Thương điếm Nagasaki trong chiến lược Đông Á của Bồ Đào Nha (Thế kỷ XVI - XVII)

TÓM TẮT

Thương nhân Bồ Đào Nha là thế lực tiên phong trong quá trình mở rộng thương mại và truyền

giáo đến phương Đông thế kỷ XVI- XVII. Họ sớm xây dựng thành công hệ thống thương điếm

liên hoàn xuyên lục địa bắt đầu từ Lisbon đến Nhật Bản. Trong đó, Nagasaki là một trong những

thương điếm quan trọng góp phần duy trì mạng lưới hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha ở

Đông Á và mang lại những lợi nhuận lớn cho Bồ Đào Nha. Do đó, bài viết cố gắng tập trung phân

tích vai trò của thương điếm Nagasaki trong việc duy trì và phát triển mạng lưới thương mại của

Bồ Đào Nha ở Đông Á.

pdf 8 trang yennguyen 3760
Bạn đang xem tài liệu "Thương điếm Nagasaki trong chiến lược Đông Á của Bồ Đào Nha (Thế kỷ XVI - XVII)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thương điếm Nagasaki trong chiến lược Đông Á của Bồ Đào Nha (Thế kỷ XVI - XVII)

Thương điếm Nagasaki trong chiến lược Đông Á của Bồ Đào Nha (Thế kỷ XVI - XVII)
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 201(08): 71 - 77 
 Email: jst@tnu.edu.vn 71 
THƢƠNG ĐIẾM NAGASAKI TRONG CHIẾN LƢỢC ĐÔNG Á 
CỦA BỒ ĐÀO NHA (THẾ KỶ XVI - XVII) 
 Dƣơng Thị Huyền 
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Thương nhân Bồ Đào Nha là thế lực tiên phong trong quá trình mở rộng thương mại và truyền 
giáo đến phương Đông thế kỷ XVI- XVII. Họ sớm xây dựng thành công hệ thống thương điếm 
liên hoàn xuyên lục địa bắt đầu từ Lisbon đến Nhật Bản. Trong đó, Nagasaki là một trong những 
thương điếm quan trọng góp phần duy trì mạng lưới hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha ở 
Đông Á và mang lại những lợi nhuận lớn cho Bồ Đào Nha. Do đó, bài viết cố gắng tập trung phân 
tích vai trò của thương điếm Nagasaki trong việc duy trì và phát triển mạng lưới thương mại của 
Bồ Đào Nha ở Đông Á. 
Từ khóa: Bồ Đào Nha; Nagasaki; Nhật Bản; thương mại; truyền giáo; thương điếm. 
Ngày nhận bài: 14/3/2019; Ngày hoàn thiện: 21/5/2019; Ngày duyệt đăng: 06/6/2019 
THE NAGASAKI FACTORY IN THE EAST ASIAN STRATEGY 
OF PORTUGUESE (16
th
- 17
th
 CENTURIES) 
Duong Thi Huyen 
TNU - University of Science 
ABSTRACT 
Portuguese were a pioneering force in the process of expanding trade and missionary to the East in 
the 16
th
 and 17
th
 centuries.They soon built a system of intercontinental factory from Lisbon to 
Japan. Therein, Nagasaki was one of important factories to maintained Portuguese's trade network 
in East Asia, contributing to the great profits for Portuguese. This paper analyzes Nagasaki's role 
in maintaining and developing Portuguese's trade network in East Asia. 
Keywords: Portuguese; Nagasaki; Japan; trade; missionaries; factory. 
Received: 14/3/2019; Revised: 21/5/2019; Approved: 06/6/2019 
Email: huyendt@tnus.edu.vn
Dương Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 71 - 77 
 Email: jst@tnu.edu.vn 72 
1. Vài nét về sự thiết lập thƣơng điếm 
Nagasaki của ngƣời Bồ Đào Nha thế kỷ XVI 
Thế kỷ XV - XVI, Bồ Đào Nha là một trong 
những nước châu Âu có hàng hải phát triển 
sớm và mạnh mẽ nên họ đã đẩy mạnh quá 
trình bành trướng thương mại trên thế giới. 
Chính sách “Đông tiến” của người Bồ Đào 
Nha không giống với các nước khác bởi họ 
không đại diện cho một Công ty thương mại 
mà đặt dưới sự quản lý trực tiếp của chính 
quyền Bồ Đào Nha thông qua Estado da India 
- một thể chế bảo hộ thương mại và truyền 
giáo của người Bồ Đào Nha ở Đông Ấn. Tuy 
nhiên, với tiềm lực mạnh mẽ và những chính 
sách phù hợp, Bồ Đào Nha đã nhanh chóng 
xây dựng một hệ thống thương điếm nhằm 
tạo ra một mạng lưới thương mại liên hoàn 
trong thế kỷ XVI - XVII xuất phát từ Goa (Ấn 
Độ, năm 1510) sang Malacca (năm 1511) nối 
liền với Macao (Trung Quốc năm 1557). Đây 
là thành công đầu tiên, rực rỡ nhất mà chưa 
một cường quốc phương Tây nào làm được. 
