464 (Kì 2 - 10/2019), tr 30-34 
31 
Theo bảng 1, ý kiến cho rằng stress “là sự căng thẳng 
lo lắng” về tâm lí xếp vị trí thứ 1 (81,9%). Qua phỏng 
vấn, các học viên đều hiểu stress là sự căng thẳng về tâm 
lí khi gặp những tình huống khó khăn, nguy hiểm trong 
các hoạt động học tập, rèn luyện và trong sinh hoạt. Ý 
kiến cho rằng stress “là sự mệt mỏi của cơ thể” chiếm 
17,1%, xếp vị trí thứ 2. Qua phỏng vấn, các học viên này 
đều hiểu stress chính là những biểu hiện mệt mỏi, bệnh lí 
về mặt sinh lí. Ở vị trí thứ ba là ý kiến cho rằng stress “là 
sự bâng khuâng hồi hộp”, với 2 ý kiến. Qua phỏng vấn, 
các học viên này hiểu chưa rõ ràng về stress, họ chỉ thấy 
được một khía cạnh nhỏ về mặt tâm lí của stress. 
Như vậy, đa số học viên đều hiểu đúng về stress, đó 
là sự căng thẳng về mặt tâm lí khi gặp các tình huống 
nguy hiểm, khó khăn trong hoạt động học tập, rèn luyện 
và sinh hoạt. Đây là một thuận lợi để các cấp lãnh đạo, 
chỉ huy thực hiện ngăn ngừa, khắc phục stress ở học viên 
vì chỉ trên cơ sở hiểu đúng về stress thì mới có biện pháp 
đúng để ngăn ngừa và khắc phục stress. 
- Để hiểu rõ hơn thực trạng nhận biết về stress ở học 
viên, chúng tôi đã hỏi thêm về ảnh hưởng của stress 
(bảng 2): 
Bảng 2. Thực trạng nhận biết của học viên 
về ảnh hưởng của stress đối với con người 
Tác dụng của stress 
Thứ 
bậc Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Có lợi 0 0 3 
Có hại 196 93,3 1 
Cả có lợi và có hại 14 6,7 2 
Tổng 210 100 
Đa số các học viên đều cho rằng stress là có hại cho 
họ trong quá trình học tập, rèn luyện và sinh hoạt, với 
93,3% ý kiến và xếp ở vị trí thứ nhất. Tìm hiểu lí do tại 
sao học viên đều cho rằng stress chỉ có hại, chúng tôi 
được biết, học viên phải chịu nhiều áp lực trong quá trình 
học tập, rèn luyện; do vậy, họ chỉ nhận thấy mặt có hại 
mà chưa thấy mặt có lợi của stress. Xếp ở vị trí thứ hai là 
ý kiến cho rằng stress có cả lợi và hại (6,7%). Khi được 
hỏi, các học viên này đều cho rằng nếu stress vừa phải thì 
sẽ kích thích họ học tập, rèn luyện, giúp họ huy động khả 
năng của mình trong quá trình học tập, rèn luyện. Nhưng 
nếu stress thái quá thì sẽ làm cho họ căng thẳng, mệt mỏi, 
ảnh hưởng tới kết quả quá trình học tập, rèn luyện của 
họ. Đây là sự hiểu biết rất đúng đắn về tác dụng của 
stress. Không có học viên nào cho rằng stress chỉ có lợi. 
Đây là điều đáng mừng vì học viên đã đánh giá đúng vấn 
đề này. 
Kết quả trên cho chúng ta thấy, đa số học viên vẫn 
chưa nhận thức đầy đủ về ảnh hưởng của stress. Đây là 
điều đáng quan tâm trong công tác giáo dục, phải cho học 
viên thấy được con người sống không thể tránh được 
stress, stress không chỉ có hại mà trong nhiều tình huống 
stress là cần thiết, nó kích thích hoạt động của con người. 
Có như vậy, mới góp phần làm cho học viên lạc quan hơn 
trong hoạt động học tập, rèn luyện và sinh hoạt của họ. 
2.2.2. Thực trạng về mức độ stress ở học viên Trường Sĩ 
quan Lục quân 1 
Bảng 3 cho thấy, tất cả học viên đều bị stress ở mức 
độ khác nhau. Trong đó mức độ “căng thẳng” là chiếm tỉ 
lệ cao nhất. Nhìn vào ĐTB, ta thấy mức độ stress ở học 
viên nằm trong nhóm mức độ 2 là nhóm thuộc mức độ 
“căng thẳng”. Kết quả phản ánh khách quan do cường độ 
học tập, rèn luyện của học viên rất cao. Đây là điều đáng 
quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp bởi vì mức độ 
căng thẳng, đặc biệt là mức độ rất căng thẳng của học 
viên kéo dài và nếu không có biện pháp ngăn ngừa và 
khắc phục kịp thời thì sẽ ảnh hưởng rất lớn tới quá trình 
học tập, rèn luyện, thậm chí gây ra bệnh tật, ảnh hưởng 
đến sức khoẻ tâm - sinh lí của học viên. 
