Thuyết Việt Nam (Giai đoạn 1986-2010) viết về lịch sử và chiến tranh - Một cái nhìn khái quát

TÓM TẮT

Bài viết tập trung làm rõ các đặc điểm riêng, nổi bật của hai nhóm tiểu

thuyết Việt Nam (giai đoạn 1986-2010) viết về chiến tranh và viết về lịch sử.

Cùng lấy cảm hứng từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,

song tiểu thuyết sử thi và phi sử thi (thuộc nhóm viết về chiến tranh) lại có rất

nhiều khác biệt ở tư duy nghệ thuật. Tương tự, cũng viết về lịch sử trung đại Việt

Nam song tiểu thuyết thuật sử và giải lịch sử (thuộc nhóm viết về lịch sử) không

hề tương đồng về thi pháp. Tất cả đều góp phần quan trọng đa dạng hóa thể tài

nói riêng, thúc đẩy quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam nói

chung

pdf 14 trang yennguyen 5280
Bạn đang xem tài liệu "Thuyết Việt Nam (Giai đoạn 1986-2010) viết về lịch sử và chiến tranh - Một cái nhìn khái quát", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thuyết Việt Nam (Giai đoạn 1986-2010) viết về lịch sử và chiến tranh - Một cái nhìn khái quát

Thuyết Việt Nam (Giai đoạn 1986-2010) viết về lịch sử và chiến tranh - Một cái nhìn khái quát
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 117 
THUYẾT VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN 1986-2010) VIẾT VỀ LỊCH SỬ 
VÀ CHIẾN TRANH - MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT 
ThS. Dương Minh Hiếu1 
TÓM TẮT 
Bài viết tập trung làm rõ các đặc điểm riêng, nổi bật của hai nhóm tiểu 
thuyết Việt Nam (giai đoạn 1986-2010) viết về chiến tranh và viết về lịch sử. 
Cùng lấy cảm hứng từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, 
song tiểu thuyết sử thi và phi sử thi (thuộc nhóm viết về chiến tranh) lại có rất 
nhiều khác biệt ở tư duy nghệ thuật. Tương tự, cũng viết về lịch sử trung đại Việt 
Nam song tiểu thuyết thuật sử và giải lịch sử (thuộc nhóm viết về lịch sử) không 
hề tương đồng về thi pháp. Tất cả đều góp phần quan trọng đa dạng hóa thể tài 
nói riêng, thúc đẩy quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam nói 
chung. 
Từ khóa: sử thi, phi sử thi, thuật sử, giải lịch sử. 
1.Đặt vấn đề 
Có nhiều cách nhận diện tiểu 
thuyết Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến 
2010. Một số nhà nghiên cứu như Phan 
Cự Đệ [1], Nguyễn Thị Bình [2], 
Nguyễn Văn Long [3] đã phân chia tiểu 
thuyết thời gian này theo những đề tài 
hoặc phong cách, khuynh hướng khác 
nhau. Trong bài viết này, căn cứ trên 
phương diện đề tài, chúng tôi sẽ tiến 
hành khảo sát hai nhóm: tiểu thuyết viết 
về chiến tranh và tiểu thuyết viết về lịch 
sử. Ở các bài tiếp theo, chúng tôi sẽ 
trình bày các nghiên cứu về hai nhóm 
còn lại; tiểu thuyết viết về thế sự và tiểu 
thuyết viết về nông thôn. Mục đích của 
chúng tôi là nhằm cố gắng xác định và 
phân loại các nhóm đề tài lớn, chính 
yếu, đồng thời chỉ ra những đặc điểm, 
khuynh hướng, phong cách trong từng 
nhóm và khái quát về sự vận động, phát 
triển chung của tiểu thuyết Việt Nam kể 
từ Đổi mới đến thời điểm 2010. 
2. Tiểu thuyết viết về chiến 
tranh 
Từ 1975 đến 1986, nhiều nhà văn 
mà đa phần vốn mặc áo lính vẫn tiếp 
tục cầm bút cùng nguồn cảm hứng từ 
cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. 
Như Ngô Vĩnh Bình từng nhận xét: 
“mảng văn học về đề tài chiến tranh, 
đội ngũ những người viết văn trong 
quân đội giữ một vị trí rất quan trọng 
cả về số lượng và chất lượng” [4, 
tr.96]. Các tác phẩm tiêu biểu là: Mở 
rừng (1976) của Lê Lựu, Miền cháy 
(1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) 
của Nguyễn Minh Châu, Nắng đồng 
bằng (1977) của Chu Lai, Năm 1975 
họ đã sống như thế (1978) của 
Nguyễn Trí Huân, Thung lũng thử 
thách (1978), Họ cùng thời với ai 
(1980) của Thái Bá Lợi, Trong cơn 
gió lốc (1979) của Khuất Quang Thụy, 
Đất trắng (tập 1-1979, tập 2-1984) 
của Nguyễn Trọng Oánh, Cửa gió 
(1981) của Xuân Đức, Biển gọi (1982) 
1Trường Đại học Đồng Nai 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 118 
của Hồ Phương, Thời gian của người 
(1983) của Nguyễn Khải, Những 
người báo bão (1983) của Vân Thảo, 
Đất miền Đông (1984) của Nam Hà, 
Sao đổi ngôi (1985) của Chu Văn, 
Người lính mặc thường phục (1986) 
của Mai Ngữ, 
Từ Đổi mới (1986), đề tài chiến 
tranh được khai thác ở những góc nhìn 
đa dạng hơn, giàu chất tiểu thuyết 
hơn. Bên cạnh các sáng tác còn đậm 
phong cách sử thi, một số tác phẩm 
của Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang 
Thụy, Lê Lựu, Chu Lai, Bảo Ninh, 
đã thể hiện sự chuyển mình, sự đột 
phá quan trọng về tư duy nghệ thuật 
của người cầm bút. Niềm say mê hình 
tượng những con người chiến thắng 
được thay thế bằng cái nhìn của ký ức, 
hoài nghi, đa chiều rất rõ. Nhà văn kể 
về quá khứ “một thời đạn bom” chủ 
yếu bằng điểm nhìn bên trong, bằng 
bao tâm tư, tình cảm rất riêng. “Chất 
tiểu thuyết” - nói theo các nhà lý luận 
- nhờ đó, đậm đặc hơn. 