Trong mạng lưới đó, thương điếm Macao 
được xem như “chiếc chìa khóa vàng” đem 
đến sự phồn vinh của cho đế quốc Bồ Đào 
Nha tại châu Á. Mặc dù vậy, người Bồ Đào 
Nha vẫn không dừng lại ở đó mà tiếp tục nối 
dài hệ thống thương điếm của mình ở Đông 
Á. Một trong những thị trường khác vô cùng 
hấp dẫn với người Bồ là Nhật Bản - là 
“vương quốc của các đảo bạc” và nhiều mỏ 
kim loại quan trọng khác- loại hàng hóa đặc 
biệt mà người Bồ không thể thiếu để duy trì 
mạng lưới thương mại nội Á. Do đó, việc Bồ 
Đào Nha thiết lập quan hệ thương mại với 
Nhật Bản là điều hết sức tất yếu trong bối 
cảnh lịch sử lúc đó. 
Bồ Đào Nha là những “chiến sĩ tiên phong” 
trong việc truyền bá tôn giáo và là những 
thương nhân năng động nhất trong việc phát 
triển quan hệ thương mại với Nhật Bản. Ngay 
từ những cuộc gặp gỡ tình cờ đầu tiên ở giữa 
thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha đã được các lãnh 
chúa địa phương chào đón nồng nhiệt. Đây là 
một trong những thuận lợi rất lớn của Bồ Đào 
Nha trong quá trình xâm nhập vào Viễn Đông 
so với thương nhân các nước khác cùng thời. 
Thái độ tích cực của chính quyền một số nước 
Đông Á đối với thương nhân phương Tây đặc 
biệt với người Bồ Đào Nha đều xuất phát từ 
cùng một nguyên nhân. Do nhà Minh ở Trung 
Quốc thực hiện chính sách hải cấm nên người 
Nhật không buôn bán với Trung Hoa - thị 
trường truyền thống của Nhật Bản. Vì vậy, 
người Nhật thích thú với sự hiện diện của 
người Bồ Đào Nha, đặc biệt là hàng hóa mà 
họ mang tới. Họ thấy có cơ hội phát triển việc 
buôn bán với nước ngoài để làm giầu và có 
thể nhờ đó để củng cố sức mạnh quân sự. Do 
đó, người Nhật đã nhanh chóng muốn liên kết 
với người Bồ để mở rộng thị trường ra bên 
ngoài nhằm thu mua những hàng hóa từ thị 
trường Trung Hoa. 
Nếu như ở thị trường Đàng Trong (Đại Việt), 
các thương nhân Bồ Đào Nha không thành lập 
thương điếm, mặc dù được sự ưu ái rất lớn của 
chúa Nguyễn thì ở Nhật Bản và các thị trường 
khác ở Đông Á, người Bồ Đào Nha luôn kiên 
trì trong quá trình thuyết phục chính quyền địa 
phương cho thiết lập một thương điếm. Nhằm 
củng cố thế lực của mình tại châu Á, thiết lập 
quan hệ thương mại thường xuyên với Nhật 
Bản, các giáo sĩ và thương nhân Bồ đã cố gắng 
tìm kiếm một địa điểm thuận lợi để xây dựng 
một thương điếm. Lúc đầu, người Bồ Đào Nha 
tìm đến Hirado nhưng lãnh chúa địa phương là 
Matsura Takanobu đã từ chối đề nghị mở cảng 
vì sợ những ảnh hưởng tiêu cực của đạo Thiên 
chúa. Do đó, người Bồ bắt buộc phải tìm kiếm 
một địa điểm khác. Sau một quá trình khảo sát, 
thăm dò và cả thử nghiệm, thương nhân Bồ 
Đào Nha đã tìm được một hải cảng hết sức lý 
tưởng để đặt thương điếm là Nagasaki. Vốn 
được mệnh danh là những thương nhân sành 
sỏi cùng với quá trình thương thuyết bền bỉ, sự 
giúp sức rất đắc lực của những nhà truyền 
giáo, người Bồ Đào Nha đã giành được quyền 
mở cảng và đặt thương điếm ở Nagasaki vào 
năm 1571. Sự lựa chọn Nagasaki để xây dựng 
Dương Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 71 - 77 
 Email: jst@tnu.edu.vn 73 
thương điếm của người Bồ dựa trên những cơ 
sở chủ yếu sau: 
Thứ nhất, Nagasaki là một vùng nước sâu, 
được bao bọc bởi những rặng núi chắn sóng 
nên rất thuận lợi cho tàu thuyền cập cảng, 
tránh bão và phòng thủ. Đây là đặc điểm 
chung của tất cả các thương cảng nổi tiếng ở 
Đông Á thời kỳ này. Nagasaki được coi là 
một thương cảng tốt nhất ở Nhật Bản, có tầm 
vóc quốc tế “nơi có thể 1000 chiếc thuyền 
cùng cập bến và những chiếc tàu lớn nhất thế 
giới có thể cập bến hoặc buông neo trước 
thành phố” [1; tr. 99-100]. 
