Tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng

Tiếp cận tài chính toàn diện đang là vấn đề thu hút được sự quan tâm

của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài nghiên cứu

tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh

đồng bằng Sông Hồng trong giai đoạn 2013-2017. Dựa trên bộ chỉ

tiêu Global Findex, nghiên cứu cho thấy tiếp cận tài chính đã được

cải thiện đáng kể tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Mặc dù vậy,

mức độ tiếp cận tài chính vẫn có khoảng cách giữa các địa phương.

Phần thứ hai, nghiên cứu đánh giá thực trạng tiếp cận tài chính toàn

diện về những kết quả đạt được và một số hạn chế còn tồn tại. Trên

cơ sở đó, phần thứ ba, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm thúc

đẩy tiếp cận tài chính tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng.

pdf 11 trang yennguyen 4820
Bạn đang xem tài liệu "Tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng

Tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng
18
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 202- Tháng 3. 2019
Tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh 
đồng bằng Sông Hồng
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Phạm Thị Hoàng Anh
Trần Thị Thắng
Ngày nhận: 12/02/2019 Ngày nhận bản sửa: 02/03/2019 Ngày duyệt đăng: 25/03/2019
Tiếp cận tài chính toàn diện đang là vấn đề thu hút được sự quan tâm 
của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài nghiên cứu 
tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh 
đồng bằng Sông Hồng trong giai đoạn 2013-2017. Dựa trên bộ chỉ 
tiêu Global Findex, nghiên cứu cho thấy tiếp cận tài chính đã được 
cải thiện đáng kể tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Mặc dù vậy, 
mức độ tiếp cận tài chính vẫn có khoảng cách giữa các địa phương. 
Phần thứ hai, nghiên cứu đánh giá thực trạng tiếp cận tài chính toàn 
diện về những kết quả đạt được và một số hạn chế còn tồn tại. Trên 
cơ sở đó, phần thứ ba, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm thúc 
đẩy tiếp cận tài chính tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng.
Từ khóa: Tiếp cận tài chính toàn diện, ngân hàng, đồng bằng Sông Hồng
1. Mở đầu
ài chính toàn 
diện, tiếp cận 
tài chính hay 
tiếp cận tài 
chính toàn diện 
(TCTC) đều là cách dịch khác 
nhau của thuật ngữ Financial 
Inclusion. TCTC là việc mọi 
người dân và doanh nghiệp 
được tiếp cận và sử dụng các 
sản phẩm và dịch vụ tài chính 
một cách thuận tiện, phù hợp 
nhu cầu với chi phí hợp lý 
do các tổ chức tài chính cung 
cấp một cách có trách nhiệm 
và bền vững, trong đó chú 
trọng đến nhóm người nghèo, 
người thu nhập thấp, người 
yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và 
vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ 
(SMEs). 
Trong những năm gần đây, quá 
trình triển khai tài chính toàn 
diện trên thế giới đã thu được 