2.2.3. Thực trạng biểu hiện và ảnh hưởng của stress ở 
học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 
* Thực trạng biểu hiện stress ở học viên: 
Biểu hiện stress ở học viên thể hiện trên hai phương 
diện: mặt thể chất (bảng 4) và mặt tâm lí (bảng 5). 
Bảng 4 cho thấy, biểu hiện stress về mặt thể chất ở 
học viên có các biểu hiện khác nhau. Các biểu hiện stress 
thể hiện về mặt thể chất ở mức cao nhất đó là: “Khó ngủ, 
ngủ không ngon giấc” với ĐTB là 2,44, xếp ở vị trí thứ 
2 là “mệt mỏi, uể oải” với ĐTB là 2,43 và xếp ở vị trí thứ 
3 là “lười hoạt động, sinh hoạt cá nhân” với ĐTB là 2,14. 
Bảng 3. Thực trạng mức độ stress ở học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 
Đối tượng học viên 
Mức độ stress 
Ít căng thẳng Căng thẳng Rất căng thẳng 
ĐTB 
Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%) 
Trinh sát đặc nhiệm 19 27,1 43 61,4 8 11,4 1,84 
Trinh sát cơ giới 13 18,8 48 69 9 12,9 1,94 
Chỉ huy tham mưu 8 11,5 40 57 22 31,4 2,2 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 464 (Kì 2 - 10/2019), tr 30-34 
32 
Đây là các biểu hiện thể chất thuộc mức độ cao vì ĐTB 
đều lớn hơn 2. Đối với các biểu hiện buồn đi tiểu nhiều 
lần; đau nhức xương khớp; miệng khô, chán ăn, ăn không 
ngon, rối loạn tiêu hoá; hơi thở nhanh, dồn dập, và tim 
đập nhanh, loạn nhịp đều là những biểu hiện về mặt thể 
chất ở mức thấp vì điểm trung bình đều dưới 2,0. 
Qua tìm hiểu, trò chuyện, chúng tôi được biết: khi 
bị stress, học viên thường có những biểu hiện như: ăn 
không ngon, chán ăn, mất ngủ, khó ngủ, ngủ không 
ngon giấc và lười hoạt động, sinh hoạt cá nhân. Đặc 
biệt, khi quan sát kĩ một số học viên bị stress, chúng tôi 
thấy họ biểu hiện rõ sự mệt mỏi, uể oải, ánh mắt chậm 
chạp, lông mày hơi cau, nét mặt hơi nhăn. 
Như vậy, biểu hiện stress về mặt thể chất ở học viên 
thể hiện ở mức độ cao là khó ngủ, ngủ không ngon giấc, 
mệt mỏi, uể oải và lười hoạt động, sinh hoạt cá nhân. Đây 
là những biểu hiện chưa thể hiện rõ bệnh lí về mặt thể 
chất, nhưng nếu tình trạng này không được các cấp quan 
tâm, khắc phục thì sẽ làm ảnh hưởng lớn tới kết quả học 
tập, rèn luyện của học viên. 