Thứ hai, Nagasaki nằm trong vùng biển Tây 
Nam của Nhật Bản, nơi mà quan hệ thương 
mại của Nhật Bản với các thương nhân nước 
ngoài diễn ra mạnh mẽ nhất. Thời kỳ này, 
Nhật Bản đang diễn ra cuộc nội chiến nên 
chính quyền vẫn chưa có những chiến lược 
phát triển thương mại hàng hải. Trong tình 
trạng phân cát về lãnh thổ, hoạt động buôn 
bán của Nhật Bản chủ yếu dồn vào một số 
thương cảng nhất định trong đó có Nagasaki. 
Ngoài ra, ở Nagasaki một số lãnh chúa lớn 
rất tích cực liên hệ, giao thương với nước 
ngoài. Lãnh chúa Jinzaemon, người đứng đầu 
Nagasaki đã sớm chấp thuận yêu cầu mở cảng 
của người Bồ Đào Nha với điều kiện người 
Bồ Đào Nha hàng năm phải nộp cho lãnh 
chúa địa phương một khối lượng vàng lớn 
đồng thời phải giao cho các quan chức sở tại 
một khoản tiền trị giá 1000 ducat bạc và 
nhiều khoản chi phí lớn khác để hoàn thiện 
việc xây cảng, làm nhà chung hay thuê cơ sở. 
Điều kiện này là khá cao so với lợi nhuận thu 
được của người Bồ trong quá trình buôn bán 
ở Nhật Bản. Nhưng họ vẫn chấp nhận khoản 
chi phí này để hoàn thiện mạng lưới thương 
mại xuyên lục địa với hy vọng sẽ nắm độc 
quyền thương mại ở Viễn Đông. Từ đây, 
Nagasaki là trở thành thương điếm quan trọng 
trên con đường mậu dịch tơ lụa đổi bạc của 
Bồ Đào Nha từ Trung Quốc đến Nhật Bản, là 
một trong những trung tâm buôn bán quan 
trọng của Bồ Đào Nha trong suốt thế kỷ XVI 
và đầu thế kỷ XVII. 
2. Vai trò của thƣơng điếm Nagasaki trong 
chiến lƣợc Đông Á của ngƣời Bồ Đào Nha 
Thương điếm Nagasaki ra đời nhằm mục đích 
kết nối thị trường Nhật Bản với Trung Quốc 
nhưng cơ cấu tổ chức của thương điếm 
Nagasaki đơn giản hơn so với thương điếm 
Macao. Captain - major nắm giữ quyền tài 
phán chính ở Macao nhưng cũng là người 
đứng đầu thương điếm Nagasaki và là thẩm 
phán chính của các nhân viên tại Nhật Bản 
trong thời gian lưu trú. Captain - major hoạt 
động như một đại sứ với chính quyền Nhật 
Bản. Mặc dù cơ cấu tổ chức đơn giản nhưng 
thương điếm Nagasaki hoạt động khá hiệu 
quả, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược 
Đông Á của người Bồ Đào Nha. 