Như đã trình bày, lấy tiêu chí cảm 
hứng chủ đạo và phong cách chính 
trong các tiểu thuyết nổi bật viết về 
chiến tranh, chúng tôi tạm chia tiểu 
thuyết viết về chiến tranh làm hai 
dạng: tiểu thuyết sử thi và tiểu thuyết 
phi sử thi. 
2.1.Tiểu thuyết sử thi 
Tiểu thuyết sử thi, theo Từ điển 
thuật ngữ văn học, là: “Tên gọi ước lệ 
(ghép tên gọi thể loại “sử thi” - époée 
với tên gọi thể loại tiểu thuyết” - 
roman) để chỉ những sáng tác tiểu 
thuyết (từ thế kỉ XIX - XX) có dung 
lượng lớn, thể hiện những đề tài lịch 
sử - dân tộc. Những tác phẩm này vừa 
là tiểu thuyết, đồng thời có nhiều 
thuộc tính gần gũi với thể loại sử thi 
cổ đại hoặc trung đại (tầm bao quát, 
tính hoành tráng của những sự kiện có 
tầm thời đại, cảm hứng dân tộc hoặc 
lịch sử, mô tả các sự kiện hoặc xung 
đột có tính chất bước ngoặt như chiến 
tranh cách mạng,” [5, tr.230]. 
Theo chúng tôi, tiểu thuyết sử thi 
là những tác phẩm viết về chiến tranh 
với nội dung đi sâu vào các vấn đề lớn 
lao của dân tộc trong cuộc chiến 
chống giặc ngoại xâm, như: độc lập 
dân tộc, sự tự do và quyền làm chủ đất 
nước, vấn đề trách nhiệm công dân và 
lý tưởng thời đại,... Sứ mệnh, mục tiêu 
vì “một nền văn học tiên phong chống 
đế quốc” được đặt lên hàng đầu, có ý 
nghĩa quyết định đến ý thức của chủ 
thể sáng tạo. Hình tượng nhân vật 
trung tâm là người lính hiện thân cho 
ý chí, niềm tin, tinh thần dũng cảm, 
ngoan cường, mưu trí, lòng yêu nước 
của con người Việt Nam. Lời văn hào 
hùng, cảm hứng ngợi ca, nghệ thuật 
trần thuật bao quát, chú trọng hành 
động và lý trí “lý tưởng” nhiều hơn 
tình cảm riêng tư. 
Nếu từ 1954 đến 1975, ở miền 
Bắc xã hội chủ nghĩa đã có đến 173 
tập tiểu thuyết viết về đề tài chiến 
tranh đã được xuất bản (theo Đặng 
Quốc Nhật) thì từ 1986 đến 2004, tiểu 
thuyết sử thi Việt Nam giảm hẳn về số 
lượng và không gây được nhiều tiếng 
vang. Ông cố vấn - Hồ sơ một điệp 
viên (1987) của Hữu Mai, Tư Thiên 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 119 
(1994) của Xuân Thiều, Một ngày và 
một đời (1997) của Lê Văn Thảo, 
Trong vùng Tam giác sắt (1995) của 
Nam Hà, Người cùng quê (ba tập đã 
lần lượt được xuất bản vào các năm 
1985, 1995 và 1997) của Phan Tứ là 
những tác phẩm đáng chú ý nhất. 
Ông cố vấn - Hồ sơ một điệp 
viên, kể về cuộc đời hoạt động cách 
mạng với nhiệm vụ làm tình báo trong 
lòng địch của Vũ Ngọc Nhạ (từ tháng 
12/1959 đến ngày Miền Nam hoàn 
toàn giải phóng). Từng làm cố vấn 
cho cả Ngô Đình Nhu và Nguyễn Văn 
Thiệu, Hai Long (Vũ Ngọc Nhạ) đã có 
nhiều đóng góp quan trọng cho sự 
nghiệp đấu tranh cách mạng thống 
nhất đất nước. Tiểu thuyết Tư Thiên 
miêu tả trận chiến ác liệt 23 ngày đêm 
của trung đoàn 7 tại thành phố Huế 
trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Các 
anh đã chiến đấu dũng cảm, ngoan 
cường, gây tổn thất lớn cho địch và 
hoàn thành mục tiêu, kế hoạch đã đề 
ra. Một ngày và một đời thì thông qua 
nhiều người kể chuyện ở ngôi thứ ba, 
tác giả thuật lại cuộc đời, con đường 
đến với các mạng và cuộc chiến đấu 
ngoan cường của một nữ biệt động Sài 
Gòn hi sinh trong trận đánh Mậu Thân 
năm 1968,... 