những kết quả tích cực, giúp 
người dân và doanh nghiệp 
được tiếp cận với dịch vụ tài 
chính tốt hơn, thu hẹp khoảng 
cách giữa nông thôn và thành 
thị, đầu tư và mở rộng cơ sở 
hạ tầng tài chính, cải thiện các 
chỉ số về tăng trưởng, phát 
triển và giảm nghèo, sử dụng 
hiệu quả nguồn lực xã hội. 
Tuy nhiên, tính đến năm 2017 
trên thế giới vẫn còn khoảng 
hơn 1,7 tỷ người trưởng thành 
chưa có cơ hội tiếp cận với các 
dịch vụ tài chính chính thức 
(CGAP, 2018), trong đó các 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
19Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019
nhóm bị loại trừ chủ yếu là 
phụ nữ, người nghèo ở nông 
thôn và các cộng đồng ở xa 
hoặc khó tiếp cận, cũng như 
các doanh nghiệp nhỏ và phi 
chính thức bị ảnh hưởng nhiều 
nhất.
Việt Nam là nước có nền kinh 
tế đang phát triển, việc đẩy 
mạnh tiếp cận tài chính toàn 
diện là yêu cầu cấp bách cần 
thực hiện để đảm bảo phát 
triển một cách công bằng và 
bền vững. Nhất là đối với 
người nghèo, người có thu 
nhập thấp, họ là những nhóm 
đối tượng khó có thể tiếp cận 
tài chính, nhưng lại là nhóm 
khách hàng tiềm năng, là 
cơ hội mở rộng lĩnh vực tài 
chính. Với dân số hơn 90 triệu 
người nhưng có đến 42,2% 
người trưởng thành của Việt 
Nam không có tài khoản tại 
một tổ chức tài chính chính 
thức vào năm 2016 (NHNN, 
2018) và 60% SMEs chưa tiếp 
cận được vốn vay ngân hàng 
(Chung Thủy, 2018). Tuy 
nhiên, rõ ràng, việc tiếp cận 
dịch vụ tài chính ngân hàng 
hiện vẫn còn một số hạn chế 
ở vùng nông thôn, vùng sâu, 
vùng xa. 
Đồng bằng Sông Hồng bao 
gồm 11 tỉnh, được coi là 
một trong những vùng kinh 
tế trọng điểm, có trình độ 
phát triển nhanh nhất cả 
nước nhưng trong vùng vẫn 
còn nhiều người chưa được 
tiếp cận với sản phẩm dịch 
vụ ngân hàng, đa phần trong 
số đó là người dân sống ở 
nông thôn, vùng sâu, vùng 
xa, phụ nữ nghèo, người có 
thu nhập thấp. Do đó, bài viết 
nghiên cứu thực trạng tiếp 
cận tài chính tại các tỉnh đồng 
bằng Sông Hồng để tìm hiểu 
những kết quả đã đạt được, 
những hạn chế còn tồn tại 
và nguyên nhân của hạn chế, 
trên cơ sở đó đề xuất một số 
khuyến nghị nhằm thúc đẩy 
tiếp cận tài chính toàn diện 
các tỉnh đồng bằng Sông 
Hồng.
2. Thực trạng tiếp cận tài 
chính toàn diện tại các tỉnh 
đồng bằng Sông Hồng
TCTC là một khái niệm đa 
chiều, không thể tự mình 
nắm bắt chính xác bằng các 
chỉ số duy nhất mà được xác 
định bởi một bộ chỉ số. Chỉ 
số TCTC là thước đo tính tiếp 
cận ngành tài chính của một 
quốc gia, được xây dựng như 
một chỉ số đa chiều, nắm bắt 
thông tin về các khía cạnh 
khác nhau của sự TCTC, như 
thâm nhập ngân hàng, sự sẵn 
có của các dịch vụ ngân hàng 
và sử dụng hệ thống ngân 
hàng. Nếu như nghiên cứu 
của Honohan (2008), Sarma 
(2012) sử dụng dữ liệu tổng 
hợp từ phía cung để đo lường 
TCTC thì bộ chỉ của Global 
Findex năm 2012 sử dụng dữ 
liệu về nhu cầu từ góc độ cá 
nhân liên quan đến việc sử 