Thứ nhất, thương điếm Nagasaki trở thành 
cửa ngõ quan trọng để Bồ Đào Nha xâm nhập 
mạnh mẽ hơn vào Nhật Bản thông qua 
thương mại và truyền giáo. Nagasaki đã đảm 
nhiệm đầy đủ chức năng của một thương 
điếm chiến lược như Goa hay Macao vì đây 
nơi tập kết hàng, kho chứa hàng, bán hàng 
cũng như nơi ở của các nhân viên thương 
điếm. Tại Nagasaki, các hoạt động mua bán, 
trao đổi hàng hóa giữa Bồ Đào Nha và Nhật 
Bản diễn ra khá nhộn nhịp. Bồ Đào Nha làm 
nhiệm vụ trung chuyển hàng hóa giữa Trung 
Quốc và Nhật Bản. Họ đưa tơ lụa Trung Quốc 
đến Nagasaki, từ Nagasaki tơ lụa sẽ được đưa 
đến các cảng thị khác như Edo, Osaka để 
thu mua bạc. Trong những năm cuối thế kỷ 
XVI, mỗi năm có khoảng 1600 picul1 lụa 
được nhập vào Nhật Bản. Theo đó, 1 picul lụa 
mua ở Trung Quốc là 90 ducat2, trừ các khoản 
chi phí, 1 picul lụa bán được 121 ducat. Do 
đó, Bồ Đào Nha thu một khoản lãi khoảng 
49600 ducat mỗi năm [1; tr. 103-104]. Cuối 
thế kỷ XVI, Nhật Bản được coi là một trong 
hai trung tâm sản xuất bạc lớn nhất, chỉ đứng 
sau mỏ bạc Potosi ở Peru do người Tây Ban 
1
 1 picul= 133 ½ pounds = 100 catty= 60kg 
2
 Là một loại tiền đồng được đúc bằng bạc của 
người Bồ Đào Nha 
Dương Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 71 - 77 
 Email: jst@tnu.edu.vn 74 
Nha khai thác. Thêm đó, bạc của Nhật Bản 
được coi là tinh chất nhất, rất được các 
thương nhân phương Tây lúc bấy giờ ưa 
chuộng. Một thương nhân người Anh đến 
phương Đông từ 1585 đến 1591 đã miêu tả: 
khi người Bồ từ Macao thuộc Trung Hoa đến 
Nhật Bản, họ đã đem theo lụa trắng, vàng, 
trầm hương, đồ gốm và lúc trở lại họ không 
đem theo gì khác ngoài bạc. Những chiếc tàu 
lớn của họ đến đây hàng năm và mỗi năm 
đem ra khỏi Nhật Bản khoảng 600000 ducat 
bạc. Trong ngôn ngữ của giới thương nhân 
lúc đó, những chiếc tàu rời Nagasaki về Goa 
hay Lisbon được gọi là Nao de Prata (tàu 
bạc) [2; tr. 14]. Do đó, lợi nhuận thu được của 
người Bồ Đào Nha từ thị trường Nhật rất lớn, 
thường lên tới 70 - 80%, thậm chí có thể lên 
đến 100%. Bồ Đào Nha dần nắm độc quyền 
trong quan hệ thương mại với Nhật Bản ở nửa 
sau thế kỷ XVII mà không địch thủ phương 
Tây nào có thể cạnh tranh được [3; tr. 144]. 
Trước khi người Bồ đến Nhật Bản, Trung 
Hoa đã giữ vai trò độc quyền trong quan hệ 
thương mại với Nhật Bản. Nhưng từ nửa sau 
thế kỷ XVI, người Bồ đã thay người Trung 
Quốc nắm giữ vai trò độc quyền cung cấp tơ 
lụa nhất là tơ sống cho thị trường Nhật Bản. 
Để làm giảm khả năng lũng đoạn thị trường 
Nhật Bản của thương nhân Bồ Đào Nha, 
chính quyền Nhật Bản đã thực hiện những 
chính sách kiểm soát nghiêm ngặt đối với 
hoạt động của người Bồ Đào Nha ở Nagasaki. 
Năm 1604, Mạc phủ đã lập ra một nhóm thu 
mua và phân phát lụa bao gồm nhiều thương 
nhân có kinh nghiệm từ các thành phố Sakai, 
Kyoto, Nagasaki để định ra giá cả thống nhất 
(được gọi là chế độ pancada) cho các loại 
hàng nhập ngoại và chịu trách nhiệm về việc 
nhập khẩu tơ lụa. Ngoài ra, Mạc phủ 
Tokugawa còn thực hiện chính sách đa dạng 
hóa quan hệ thương mại với các nước: Tây 
Ban Nha, Hà Lan, Anh để phá vỡ thế độc tôn 
mà người Bồ Đào Nha đã thiết lập được tại 
thị trường Nhật Bản cuối thế kỷ XVI. Bên 
cạnh đó, Tướng quân Hideyoshi đã trưng 
dụng cảng Nagasaki của giáo đoàn Dòng Tên 
thành cơ sở chủ yếu cho hoạt động ngoại 
thương của Nhật Bản [1; tr. 92-93]. Những 
chính sách này đã chứng tỏ nhận thức của 
Mạc phủ Tokugawa về lợi nhuận to lớn mà 
người Bồ đạt được trong quá trình buôn bán ở 
Nhật. Từ đây, thương điếm mà người Bồ dày 
công xây dựng đã trở thành thương cảng nổi 
tiếng trong hoạt động ngoại thương của Nhật. 