Qua bảng 5, biểu hiện stress về mặt tâm lí cũng thể 
hiện ở các mức độ khác nhau. Biểu hiện stress về mặt 
tâm lí ở mức độ cao nhất là “hay lo lắng, bồn chồn, suy 
nghĩ”, xếp ở vị trí thứ hai là “rất dễ nóng nảy, mất bình 
tĩnh”, xếp ở vị trí thứ 3 là “hay quên”, xếp ở vị trí thứ 4 
là “ít nói, suy nghĩ miên man hoặc nói nhiều, nói liên 
Bảng 4. Các biểu hiện stress về mặt thể chất ở học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 
Các biểu hiện 
Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên 
Rất 
thường xuyên 
ĐTB 
Xếp 
hạng Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
1. Mệt mỏi, uể oải 32 15,2 68 32,4 98 46,7 12 5,7 2,43 2 
2. Buồn đi tiểu nhiều lần hoặc 
khó đi tiểu 
88 41,9 102 48,6 16 7,6 4 1,9 1,70 6 
3. Đau nhức xương khớp 96 45,7 92 43,8 18 8,6 4 1,9 1,67 7 
4. Miệng khô, chán ăn, ăn không 
ngon, rối loạn tiêu hoá 
78 37,1 92 43,8 34 16,2 6 2,9 1,85 5 
5. Hơi thở nhanh, dồn dập và tim 
đập nhanh, loạn nhịp 
74 35,2 94 44,8 38 18,1 4 1,9 1,87 4 
6. Khó ngủ, ngủ không ngon giấc 46 21,9 73 34,8 84 40,0 17 8,1 2,44 1 
7. Lười hoạt động, sinh hoạt cá 
nhân 
48 22,9 90 42,9 66 31,4 6 2,9 2,14 3 
Bảng 5. Các biểu hiện stress về mặt tâm lí ở học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 
Các biểu hiện 
Hiếm khi Thỉnh thoảng 
Thường 
xuyên 
Rất 
thường xuyên 
ĐTB 
Xếp 
hạng Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
1. Khó tính, khắt khe với mọi người hơn 44 21,0 110 52,4 48 22,9 8 3,8 2,10 6 
2. Hay lo lắng, bồn chồn, suy nghĩ 32 15,2 56 26,7 102 48,6 20 9,5 2,52 1 
3. Ít nói, suy nghĩ miên man hoặc nói 
nhiều, nói liên miên 
50 23,8 86 41,0 50 23,8 24 11,4 2,23 4 
4. Cảm thấy sống không có ý nghĩa, 
mục đích 
76 36,2 86 41,0 34 16,2 14 6,7 1,93 8 
5. Rất dễ nóng nảy, mất bình tĩnh 46 21,9 76 36,2 66 31,4 22 10,5 2,30 2 
6. Hay suy nghĩ tiêu cực 52 24,8 86 41,0 60 28,6 12 5,7 2,15 5 
7. Chán nản 68 32,4 86 41,0 42 20,0 14 6,7 2,01 7 
8. Hay quên 74 35,2 62 29,5 58 27,6 26 12,4 2,27 3 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 464 (Kì 2 - 10/2019), tr 30-34 
33 
miên”, xếp ở vị trí thứ 5 là “hay suy nghĩ tiêu cực”, tiếp 
đến là “khó tính, khắt khe với mọi người hơn” và cuối 
cùng là “chán nản”. Đây là những biểu hiện về mặt tâm 
lí thuộc mức độ cao. Chỉ có duy nhất biểu hiện về mặt 
tâm lí là “cảm thấy sống không có ý nghĩa, mục đích” là 
biểu hiện ở mức độ thấp với điểm trung bình là 1,93. 
Như vậy, nếu so sánh với các biểu hiện về mặt thể 
chất thì các biểu hiện stress về mặt tâm lí thể hiện cao 
hơn. Trong 8 biểu hiện stress về mặt tâm lí thì có 7 biểu 
hiện ở mức cao, chỉ có 1 biểu hiện stress về mặt tâm lí là 
ở mức thấp. Trong khi đó, 7 biểu hiện stress về mặt thể 
chất thì chỉ có 3 biểu hiện là ở mức cao, còn 4 biểu hiện 
là ở mức thấp. 
2.2.4. Nguyên nhân gây stress ở học viên Trường Sĩ quan 
Lục quân 1 
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, 
những nguyên nhân này có thể do môi trường tự nhiên, 
môi trường xã hội, quan hệ đồng chí đồng đội, do kinh 
nghiệm cá nhân. Tuy nhiên, khi tìm hiểu một số nguyên 
nhân cơ bản, kết quả thu được thể hiện ở bảng 6: 
Kết quả ở bảng 6 cho thấy, nguyên nhân hàng đầu 
gây ra stress ở học viên đó là do học viên “khó thích 
ứng với cường độ cao của hoạt động”, với ĐTB là 2,9. 
Có 72,3% ý kiến của học viên cho rằng, họ khó thích 
ứng với cường độ cao của hoạt động ở mức thường 
xuyên và rất thường xuyên. Nguyên nhân xếp ở vị trí 
thứ 2 gây ra stress ở học viên đó là “quan hệ, giao lưu 
bị bó hẹp” với ĐTB là 2,89. Nếu tính các ý kiến cho 
rằng quan hệ, giao lưu với bạn bè của họ bị bó hẹp ở 
mức độ thường xuyên và rất thường xuyên thì có 71,5% 
ý kiến. Một khía cạnh nữa trong quan hệ, giao lưu của 
học viên đáng được quan tâm đó là sự tiếp xúc, làm 
quen với bạn khác giới của học viên. Qua điều tra, 
phỏng vấn và tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng, đây cũng là 
một trong những nguyên nhân gây stress ở học viên. 