Còn về các tác phẩm đậm chất sử 
thi của mình thì chính nhà văn Nam 
Hà đã chia sẻ: “Tiểu thuyết sử thi 
khác với tiểu thuyết thông thường là 
những sự kiện lịch sử, sự kiện chiến 
tranh và những con người chủ yếu 
tham gia trực tiếp vào cuộc chiến 
tranh có một vị trí quan trọng và chủ 
yếu, tác giả phải tôn trọng nguyên tắc 
này, nhân vật được hư cấu theo 
nguyên mẫu, có khi là người thực. 
Người viết hoàn toàn có thể khám phá 
những bí ẩn giấu sau những sự kiện 
lịch sử, sự kiện chiến tranh với sự 
trung thực và khách quan. Mối quan 
hệ giữa sự kiện lịch sử, sự kiện chiến 
tranh với nhân vật là mối quan hệ hữu 
cơ, tác động và chi phối lẫn nhau, 
trong đó nhân vật giữ vai trò quyết 
định. Liên bộ tiểu thuyết sử thi của tôi 
về mười năm chiến tranh (1965 - 
1975) được viết theo tinh thần ấy” [6]. 
Nhìn chung, có thể mượn lời Trần 
Việt Dũng để đánh giá về những tác 
phẩm nói trên cũng như hầu hết những 
tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh 
được xuất bản giai đoạn 1975 - 1986: 
“Các tác phẩm viết về chiến trường 
thực ra chỉ phô bày sự hiểu biết về 
chiến trường, kể chuyện chiến trường 
hơn là thể hiện một thái độ rất tôi của 
tác giả. Không có cá tính, đúng hơn là 
chối bỏ cá tính, chối bỏ quan niệm 
riêng của mình trước hiện thực là một 
trong những nguyên nhân tạo nên tình 
trạng yếu kém của các tác phẩm văn 
học của ta” [7, tr.129]. 
Trước sự thưa vắng của tiểu 
thuyết sử thi, Bộ Quốc phòng mà trực 
tiếp là Tổng cục Chính trị đã tổ chức 
cuộc vận động nhắm khuyến khích 
các sáng tác tiểu thuyết sử thi về đề tài 
chiến tranh cách mạng và người lính 
nhân dịp 60 năm thành lập Quân đội 
Nhân dân Việt Nam. Cuộc vận động 
khá thành công, đã thu hút gần 100 
nhà văn từ khắp mọi miền đất nước 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 120 
tham gia. Đến năm 2010 đã có 70 tác 
phẩm (gồm nhiều thể loại) được 
nghiệm thu, cho xuất bản. Về tiểu 
thuyết có các tác phẩm tiêu biểu: 
Những bức tường lửa (Khuất Quang 
Thuỵ), Đất không đổi màu (Nguyễn 
Quốc Trung), Thượng Đức (Nguyễn 
Bảo Trường Giang), Tiếng khóc của 
Nàng Út (Nguyễn Chí Trung), Sóng 
chìm (Đình Kính), Xuân Lộc (Hoàng 
Đình Quang), Mùa hè giá buốt (Văn 
Lê), Phòng tuyến Sông Bồ (Đỗ Kim 
Cuông), Ngày rất dài (Nam Hà), Màu 
rừng ruộng (Đỗ Tiến Thụy), Biến 
xanh màu lá (Nguyễn Xuân 
Thủy), Cõi đời hư thực (Bùi Thanh 
Minh), Bên dòng Sầu Diện (Nguyễn 
Đình Tú), Không phải huyền thoại 
(Hữu Mai), Những cánh rừng lá 
đỏ (Hồ Phương), Kinh thành rực lửa 
(Nguyễn Quang Hà), Sóng Hàm 
Luông (Thanh Giang), Dòng sông bụi 
đỏ (Nguyễn Đình Chính), Khúc bi 
tráng cuối cùng (Chu Lai), Đường 
thời đại (Đặng Đình Loan), 
Ở những tác phẩm vừa nêu, các 
nhà văn đã cố gắng thể nghiệm, tìm 
tòi một số phương thức biểu đạt nghệ 
thuật mới hơn trong việc khai thác đề 
tài chiến tranh nhưng về phong cách 
và dòng mạch chính vẫn còn theo 
hướng sử thi. Nhân vật trung tâm 
thường là những người anh hùng với 
bao phẩm chất cao đẹp như anh dũng, 
kiên trung, sẵn sàng hi sinh vì sự 
nghiệp cách mạng,... Ý chí, nhân cách, 
lý tưởng của họ đều là những tấm 
gương và là niềm tự hào của con 
người Việt Nam. Vận mệnh dân tộc, 
trách nhiệm công dân được người cầm 
bút tô đậm. Giọng văn cơ bản vẫn rất 
hào hùng, khí thế; yếu tố sự kiện được 
chú ý hơn diễn biến tâm lý, đời sống 
nội tâm. Những khoảng khắc riêng tư 
như dằn vặt, day dứt, khát khao, dao 
động, tuy đã được ít nhiều khai thác 
song đáng tiếc còn rất mờ nhạt. Cả 
nhân vật lẫn nhà văn đều hướng đến 
một mục đích chung nên cái riêng lẻ, 
cái cá thể trong tính cách - hành vi 
nhân vật và trong cả ý thức sáng tạo 
của người nghệ sĩ vẫn hầu như bị triệt 
tiêu. 