Người Bồ Đào Nha còn được Giáo hoàng cho 
phép độc quyền truyền giáo ở đảo quốc này 
khiến cho người Tây Ban Nha nhìn họ với 
con mắt ghen tị. Nagasaki đã trở thành nơi hội 
tụ của những tín đồ Thiên chúa từ khắp các 
vùng Nhật Bản. Với các nhà quý tộc Nhật 
Bản, khi thấy các thương nhân Bồ Đào Nha 
sùng kính các nhà truyền giáo nên rất hiếu kỳ 
tìm hiểu. Nhiều daimyo ở Kyushu tìm cách 
lôi kéo tàu Bồ Đào Nha tới các cảng biển để 
kiếm được các nguồn lợi thương mại, thậm 
chí một số lãnh chúa còn đảm bảo tự do hoàn 
toàn cho việc truyền bá đức tin. Đây là tư 
tưởng thoáng mở, đối lập với thái độ thủ cựu 
của một số nước phong kiến phương Đông 
khác. Các giáo sĩ đã rất tích cực hoạt động 
nhằm truyền bá tôn giáo vào Nhật Bản như 
mở các lớp dạy giáo lý, đi thăm các vùng 
truyền đạo, thực hiện những nghi lễ rửa tội, 
hướng dẫn các con chiên đọc kinh hàng 
ngày Nhờ vậy, các vùng truyền đạo được 
mở rộng, số lượng người theo đạo tăng lên 
đáng kể. Đến năm 1582, ở Nhật Bản đã có 
150 000 tín đồ và 20 giáo đường được xây 
dựng. Giáo sĩ Bồ Đào Nha cũng nghiên cứu 
những đặc trưng riêng biệt của văn hóa Nhật 
Bản để tìm ra phương cách hữu hiệu cho việc 
truyền bá tư tưởng đạo Thiên chúa [4]. 
Lúc đầu Nagasaki chỉ là một hải cảng ven 
biển. Nhưng nhờ sự lựa chọn, đầu tư và phát 
triển của Bồ Đào Nha, Nagasaki trở thành 
một hải cảng phát triển sầm uất. Năm 1590, 
dân số ở đây khoảng 2000 người, đầu thế kỷ 
XVII đã tăng lên 20 000 người. Đối với Nhật 
Bản, Nagasaki trở thành trung tâm buôn bán 
Dương Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 71 - 77 
 Email: jst@tnu.edu.vn 75 
với nước ngoài ở vùng Tây Nam Nhật Bản, là 
bến xuất phát chủ yếu của các thuyền buôn 
Nhật Bản thời kỳ Châu Ấn thuyền (1592- 
1635) [5; tr. 138]. Sự phát triển của thương 
cảng này đánh dấu vai trò khai mở của người 
Bồ Đào Nha chứ không phải của các thương 
nhân Nhật Bản. Do đó, khi người Bồ bị cấm 
sang Nhật buôn bán nhưng Nagasaki vẫn lưu 
giữ lại những dấu ấn đậm nét của người Bồ 
Đào Nha, nơi giao lưu văn hóa Đông Tây 
diễn ra vô cùng mạnh mẽ và rộng lớn. 
Thứ hai, Nagasaki đã trở thành mắt xích quan 
trọng trong hệ thống thương điếm của Bồ 
Đào Nha kéo dài từ Lisbon - Mũi Hảo vọng – 
Goa - Malacca - Macao. Đây là hệ thống 
thương mại lớn nhất mà người Bồ Đào Nha 
đã dày công xây dựng. Nhờ vào hệ thống này 
mà người Bồ đã gần như nắm độc quyền 
trong thương mại ở phương Đông cuối thế kỷ 
XVI. Trên hệ thống liên hoàn này, hoạt động 
buôn bán của Bồ Đào Nha ở Đông Á được 
thực hiện liên tục và mang lại lợi nhuận lớn 
nhất. Hàng năm, người Bồ Đào Nha cử 
thuyền buôn từ Goa đến Ma Cao, sau đó đến 
Nhật Bản để bán hàng hóa để mua bạc Nhật. 
Trên đường trở lại Ấn Độ, ngoài số bạc mua 
từ Nhật Bản, thuyền buôn Bồ Đào Nha lại ghé 
qua Macao để nhập về tơ lụa và một số hàng 
khác của Trung Quốc. Bạc Nhật trở thành một 
thứ hàng hóa rất đặc biệt, không thể thiếu đối 
với thương nhân Bồ, là nhân tố quan trọng 
làm nên huy hoàng của Bồ Đào Nha trong 
nền thương mại với Đông Á [6; tr. 104]. Với 
việc thiết lập thương điếm Nagasaki, Bồ Đào 
Nha đã trở thành thương nhân châu Âu đầu 
tiên thành công trong việc gom hầu hết các 
tuyến thương mại trên biển nối liền từ Tây Âu 
sang Đông Á vào trong guồng máy thương 
mại của họ. Từ trung tâm chính là Lisbon, 
người Bồ Đào Nha đã tích cực hoạt động để 
chi phối sự luân chuyển hàng hóa và vàng bạc 
toàn cầu trong các thế kỷ XVI - XVII. 