Điều này dể hiểu vì học viên là những người đang ở lứa 
tuổi có nhu cầu tình yêu, tình bạn với bạn khác giới rất 
lớn; từ đó, đặt ra vấn đề nếu muốn giảm stress thì cần 
phải có những quy định, sự quan tâm để học viên có 
điều kiện giao lưu, tiếp xúc với bạn khác giới để họ cân 
bằng về mặt tâm lí. 
Bảng 6. Các nguyên nhân gây stress ở học viên 
Nguyên nhân 
Hiếm khi Thỉnh thoảng 
Thường 
xuyên 
Rất 
thường xuyên 
ĐTB 
Xếp 
hạng Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
1. Khó khăn trong thích ứng với quy 
định và kỉ luật của nhà trường 
38 18,1 58 27,6 52 24,8 62 29,5 2,66 3 
2. Quan hệ, giao lưu bị bó hẹp 20 9,5 40 19,0 94 44,8 56 26,7 2,89 2 
3. Mâu thuẫn trong cuộc sống, hoạt động 
chung 
56 26,7 94 44,8 42 20,0 18 8,6 2,10 8 
4. Bầu không khí tâm lí trong tập thể 
không lành mạnh 
50 23,8 82 39,0 48 22,9 30 14,3 2,28 5 
5. Tương lai chưa thật rõ ràng 88 41,9 62 29,5 44 21,0 16 7,6 1,94 10 
6. Bị điểm kém và những tiêu cực trong 
thi cử 
50 23,8 98 46,7 42 20,0 20 9,5 2,15 6 
7. Giảng viên giảng dạy không cuốn hút 56 26,7 94 44,8 42 20,0 18 8,6 2,10 8 
8. Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa gương 
mẫu, quản lí không khoa học 
84 40,0 72 34,3 40 19,0 14 6,7 1,92 11 
9. Bản thân sống chưa lạc quan và chưa 
có cách giải toả căng thẳng 
54 25,7 86 41,0 56 26,7 14 6,7 2,14 7 
10. Tổ chức các hoạt động trong đơn vị 
đơn điệu, chưa khoa học 
44 21,0 82 39,0 46 21,9 38 18,1 2,37 4 
11. Gặp vấn đề về sức khoẻ và tình cảm 
riêng tư 
78 37,1 104 49,5 20 9,5 8 3,8 1,80 12 
12. Khó thích ứng với cường độ cao của 
hoạt động 
20 9,5 38 18,1 95 45,2 57 27,1 2,9 1 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 464 (Kì 2 - 10/2019), tr 30-34 
34 
Xếp ở vị trí thứ 3 là do học viên “khó khăn trong 
thích ứng với quy định và kỉ luật của nhà trường”. Có 
114 ý kiến (chiếm 54,3%) tổng số học viên cho rằng, 
họ khó khăn trong thích ứng với quy định và kỉ luật 
của nhà trường quân đội diễn ra ở mức độ thường 
xuyên và rất thường xuyên. Đặc trưng của hoạt động 
ở các nhà trường là duy trì kỉ luật rất chặt chẽ và 
nghiêm minh theo yêu cầu và đòi hỏi của hoạt động 
đặc thù. 
Xếp ở vị trí thứ 4 là “tổ chức các hoạt động trong 
đơn vị đơn điệu, chưa khoa học”. Qua phỏng vấn cho 
thấy, số học viên có ý kiến này cho rằng, trong các 
hoạt động, đặc biệt là hoạt động sinh hoạt trong đơn vị 
tổ chức chưa khoa học, thời gian vui chơi, giải trí của 
học viên chưa duy trì đúng, đôi khi thời gian thể dục, 
thể thao hay ngày nghỉ học viên chủ yếu là lao động, 
trong hoạt động học tập, việc bố trí lịch học và thi cử 
chưa khoa học, thời gian ôn luyện thi của học viên rất 
gấp gáp. Điều này làm cho học viên rất căng thẳng. 
Nguyên nhân xếp ở vị trí thứ 5, thứ 6 là “bầu không 
khí tâm lí trong tập thể không lành mạnh” và “bị điểm 
kém và những tiêu cực trong thi cử”. Khi tìm hiểu vấn 
đề này cho thấy, có tình trạng cho điểm không công 
bằng làm cho số học viên chịu khó học tập giảm động 
lực học tập vì họ chịu khó học mà vẫn bị điểm kém hơn 
một số học viên lười học và khả năng học tập chưa tốt. 