Chẳng hạn, nhân vật Trần Củng 
trong Cõi đời hư thực của Bùi Thanh 
Minh luôn vững vàng: “Lịch sử và tổ 
tiên giao cho thế hệ anh phải hi sinh, 
phải chịu thiệt thòi để cho mầm xanh 
dân tộc hồi sinh. Anh không có gì phải 
ân hận hay so đo tính toán”. Khi trải 
nghiệm những tàn khốc, ác liệt, mất 
mát, đau thương, Trần Củng cũng chỉ 
kết luận: “Chiến tranh là một sự ép 
buộc, nhưng người ta phải tung chăn, 
xông ra giữa đêm đông để đánh bọm 
trộm cướp”. Rõ ràng, nhân vật đã nhìn 
cuộc chiến bằng đôi mắt của trách 
nhiệm lịch sử, của tinh thần thời đại 
và của ý thức dân tộc. Cái cá tính, cái 
tôi riêng như đã hoàn toàn bị chìm 
khuất. 
Không thể phủ nhận tâm huyết 
của nhà văn nơi các tác phẩm “sử thi 
hiện đại” này. Giá trị giáo dục, tiếng 
nói trân trọng và bồi đắp tình yêu quê 
hương đất nước, niềm tự hào về 
truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ 
vang của dân tộc, ở đó là rất đáng 
quý. Dù vậy, cũng cần thừa nhận sự 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 121 
đánh giá hết sức khách quan của Phạm 
Tiến Duật như sau: “Cuộc chiến tranh 
giờ đây đang được nhìn ở ba góc: 
trong cuộc, chứng kiến và hình dung. 
Tất nhiên, bằng cả ba góc phản ánh 
đó, chúng ta đều hiểu quyển sách hay 
nhất, đúng với tầm cỡ cuộc chiến 
tranh nhất vẫn chưa ra đời” [8, tr.12-
13]. 
2.2.Tiểu thuyết phi sử thi 
Khác với tiểu thuyết sử thi, tiểu 
thuyết phi sử thi tuy cũng lấy đề tài và 
dựa trên cảm hứng từ cuộc chiến tranh 
giải phóng, thống nhất đất nước nhưng 
không tập trung đi sâu ca ngợi và bảo 
vệ các giá trị “đại tự sự”. Vấn đề đời 
tư, số phận cá nhân, hình tượng con 
người “trải nghiệm” trở thành nội 
dung chính; tính “dân chủ” và “tổng 
hợp” đặc trưng của tiểu thuyết được 
đặc biệt chú trọng. Cụ thể hơn, số 
phận con người cá nhân được khai 
thác ở nhiều góc độ và trở thành cảm 
hứng chủ đạo, chiến tranh chỉ được 
miêu tả như một tác nhân gây ra bao 
hệ lụy, mất mát, hi sinh, Tiểu thuyết 
phi sử thi không chỉ góp phần đem lại 
đa dạng những góc nhìn về chiến 
tranh mà còn thể hiện những đổi mới 
quan trọng về nghệ thuật, góp phần 
thúc đẩy sự phát triển chung của văn 
học Việt Nam. Đó là sự đổi mới theo 
hướng hiện đại hóa về hình thức, 
hướng đến “cái hiện đại” về nội dung 
- một “cái hiện đại” đúng như O.Paz 
từng chỉ ra là: “Cái hiện đại phá vỡ 
quá khứ tức thời chỉ là để giữ lại cái 
quá khứ ngàn năm” [9]. 
Có thể xem các tiểu thuyết Học 
phí trả bằng máu (1985) của Nguyễn 
Khắc Phục, Chim én bay (1987) của 
Nguyễn Trí Huân và Nước mắt đỏ 
(1988) của Trần Huy Quang là những 
tác phẩm đóng vai trò dấu mốc mở 
đầu cho tiểu thuyết phi sử thi. Trong 
các trang viết của Nguyễn Khắc Phục, 
không khó để tìm thấy những lời kể 
đầy trăn trở, đau đớn đến mụ mị như: 
“Bao nhiêu nấm mộ vô danh mọc lên. 
Bao nhiêu người chết bờ, chết bụi, 
chết đau đớn quằn quại trong những 
trại giam trá hình. Bao nhiêu người 
lên xanh. Bao nhiêu người vượt tuyến 
ra Bắc. Không biết, rối bời, mờ mịt 
như những lớp sương mù đục trắng, 
giăng giăng dưới chân núi Bồ”. Nhân 
vật trung tâm trong Chim én bay và 
Nước mắt đỏ là những người phụ nữ 
đã đi qua chiến tranh như bao anh 
hùng, song tính chất hùng anh ấy mờ 
nhạt hẳn đi nếu so với cuộc sống cứ 
hoài rỉ máu và bi kịch cô đơn sau bao 
tháng ngày bom đạn. Các nhà văn đã 
không ngần ngại đi sâu khai thác, 
miêu tả những vấn đề về nhân tính, 
nhân tình, sự mất mát, hi sinh và nhất 
là về cảm thức của con người cá nhân 
(chúng tôi nhấn mạnh) từng tham gia 
chiến trận. Con người tư duy, trăn trở 
dần thay thế cho kiểu con người hành 
động, con người của lý trí. Ví dụ như 
nhân vật Quy (Chim én bay) đã từng 
quan niệm: “Sao lại hối hận, anh! Nếu 
phải làm lại em cũng sẽ không làm 
khác vì cách mạng khi đó đòi hỏi em 
phải làm như vậy”. Có lúc khẳng khái 
thế, song nhiều hơn thì Quy đã phải 
sống với bao dằn vặt, trăn trở, thổn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 122 
thức không yên. Cái chết của Dũng, 
mùi máu tanh lợm xộc lên sau một 
trận diệt ác, đôi mắt trẻ thơ của một 
đứa bé, cứ ám ảnh, cứ cứa vào 
những nỗi đau của chị, gây ra vô vàn 
những nhức buốt ghê gớm hơn mọi 
vết thương trên thịt da. Nhân vật này 
sống giữa chập chờn hiện tại và quá 
khứ: hiện tại khơi gợi quá khứ nhưng 
không hoàn toàn nhường bước cho 
quá khứ; quá khứ chỉ bật dậy ở từng 
dấu ấn kỷ niệm đậm nét và day dứt 
nhất. Rõ ràng, những trăn trở, suy 
nghiệm về vị trí, vai trò, trách nhiệm 
của con người với tư cách cá nhân đã 
được chú ý đề cập và khai thác nhiều 
hơn. 