Trong mạng lưới thương mại Đông Á, Macao 
được xem như “chiếc chìa khóa vàng” và là 
thương điếm mang lại sự phồn vinh cho Bồ 
Đào Nha. Tuy nhiên, Macao không thể tồn tại 
đơn lẻ, độc lập mà cần duy trì mối quan hệ 
chặt chẽ với các thương điếm khác đặc biệt là 
với Nagasaki. Tài liệu do linh mục dòng Tên là 
Padre mestre Belchior Nunes Barreto viết vào 
năm 1555 đã cho thấy sự thịnh vượng trong 
hoạt động buôn bán giữa Macao và Nhật Bản: 
“Mười hoặc mười hai ngày cách đây, tàu từ 
Nhật Bản đã đến Macao, và cùng với hàng hoá 
nặng trĩu sự giàu có, thứ mà người Bồ Đào 
Nha và những chuyến tàu của họ ở Trung 
Quốc đều mong muốn thu mua từ Nhật Bản. 
Và họ ước gì ở Trung Quốc lúc này là mùa 
đông để họ có thể rời khỏi bờ biển Trung Quốc 
đến Nhật Bản trong tháng 5 năm sau khi mà 
thời tiết bắt đầu có gió mùa để chuyến hải 
hành của họ thuận lợi hơn” [5; tr. 43] 
Hàng năm, từ Macao, tàu nhổ neo đến Nhật 
Bản vào khoảng tháng 7 hay tháng 8 tùy theo 
gió mùa Tây Nam. Thương nhân Bồ Đào Nha 
ở lại Nagasaki bán những hàng hóa như tơ 
lụa, gốm sứ, đồ thủ công mỹ nghệ tại các chợ 
phiên Quảng Châu (Canton) hoặc những mặt 
hàng của châu Âu như: lông thú, nhung pha 
lê, thủy tinh, đồng hồ, ống nhòm, thuốc lá 
Sau khi bán hết hàng vào tháng 10, tháng 11, 
người Bồ Đào Nha từ cảng Nagasaki về 
Macao nhờ gió mùa Đông Bắc, mang theo 
ngoài thương phẩm chủ yếu là bạc Nhật còn 
có thêm tranh khắc gỗ, kiếm, kimono, đồ sơn 
mài [5; tr. 104 ]. Những tàu lớn chở hàng 
hóa đã khẳng định vai trò trung gian quan 
trọng kết nối hai thị trường đầy tiềm năng này 
của người Bồ. Trong đó, bạc Nhật là yếu tố 
thúc đẩy sự tích cực của người Bồ tham gia 
vào tuyến thương mại này. Từ năm 1546 đến 
năm 1617, Estado da India đều đặn cử những 
tàu lớn chở hàng hóa từ Macao đến Nagasaki, 
có những năm lên tới 4 tàu lớn. Hoạt động 
thương mại nhộn nhịp này được thể hiện rất 
rõ trong bảng thống kê dưới đây: 
Dương Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 71 - 77 
 Email: jst@tnu.edu.vn 76 
Bảng 1. Khởi hành của Não do Trato 
từ Macao đến Nhật Bản (1546 - 1617) [7; tr. 55] 
Năm SL3 Năm SL Năm SL Năm SL 
1546 3 1564 3 1582 2 1600 1 
1547 0 1565 2 1583 2 1601 0 
1548 1 1566 2 1584 1 1602 1 
1549 0 1567 3 1585 2 1603 0 
1550 2 1568 2 1586 1 1604 1 
1551 1 1569 2 1587 2 1605 1 
1552 1 1570 2 1588 2 1606 1 
1553 1 1571 2 1589 1 1607 0 
1554 1 1572 2 1590 2 1608 0 
1555 2 1573 1 1591 2 1609 1 
1556 2 1574 2 1592 0 1610 0 
1557 2 1575 4 1593 1 1611 0 
1558 2 1576 1 1594 0 1612 1 
1559 2 1577 1 1595 1 1613 0 
1560 3 1578 2 1596 1 1614 1 
1561 5 1579 1 1597 1 1615 1 
1562 3 1580 1 1598 3 1616 0 
1563 3 1581 2 1599 0 1617 1 
Từ bảng thống kê trên chúng ta có thể thấy, 
mối quan hệ thương mại bạc đổi tơ lụa của Bồ 
Đào Nha đã kết nối thị trường Macao với 
Nhật Bản thường xuyên và liên tục. Số lượng 
những tàu buôn lớn giữa hai thị trường này 
hầu như không có sự gián đoạn từ năm 1546 
đến 1617. Trong những năm 1560 – 1600, số 
bạc mà người Bồ Đào Nha mang từ Nhật Bản 
khoảng 22.500-37.500 kg, trong khi đó những 
chuyến tàu của người Trung Quốc chỉ thu 
mua được khoảng 11.000kg. Trong suốt hơn 
30 năm sau đó, xuất khẩu bạc Nhật đã tăng 
lên đáng kinh ngạc: từ 150.000 lên 187.500 
kg bạc, mang lại lợi nhuận rất cao cho người 
Bồ Đào Nha. Tất cả số bạc đó được tập trung 
tại Macao trước khi vận chuyển về Goa để 
đến Lisbon [5; tr. 150]. Với hoạt động thương 
mại lụa đổi bạc, Macao và Nagasaki trở thành 
hai trung tâm trọng yếu nhất, đóng góp quan 
trọng nhất cho tổng số lợi nhuận của người 
Bồ Đào Nha ở phương Đông. Do đó, đây là 
tuyến thương mại quan trọng của Bồ Đào Nha 
ở thị trường Đông Á và cũng là tuyến thương 
mại mang lại lợi nhuận rất lớn cho người Bồ. 