dụng các dịch vụ tài chính để 
đo lường; hoặc bộ chỉ số của 
Sarma (2015) là một thước đo 
thể hiện tất cả các khía cạnh 
khác nhau của hệ thống tài 
chính một quốc gia- sự thuận 
tiện và mức độ sử dụng. 
Tuy nhiên mỗi bộ chỉ số có 
nội dung, ưu, nhược điểm 
riêng và phạm vi áp dụng 
không giống nhau. Bộ chỉ số 
do Global Findex xây dựng 
được coi là khá phù hợp khi 
các chỉ số cốt lõi của Global 
Findex tập trung vào năm 
nội dung cơ bản của việc sử 
dụng dịch vụ tài chính ở cấp 
độ cá nhân: Tài khoản, tiết 
kiệm, vay vốn, thanh toán và 
bảo hiểm. Chính vì vậy, trong 
bài viết này, chúng tôi sẽ sử 
dụng các chỉ tiêu được đề xuất 
trong bộ Global Findex để 
đánh giá mức độ TCTC của 
các tỉnh đồng bằng Sông Hồng 
(trừ các chỉ tiêu về bảo hiểm).
2.1. Thực trạng sử dụng tài 
khoản ngân hàng
2.1.1. Số lượng chi nhánh 
ngân hàng tại vùng đồng bằng 
Sông Hồng
Theo Ravikumar (2012), số 
lượng các ngân hàng có tác 
động tới lượng người có thể 
tiếp cận và được sử dụng các 
dịch vụ ngân hàng chính thức. 
Lượng ngân hàng càng nhiều 
thì mức độ bao phủ của hệ 
thống ngân hàng càng lớn. 
Tuy nhiên, để có thể đánh giá 
chính xác hơn về mức độ bao 
phủ của ngân hàng, các chỉ 
tiêu thường được sử dụng là 
mức độ bao phủ của chi nhánh 
ngân hàng và máy ATM theo 
dân số và địa lý. Việc TCTC 
của người dân các tỉnh đồng 
bằng Sông Hồng được đánh 
giá bởi sự gia tăng nhanh về 
số lượng chi nhánh ngân hàng 
trong suốt thời gian từ 2013 
đến năm 2017 theo 2 tiêu chí 
như sau:
Về mức độ bao phủ của chi 
nhánh về mặt dân số phản 
ánh số lượng chi nhánh trên 
100.000 người dân trưởng 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019
thành: Bảng 1 cho thấy số 
lượng các chi nhánh ngân 
hàng (NHTM) trên địa bàn các 
tỉnh đồng bằng Sông Hồng 
tăng trưởng đều trong giai 
đoạn 2013- 2017, qua đó góp 
phần tăng khả năng tiếp cận 
tài chính của người dân đối 
với các dịch vụ tài chính. Nếu 
trong năm 2013 có 5,7 chi 
nhánh trên 100.000 người dân 
trưởng thành thì con số này 
đã lên đến 6,6 chi nhánh vào 
năm 2017. Trong giai đoạn 
2013- 2017, người dân nói 
chung và người trưởng thành 
nói riêng tại các tỉnh đồng 
bằng Sông Hồng đã dễ dàng 
hơn trong việc tiếp cận với 
các chi nhánh ngân hàng, làm 
cho việc tiếp cận với các dịch 
vụ ngân hàng cũng dễ dàng 
và thuận tiện hơn. Cụ thể số 
chi nhánh trên 100.000 người 
trưởng thành của các tỉnh 
đồng bằng Sông Hồng cao hơn 
so với mức trung bình của cả 
nước (Bảng 1). Tuy nhiên, các 
chi nhánh, phòng giao dịch 
của NHTM mới chỉ tập trung 
tại các thành phố, chưa phát 
triển ở khu vực nông thôn. Ở 
các địa bàn vùng núi, vùng 
sâu, vùng xa, người dân còn 
rất khó khăn tiếp cận dịch vụ 
ngân hàng. Số xã có đặt điểm 
giao dịch của các NHTM mới 
chỉ chiếm một tỷ lệ thấp (Báo 
cáo của Ngân hàng Nhà nước 
(NHNN) chi nhánh các tỉnh).
Về mức độ bao phủ của chi 
nhánh về mặt địa lý phản ánh 
số lượng chi nhánh NHTM 