Ở một số tác phẩm khác, mỗi 
nghệ sĩ có thể ch ...  Trần, 
ông không gây tai họa cho muôn dân. 
Khi nhà Trần có sự nghiệp, ông đã ổn 
định thời cuộc, thu giang sơn vào một 
mối, làm cho dân giàu nước mạnh, tạo 
cơ sở vững chắc về kinh tế và quân sự 
cho công cuộc chống ngoại xâm lâu 
dài sau này. Có thể thấy thái độ công 
bằng, không thiên kiến, luận rõ công, 
bàn rõ tội của Hoàng Quốc Hải về một 
con người mà chính sử đã vừa ngợi 
ca, suy tôn, vừa phê phán, đôi khi lên 
án. 
Hay như ở các sáng tác của Ngô 
Văn Phú thì Gươm thần Vạn Kiếp tập 
trung kể về cuộc kháng chiến chống 
quân Nguyên - Mông của vua tôi nhà 
Trần; Ấn kiếm trời ban nói đến khởi 
nghĩa Lam Sơn lẫy lừng của Lê Lợi; 
Cờ lau dựng nước thuật truyện Ngô 
Quyền băng hà, đất nước phải chịu 
họa binh đao, Đinh Bộ Lĩnh phất cờ 
dẹp loạn 12 sứ quân; Lý Công Uẩn ca 
ngợi vị vua anh minh, tài ba đã dời đô 
từ Hoa Lư về Thăng Long để làm nên 
“đế đô muôn đời”... Tựu chung là thay 
cho những trang sử có phần quá cô 
đọng, khô khan, trong những tác phẩm 
kể trên, nhà văn đã thêm thắt, bồi đắp 
những chi tiết, những đối thoại, những 
miêu tả tuy nhiều và khá sinh động 
song thực chất chỉ đóng vai trò là 
“đường riềm” cho những bức chân 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 126 
dung lịch sử đã được mặc định (chúng 
tôi nhấn mạnh). 
Tóm lại, ở tiểu thuyết thuật sử, 
những câu chuyện, sự kiện và hình 
tượng danh nhân, người anh hùng dân 
tộc “vang bóng một thời” được nhà 
văn xem như những “tượng đài”, đền 
thiêng” (Chữ dùng của Nguyễn Thị 
Bình) bất khả xâm phạm. Nhà văn, 
bằng khả năng tưởng tượng của mình, 
chỉ cố gắng làm cho các nhân vật và 
sự kiện lịch sử đã hoàn kết trở nên 
sống động và giàu tính thuyết phục 
hơn. Các tác phẩm như là những diễn 
ngôn với mục đích tô đậm bài học lịch 
sử, tôn vinh danh nhân của đất nước; 
chú trọng đề cao, giáo dục lòng yêu tổ 
quốc, niềm tự hào con Lạc, cháu Hồng 
và nhắc nhớ cho các thế hệ sau về 
truyền thống vẻ vang của cha ông ta. 
3.2. Tiểu thuyết giải lịch sử 
Là những bộ tiểu thuyết xem lịch 
sử chỉ như “cái cớ” hay phần nền hoặc 
đối tượng khách quan để từ đó nhà 
văn bày tỏ thái độ, quan điểm của 
mình. Những đánh giá, cảm nhận chủ 
quan đó của người cầm bút đã trở 
thành nội dung - mạch cảm hứng đóng 
vai trò chính yếu trong toàn bộ tác 
phẩm. Nói cách khác, các hình tượng 
và sự kiện lịch sử được ghi nhận, đánh 
giá từ nhiều góc nhìn hay thậm chí bị 
thay đổi, làm đảo lộn, để thông qua 
đó đi sâu khai thác, tập trung vào 
những vấn đề mang đậm tính chất cá 
nhân, giàu tính nhân văn như khát 
vọng tự do, khát vọng tình yêu, giá trị 
cuộc sống, Mục đích chính của 
người nghệ sĩ không chỉ là ngợi ca 
hay khơi gợi niềm tự hào dân tộc mà 
là những đối thoại hướng đến các vấn 
đề, những ước vọng của con người cá 
nhân thì hiện tại; hình tượng trung tâm 
không chỉ cao cả, trí dũng, hùng 
cường mà còn được miêu tả ở nhiều 
những nét, những vẻ đẹp hết sức đời 
thường. Ở loại này, tư liệu lịch sử đã 
được chuyển hóa thành tư liệu tiểu 
thuyết, nhân vật lịch sử trở thành nhân 
vật tiểu thuyết, thành sản phẩm nghệ 
thuật hư cấu của người nghệ sĩ. Nhân 
vật chỉ còn cái tên là của lịch sử; “cái 
tên” ấy đã được đặt vào một không - 
thời gian mới mẻ, sống động và hết 
sức gần gũi với đời sống thực; “cái 
tên” ấy - thông qua những hành vi, 
ngôn ngữ, dòng ý thức của mình đã 
thể hiện những vấn đề triết lý về nhân 
sinh, thời cuộc một cách sâu xa với 
giọng điệu đặc trưng của tiểu thuyết. 