Sang thế kỷ XVII, hoạt động thương mại giữa 
3
 Số lượng tàu 
Nhật Bản với Bồ Đào Nha đã có những dấu 
hiệu giảm sút bởi những bất đồng chưa được 
giải quyết. Để duy trì quan hệ thương mại Bồ 
- Nhật vốn bị gián đoạn một số năm, ngày 
10/11/1610, vua Bồ Đào Nha đã ra lệnh cho 
mỗi năm phải có một chuyến tàu từ Macao 
đến Nagasaki. Bất cứ thuyền trưởng nào tìm 
cớ thoái thác ở lại Trung Hoa đều bị bãi 
nhiệm. Đồng thời, họ cũng chọn ra những 
người dám chịu trách nhiệm, có tài thương 
thuyết, có tri thức, biết tuân thủ những quy 
ước, luật pháp của Nhật sang phụ trách 
thương điếm Nagasaki [8; tr. 127]. Chứng tỏ, 
chính quyền Bồ Đào Nha nhận thấy vai trò 
quan trọng của Nagasaki trong mạng lưới 
thương mại Đông Á và tìm mọi cách để duy 
trì mối quan hệ thương mại này. 
Mặt khác, vì những món lợi rất lớn thu được 
từ mậu dịch với Bồ Đào Nha, chính quyền 
Tokugawa cũng không muốn đoạn tuyệt hoàn 
toàn với quốc gia Tây Âu này. Năm 1611, 
trong một chỉ dụ gửi các lãnh chúa địa 
phương, Tướng quân Ieyasu đã khẳng định 
tàu buôn Bồ Đào Nha đến và thả neo ở bờ 
biển Nagasaki sẽ được đảm bảo an toàn như 
trước kia. Nếu những tàu này do điều kiện 
thời tiết mà dạt đến cảng khác thì các tàu đó 
sẽ không bị tịch thu và hàng hóa không bị thu 
hồi. Chỉ dụ này đảm bảo quyền lợi cho các 
tàu buôn của Bồ Đào Nha đến buôn bán ở 
Nhật Bản và Nagasaki vẫn luôn là điểm đến 
quan trọng của người Bồ. 
Phương thức xâm nhập của người Bồ Đào 
Nha ở phương Đông là thương mại và truyền 
giáo. Để bảo vệ lợi ích kinh tế thương mại, 
chính quyền Bồ Đào Nha chấp nhận tạm dừng 
hoạt động truyền giáo. Nhưng những cố gắng 
của hai bên đều không thể cải thiện được tình 
hình. Năm 1639, Nhật Bản thực hiện chính 
sách tỏa quốc, cấm tàu Bồ Đào Nha đến Nhật 
Bản buôn bán. Quan hệ thương mại Nhật - Bồ 
sau một thời kỳ phát triển đỉnh cao chấm dứt. 
Thương điếm Nagasaki phải đóng cửa hoạt 
động nhưng vẫn là thương cảng quan trọng 
của Nhật trong kinh tế ngoại thương ở giai 
đoạn sau. 
Dương Thị Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 71 - 77 
 Email: jst@tnu.edu.vn 77 
Tóm lại, thế kỷ XVI, quan hệ ngoại giao và 
thương mại khu vực Đông Á đã chứng kiến 
những sự thay đổi quan trọng khi người Bồ 
Đào Nha - thế lực hải thương đầu tiên từ 
phương Tây - thâm nhập vùng biển Đông Á. 