Nguyên nhân xếp ở vị trí thứ 7 gây stress ở học 
viên đó là “bản thân sống chưa lạc quan và chưa có 
cách giải toả căng thẳng”. Nguyên nhân này thuộc về 
vấn đề quan điểm sống và kinh nghiệm giải toả căng 
thẳng. Nếu tính số học viên bị stress do nguyên nhân 
này ở mức độ thường xuyên và rất thường xuyên thì 
có 70 học viên, chiếm 28,8%. Qua phỏng vấn, chúng 
tôi thấy rằng, số học viên này chưa thực sự lạc quan, 
họ còn có cái nhìn định kiến trước các vấn đề của cuộc 
sống, đặc biệt, họ chưa có kinh nghiệm trong việc giải 
toả căng thẳng khi gặp những vấn đề khó khăn trong 
học tập, rèn luyện và sinh hoạt. 
Các nguyên nhân còn lại là những nguyên nhân 
gây stress ở mức thấp. Trong đó, đặc biệt chú ý là 
nguyên nhân về sức khoẻ và tình cảm riêng tư ở mức 
thấp nhất. Đây là điều đáng mừng vì học viên đa số 
đều có sức khoẻ tốt và ít bị vướng mắc các vấn đề về 
tình cảm riêng tư. 
3. Kết luận 
Kết quả điều tra thực trạng stress ở học viên 
Trường Sĩ quan Lục quân 1 cho thấy, đa số học viên 
đều có cách hiểu đúng về stress; tuy nhiên, về tác dụng 
của stress thì phần lớn họ chưa hiểu đầy đủ khi cho 
rằng stress chỉ có hại. Đối với mức độ stress của học 
viên, đa số học viên rơi vào mức độ căng thẳng và rất 
căng thẳng. Thực trạng này là điều đáng quan tâm và 
cần có giải pháp khắc phục về thực trạng bị stress của 
học viên. Có nhiều nguyên nhân gây stress ở học viên, 
trong đó các nguyên nhân gây stress ở mức độ cao. 
Đây là những nguyên nhân đáng quan tâm và cần có 
biện pháp khắc phục để giảm stress cho học viên. 
Kết quả nghiên cứu thực trạng này là cơ sở để đề 
xuất một số biện pháp phòng ngừa, khắc phục stress ở 
học viên trường Sĩ quan Lục quân 1 như giáo dục cho 
mỗi học viên có quan điểm sống tích cực, có tinh thần 
lạc quan, vui vẻ, không định kiến, tiêu cực; tạo hứng 
thú học tập cho học viên trong quá trình dạy học; tổ 
chức các hoạt động học tập, rèn luyện, sinh hoạt của 
học viên phong phú, đa dạng và khoa học; cán bộ chỉ 
huy, lãnh đạo quản lí một cách khoa học, luôn gương 
mẫu quan tâm, chia sẻ với học viên, đồng thời, biết 
xây dựng bầu không khí tâm lí tích cực, lành mạnh 
trong tập thể học viên; mỗi học viên tích cực tự rèn 
luyện, tự tu dưỡng nâng cao khả năng thích ứng với 
các hoạt động học tập, rèn luyện của nhà trường. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đỗ Văn Đoạt (2014). Kĩ năng ứng phó với stress 
trong hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên 
trường đại học sư phạm. Luận án tiến sĩ Tâm lí học, 
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
[2] Trần Thu Hà - Nguyễn Thị Thanh Hương (2004). 
Nghệ thuật giảm thiểu stress. NXB Văn hoá - 
Thông tin. 
[3] Trần Thị Xuân Lan - Trần Hoàng Nguyên (2007). 
Stress và cách xử lí: Những chiến lược chế ngự có 
hiệu quả các ức chế ở nơi làm việc, cũng như ở nhà. 
NXB Thanh niên. 
[4] Nguyễn Thành Khải (2001). Nghiên cứu stress ở 
cán bộ quản lí. Luận án tiến sĩ Tâm lí học, Trường 
Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[5] D. Lazaraus (2001). Cách giảm stress tốt nhất. NXB 
Văn hoá - Thông tin. 
[6] Nguyễn Thị Thúy Dung (2016). Tìm hiểu mức độ 
stress ở cán bộ quản lí giáo dục trường mầm non và 
phổ thông tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Giáo 
dục, số 378, tr 3-5. 
[7] Nguyễn Thị Cẩm Tú (2018). Rèn luyện kĩ năng ứng 
phó với stress cho sinh viên ngành Sư phạm mầm 
non Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An. Tạp chí 
Giáo dục, số 435, tr 24-27; 59. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_stress_cua_hoc_vien_truong_si_quan_luc_quan_1.pdf