Nổi bật trong tiểu thuyết giải lịch 
sử có: Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân 
Khánh, Hội thề của Nguyễn Quang 
Thân, Sông Côn mùa lũ của Nguyễn 
Mộng Giác, Giàn thiêu của Võ Thị 
Hảo,... 
Trong Hồ Quý Ly (2000), Nguyễn 
Xuân Khánh đem đến cho người đọc 
một hình tượng hào kiệt luôn cháy 
bỏng ước vọng tự do, một đời ôm ấp 
giấc mộng canh tân Đại Việt. Hồ Quý 
Ly từng cảm khái: “Đất nước ta quá ư 
hỗn loạn, cần có một sự thay đổi, cần 
có một sự đảo lộn”. Con người ấy tuy 
ngất trời cái chí mộng dời non lấp bể 
song vẫn chứa chan tình yêu với gia 
đình mà cụ thể là với hiền thê và ái 
nữ. Chi tiết ông ngồi hàng giờ để “hàn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 127 
huyên” hoặc nhìn vào khuôn mặt 
tượng đá trắng của người vợ đã quá cố 
thực cảm động, cho thấy một trái tim 
thủy chung, son sắc, Việc Hồ Quý 
Ly soán ngôi cũng được tác giả đặt 
dưới nhiều cách nhìn khen - chê, lên 
án - ngợi ca khác nhau rồi trao quyền, 
trao “thượng phương bảo kiếm” cho 
người đọc tự định đoạt chứ không áp 
đặt chính kiến riêng của mình. Tính 
chất “luận đề” (chữ dùng theo Nguyễn 
Xuân Khánh) bị tước bỏ nghĩa gốc 
hay đúng hơn là chỉ luận đề về thời 
thế, luận đề giải thế sự trong đó cho 
phép mỗi người đọc một người đọc 
đều có quyền luận bàn như ở Hội nghị 
Diên Hồng hay Hội nghị Bình Than! 
Ngôn ngữ giàu tính đối thoại với 
người đọc, nghệ thuật miêu tả nội tâm 
nhân vật được chú trọng, yếu tố huyền 
thoại không còn huyễn hoặc siêu việt 
mà mang tính chất đời thường khá rõ 
nét. 
Nguyễn Quang Thân trong Hội 
thề (2009) lại tập trung vào những 
hiềm khích rồi xung đột giữa một bên 
là quyền lực giới võ biền (quan võ) 
với tài năng, nhân cách, trí tuệ hơn 
người của nhà văn hóa lớn Nguyễn 
Trãi. Song song việc ca ngợi cái tâm, 
cái tài của đại danh nhân Ức Trai, tác 
giả không ngần ngại chỉ rõ sự xấu xa 
của giới võ biền, vừa hữu dũng mà 
cũng hiểm mưu; song song những câu 
chuyện về một nhân vật vĩ đại của lịch 
sử là khá nhiều những chi tiết - sự 
kiện rất đỗi bình dị của một con người 
cũng thịt cũng da; xen giữa giọng điệu 
ngợi ca là những tiếng thở dài não 
ruột; lồng ghép với cảm xúc tự hào là 
cái gì chua xót về nhân tình - thế thái 
cổ kim. Có nhiều đoạn, diện mạo bên 
ngoài của nhân vật bị chìm hẳn đi sau 
những dòng ý thức bộn bề và sâu sắc. 
Tác phẩm có một kiểu lặp đi lặp lại 
chủ đề khá độc đáo, hiếm thấy trong 
tiểu thuyết lịch sử. Thời gian nghệ 
thuật không theo tuyến tính mà đa 
chiều, đảo lộn như thể đó là thời gian 
của tâm tưởng, biểu trưng cho một 
thời đại còn nhiều nhiễu nhương và 
lòng người còn lắm gian - chuyên. 
Ở Sông Côn mùa lũ (Tác phẩm 
được xuất bản tại Hoa Kỳ từ những 
năm 1990, 1991 và ở Việt Nam đến 
nay đã được tái bản nhiều lần), 
Nguyễn Mộng Giác đã “vô tình” 
khiến hình tượng Nguyễn Huệ - dù oai 
lẫm, anh hùng - song lại chìm hẳn đi 
dưới số phận nổi nênh của An - người 
con gái lọt vào mắt xanh vị anh hùng 
áo vải từ thuở niên thiếu. Tác phẩm 
thu hút, quyến rũ người đọc không 
phải bởi đoàn binh thần tốc và bách 
thắng của Tây Sơn mà bằng mối tình 
tay ba đầy éo le giữa Nguyễn Huệ, 
Ngọc Hân và An. Việc cưới con gái 
vua Lê chỉ như là bổn phận quốc gia 
hoặc sự lựa chọn chính trị, còn những 
day dứt về mối tình đầu đẹp đẽ với An 
lại là niềm đau không gì bù đắp được 
khi con người cứ phải sống cho cái 
“Ta”, cho những phận sự và địa vị chứ 
không thể sống vì mình, cho mình. Sự 
trớ trêu duyên phận và nỗi đau thổn 
thức dai dẳng của Nguyễn Huệ cũng 
là những bi kịch có tính muôn thuở 
lúc lý trí không hòa hợp với tiếng nói 
con tim. Tác phẩm đã khiến Nguyễn 
Huệ như bị “hạ bệ” chỉ còn một nửa 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 128 
trí dũng, nữa kia là những giới hạn rất 
thường tình; đã kiến ngai vàng và 
chiến công hiển hách của người anh 
hùng rơi ra khỏi mạch cảm hứng mà 
thay vào đó là tình cảm xót thương và 
cơ man trăn trở về tình yêu, về thân 
phận, về kiếp người vốn quá nhỏ bé, 
bọt bèo, tội nghiệp. 