Sau khi thiết lập thành công điểm dừng chân 
vững chắc tại eo Malacca vào năm 1511, 
người Bồ Đào Nha đã dần mở rộng và khai 
thác các thị trường tiềm năng tại Trung Hoa 
và Nhật Bản trong những thế kỷ tiếp theo. 
Giữa thế kỷ XVI, chính thể Estado da India 
của Bồ Đào Nha ở phương Đông đã cơ bản 
thiết lập được mạng lưới thương mại Nội Á 
kết nối tiểu lục địa Ấn Độ với Nhật Bản, thu 
được lợi nhuận lớn từ các mối thương mại 
liên vùng [7; tr. 15]. Với hơn 40 thương điếm, 
một tuyến thương mại từ Sofala (châu Phi) 
đến Nagasaki, người Bồ Đào Nha đã thiết lập 
được một mạng lưới thương mại cho việc 
cung cấp và phân phối hàng hóa không chỉ 
giữa Đông và Tây mà còn giữa các nước châu 
Á với nhau [3; tr. 245]. 
Trong chiến lược lâu dài của Bồ Đào Nha, thị 
trường Đông Á nói chung và thị trường Nhật 
Bản nói riêng luôn là điểm hướng tới của các 
tàu buôn và các phái đoàn truyền giáo Bồ Đào 
Nha. Thương điếm Nagasaki ra đời cho thấy 
việc xác lập vị trí ở thiên đường phương 
Đông không còn là huyễn hoặc và hệ thống 
thương mại Nội Á giữa thế kỷ XVI đã được 
hiện thực hóa bởi người Bồ Đào Nha. Đây 
được coi là một thành công nổi trội nhất của 
người Bồ Đào Nha so với các đối thủ cạnh 
tranh. Người Anh, Hà Lan cũng có nhiều cố 
gắng và quyết tâm thiết lập thương điếm 
chiến lược ở Hirado. Nhưng thương điếm này 
ra đời muộn hơn so với thương điếm 
Nagasaki và những lợi nhuận thu được từ 
hoạt động thương mại kém xa so với lợi 
nhuận của người Bồ. Nhờ có người Bồ Đào 
Nha chiếm lĩnh, đầu tư xây dựng mà các 
thương cảng ở Đông Á trong đó có thương 
điếm Nagasaki đã trở thành những trung tâm 
kinh tế mới không chỉ của nước Nhật mà còn 
của khu vực thế kỷ XVI - XVII. Do đó, một 
Đông Á truyền thống trọng nông trước đây đã 
trở thành một trong những thị trường hấp dẫn 
và lợi nhuận bậc nhất trên thế giới. Mạng lưới 
buôn bán liên vùng của khu vực trở thành đặc 
trưng cơ bản của kinh tế thương mại khu vực 
Đông Á. Thương điếm Nagasaki của Bồ Đào 
Nha chính là những mắt xích quan trọng trong 
mạng lưới thương mại liên vùng, liên khu vực 
và liên thế giới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Nguyễn Văn Kim, Chính sách đóng cửa Nhật 
Bản thời kỳ Tokugawa - Nguyên nhân và hệ 
quả, Nxb Thế giới, 2000. 
[2]. Boxer, C.R., Fildagos in the Far East, 1500 - 
1770, The Hague Martinus, Nijhoff, 1948. 
[3]. Wood, Russel. A. R. J, The Portuguese 
Empire, 1415-1808, A World on the Move, 
Bantimore and London, 1991. 
[4]. Boxer, C.R, Portuguese merchants and 
missionaries in Feudal Japan, 1543 – 1640, 
Gover Publishing Group, Great Britain, 1990. 
[5]. Sanjay Subrahmanyam, The Portuguese 
empire in Asia: apolitical and economic 
history, 1500 - 1700, 1993. 
[6]. Chang, T’ien Tse, Sino- Portugues Trade from 
1514 - 1644, Brill, Leiden, 1933. 
[7]. Souza, G.B, The Survival of Empire: 
Portuguese trade and Society in China and 
the South China Sea 1630 - 1754, Cambridge 
University Press, 1986. 
[8]. Cooper, Michael, The Mechanics of Macao- 
Nagasaki silk trade, Monumenta Niponica, 
Vol.27, No.4, 1972. 
[9]. James C. Boyajian, Portuguese trade in Asia 
under the Habsurgs, 1580 - 1640, the John 
Hopkins University, 1993. 
  Email: jst@tnu.edu.vn 78 

File đính kèm:

  • pdfthuong_diem_nagasaki_trong_chien_luoc_dong_a_cua_bo_dao_nha.pdf