So với những tác phẩm vừa dẫn, 
có lẽ Giàn thiêu (2005) của Võ Thị 
Hảo là “giải lịch sử” quyết liệt, triệt để 
hơn cả. Lịch sử thậm chí không còn cả 
cái vị thế là chiếc áo khoác, là vỏ bọc 
cho tiểu thuyết. Như Hoàng Lại Giang 
đã nhận xét: “Các nhân vật lịch sử 
không phải là chính họ mà chỉ là hóa 
thân cho những điều tác giả muốn 
nói” [12, tr.19]. Từ Lộ và kiếp sau của 
ông là Thần Tông hầu như chỉ sống 
giữa ngục tù của tăm tối hận thù, của 
lòng tham quyền lực, của u mê sắc 
dục và của cả một thứ định mệnh cơ 
hồ là nghiệp chướng. Khi chối bỏ tình 
yêu đích thực, cả Từ Lộ và Thần Tông 
đều không có hạnh phúc, đều sống với 
sự vô vị và đằng đẵng buồn đau. 
Quyền lực và danh vọng, việc chiến 
thắng của những mưu đồ hay dù thù 
có được trả thì con người vẫn chẳng vì 
thế mà hạnh phúc, viên mãn. Chỉ có 
tình yêu chân thành, đích thực mới 
sưởi ấm lòng người, tưới mát cây khô, 
làm cho cuộc đời đơm hoa kết trái. 
Ruồng rẫy tình yêu, chạy theo những 
dục vọng và hận thù, con người tất 
phải cái chịu kết cục khổ đau. Võ Thị 
Hảo đã “kết nối” với W. Shakespeare 
và Nguyễn Du từ quá khứ và với 
chúng ta ở thời hiện tại bằng một 
thông điệp rất nhiều ý nghĩa về tình 
yêu, lòng thù hận; về “Chữ tâm kia 
mới bằng ba chữ tài”. 
Ngoài các tác phẩm mà theo 
chúng tôi là khá tiêu biểu nêu trên, 
tiểu thuyết giải lịch sử Việt Nam cũng 
cần ghi nhận những đóng góp đáng kể 
của Hoàng Lại Giang với Trương 
Vĩnh Ký, bi kịch muôn đời (2001), 
Trần Thu Hằng với Đàn đáy (2005), 
Lưu Văn Khê với Mạc Đăng Dung 
(2007), Kiều Thanh Tùng với Sắc đẹp 
khuynh thành (2008), Tất cả đã có 
những đóng góp quan trọng tạo sự đa 
dạng và hấp dẫn cho tiểu thuyết viết 
về lịch sử trung đại Việt Nam. 
Peter Gay từng khẳng định: 
“Hành động trần thuật về lịch sử mà 
không có sự phân tích thì chỉ là một 
điều hết sức tầm thường, sự phân tích 
lịch sử mà không kèm theo hành động 
trần thuật thì không hoàn thiện” (Dẫn 
theo [13, tr.126]). Thật vậy, khi đã 
trần thuật về lịch sử thì rất cần có 
những phân tích, đánh giá. Vấn đề chỉ 
là “sự phân tích” kia là khách quan, 
mang đặc điểm sử thi hay thể hiện cá 
tính, tư tưởng chủ quan rõ rệt của 
người kể chuyện. Đó cũng là tiêu chí 
quan trọng bậc nhất để phân biệt, để 
ghi nhận về giá trị của tiểu thuyết 
thuật sử và tiểu thuyết giải lịch sử. 
Không thể chiếu xét một tác phẩm 
thuộc nhóm này bằng các đặc điểm, 
“tiêu chuẩn” riêng của nhóm khác và 
ngược lại. 
Nếu cần phải so sánh giữa hai 
nhóm thì có thể thấy ngay rằng, tiểu 
thuyết giải lịch sử mang đậm chất tiểu 
thuyết hơn, vấn đề mà nó đặt ra 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 129 
thường có tính “thời sự” nhiều hơn, 
nhân vật trung tâm được nó khai thác 
với nhiều tính chất đời tư hơn, những 
“can dự” của người kể chuyện trong 
nó rõ nét hơn, Vì vậy, nhìn dưới 
góc nhìn về quá trình vận động và 
phát triển của văn học nước nhà, tiểu 
thuyết giải lịch sử đang và sẽ còn 
chiếm ưu thế lớn ở thì tương lai. 
3.Kết luận 
Tóm lại, trong dòng chảy của tiểu 
thuyết Việt Nam đương đại, các tác 
phẩm viết về chiến tranh và lịch sử 
vẫn giữ một vị trí, vai trò hết sức quan 
trọng. Từ những câu chuyện thuộc về 
quá khứ, người cầm bút hướng đến hai 
mục tiêu chính. Thứ nhất là nói theo 
Lại Nguyên Ân: “chỉ bằng việc 
thường xuyên nhắc nhớ, ôn lại, phân 
tích nguồn cơn, tính đếm thiệt hại, 
v.v mới là phương cách tốt, chẳng 
những làm nguôi chấn thương mà còn 
đề phòng khả năng lặp lại những tai 
họa tương tự cho cộng đồng” [14], tức 
là vừa làm dịu bớt những mất mát, đau 
thương vừa rút ra những bài học lịch 
sử lớn. Thứ hai là lấy chuyện quá khứ 
để chiếu rọi, để ngầm so sánh và đối 
thoại với thời hiện đại về những vấn 
đề hoặc mang “tầm vóc cao cả” hoặc 
thuộc về số phận cá nhân, mang tính 
chất đời tư-cụ thể. 
Văn học Âu-Mỹ nói chung, tiểu 
thuyết nói riêng đang tiếp tục dành sự 
quan tâm chủ yếu cho các đề tài trinh 
thám, phiêu lưu, tình yêu, tệ nạn xã 
hội,với phong cách hậu hiện đại, 
với trào lưu văn học đô thị, Văn học 
Việt Nam đã và đang tiếp tục hội 
nhập, “tiệm cận” sự phát triển chung 
của nhân loại ở nhiều khía cạnh nhưng 
không vì thế mà đánh mất đi các đặc 
thù, bản sắc riêng (dù là ở đề tài). Một 
đất nước giàu truyền thống văn hóa-
lịch sử; một dân tộc vừa bước qua hai 
cuộc kháng chiến thần thánh mà đau 
thương chống Thực dân, Đế quốc xâm 
lược không thể “khép lại quá khứ” ở 
nhiều phương diện, trong đó bao gồm 
cả sáng tạo nghệ thuật. Có thể kể ra 
rất nhiều chứng lý, luận điểm nhằm 
minh chứng cho quan điểm trên, song 
cũng có thể nói thật súc tích: có hiện 
tại và tương lai nào lại không bắt đầu 
từ quá khứ - một quá khứ chưa thể 
đóng khung, “xếp gọn” (chữ dùng của 
Phùng Quý Nhâm) mà còn cần những 
khám phá, đánh giá ở rất nhiều chiều 
kích khác nhau. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb.Giáo dục, Hà Nội. 
2. Nguyễn Thị Bình (2006), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời 
điểm đổi mới đến nay, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp Bộ, Nguồn: 
Nguvan. hnue.edu.vn. 
3. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb.Giáo 
dục, Hà Nội. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 
 130 
4. Ngô Vĩnh Bình (1998), “Lực lượng sáng tác văn học trẻ trong quân đội-Cái gạch 
nối giữa hôm qua, hôm nay và mai sau”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, (12). 
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn 
học, Nxb.Giáo dục, Hà Nội. 
6. Trần Hoàng Thiên Kim (2012), “Nhà văn Nam Hà “sung sướng được làm 
người con của đất nước””, Nguồn: sknc.qdnd.vn, (2/7). 
7. Trần Việt Dũng (1987), “Chiến tranh khác nhau ở mỗi người”, Tạp chí Văn 
nghệ quân đội, (6), tr.128-130. 
8. P.V (2001), “Người lính và chiến tranh cách mạng-một đề tài vĩnh cửu”, 
Tạp chí Văn nghệ quân đội, (1). 
9. Octavio Paz (1994), “Đi tìm thời hiện đại”, Tạp chí Văn học, (5). 
10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Sđd, Nxb.Giáo dục, Hà Nội. 
11. Nguyễn Văn Dân (2012), “Tiểu thuyết Việt Nam đương đại-phác họa một 
số xu hướng chủ yếu”, Nguồn: Tapchinhavan.vn, (27/9). 
12. Hoàng Lại Giang (2001), Trương Vĩnh Ký, bi kịch muôn đời, Nxb.Văn hóa-
Thông tin, Hà Nội. 
13. Trần Đình Sử (2008, chủ biên), Tự sự học, phần 2, Nxb. Đại học Sư phạm 
Hà Nội. 
14. Lại Nguyên Ân (2006), “Về tiểu thuyết Ba người khác, Nguồn: 
Talawas.org, (25/12). 
VIETNAMESE NOVELS (1986-2010) WRITTEN ABOUT 
HISTORY AND WARS- AN OVERVIEW 
ABSTRACT 
This paper attempts to make clear the differences in distinctive and 
outstanding characteristics of two groups of Vietnamese novel (1986-2010), 
written about wars and history. Getting the inspiration from the patriotic wars 
against the French Colonists and American imperialists, however, the epics and 
non-epics (the group that writes about war) have significant differences in artistic 
thoughts. Similarly, despite the fact that both historical narrative and historical 
explanation with authors’ purposely distorted viewpoints (the group that wrote 
about history) wrote about Vietnamese medieval history, they themselves 
presented a great difference in prosody. Anyway, all aforementioned novels have 
made enormous contributions to the diversity in the style of novel in particular as 
well as to the promotion of the process of movement and development of 
Vietnamese literature in general. 
Key words: Epics, non-epics, historical narratives, historical explanation 
with authors’ purposely distorted viewpoints. 

File đính kèm:

  • pdfthuyet_viet_nam_giai_doan_1986_2010_viet_ve_lich_su_va_chien.pdf