trên mỗi 1.000 km2: Nếu trong 
năm 2013 bình quân trong 
vùng có 3,1 chi nhánh ngân 
hàng trên 1.000 km2 thì con số 
này đã lên đến 3,6 chi nhánh 
ngân hàng vào năm 2017, 
với mức tăng 1,17 lần so với 
năm 2013. Nhưng nếu so với 
cả nước thì số chi nhánh trên 
1.000 km2 thì con số trung 
bình của vùng thấp hơn (Bảng 
1), do trong vùng có một số 
tỉnh có diện tích rộng và mật 
độ dân cư thưa thớt. 
Nhìn chung, việc tiếp cận với 
các dịch vụ ngân hàng đã trở 
lên sâu rộng hơn ở tất cả các 
tỉnh trong vùng do sự phân bố 
chi nhánh ngân hàng đã tăng 
lên, song mật độ chi nhánh 
giữa các tỉnh trong vùng vẫn 
chưa có sự đồng đều.
Bảng 1. Phân bổ số lượng chi nhánh ngân hàng tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng giai đoạn 
2013- 2017
TT
 Năm 
 Địa
 Phương
2013 2014 2015 2016 2017
Số 
CN/ 
1.000 
km2
Số CN/
100.000 
người 
trưởng 
thành
Số 
CN/ 
1.000 
km2
Số CN/ 
100.000 
người 
trưởng 
thành
Số 
CN/
1.000 
km2
Số CN/ 
100.000 
người 
trưởng 
thành
Số 
CN/
1.000 
km2
Số CN/ 
100.000 
người 
trưởng 
thành
Số 
CN/
1.000 
km2
Số CN/ 
100.000 
người 
trưởng 
thành
1. Bắc Ninh 3,9 5,0 4,1 5,2 4,1 5,1 4,1 5,1 4,4 5,4
2. Hà Nội 8,8 7,7 8,9 7,7 9,9 8,6 19,1 8,8 10,2 9,0
3. Hưng Yên 2,9 3,8 3,0 4,0 3,0 4,0 3,2 4,3 3,2 4,3
4. Hải Dương 1,6 2,5 1,7 2,7 1,7 2,7 1,7 2,7 1,8 2,9
5. Quảng Ninh 0,9 7,9 1,0 8,3 1,0 8,8 1,0 9,0 1,0 9,2
6. Hải Phòng 6,4 8,7 6,7 9,1 6,8 9,2 6,9 9,5 6,9 9,5
7. Vĩnh Phúc 1,9 3,8 1,9 3,8 2,0 4,0 2,2 4,3 2,3 4,6
8. Hà Nam 4,5 8,2 5,2 9,5 5,2 9,5 5,3 9,7 5,3 9,7
9. Nam Định 1,6 2,4 1,8 2,5 1,9 2,8 2,0 3,0 2,3 3,3
10. Thái Bình 1,7 2,4 1,9 2,7 1,9 2,7 2,0 2,8 2,0 2,9
11. TB ĐBSH 3,1 5,7 3,2 5,9 3,4 6,3 3,5 6,5 3,6 6,6
12. TB cả nước 7,3 3,7 8,2 3,9 8,1 3,8 8,3 3,9 8,9 4,9
Nguồn: NHNN các tỉnh và tính toán của tác giả, World Bank/ IMF
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019
2.1.2. Số lượng máy ATM và 
thẻ ATM tại các tỉnh đồng 
bằng Sông Hồng
Để người dân có thể tiếp cận 
được dịch vụ tài chính thuận 
lợi, trước tiên là họ phải có tài 
khoản ở ngân hàng, bởi đây là 
cửa sổ để tiếp cận các dịch vụ 
tài chính khác, như tiết kiệm, 
tín dụng, thanh toán và bảo 
hiểm. Trong giai đoạn 2013- 
2017, số lượng thẻ ngân hàng 
trong vùng có sự gia tăng đáng 
kể, trong đó thẻ ATM luôn 
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong 
tổng lượng thẻ phát hành. Nếu 
như năm 2013 số lượng thẻ 
ATM là 6.828.803 thẻ, chiếm 
tỷ trọng 73,2% tổng thẻ phát 
hành thì con số này lên đến 
12.075.445 thẻ năm 2017, với 
mức tăng là 5.876.642 thẻ và 
tốc độ tăng 86% so với năm 
2013 (Bảng 2).
Theo Bảng 2, số lượng máy 
ATM và thẻ ATM được phát 
hành đều có sự tăng dần và 
tương tự nhau ở các tỉnh đồng 
bằng Sông Hồng qua các năm 
từ 2013 đến 2017. Tuy nhiên, 
số lượng máy ATM mới chỉ 
được đặt chủ yếu ở các địa 
điểm có sự phát triển về kinh 
tế, có dân số tập trung đông, 
các khu công nghiệp nơi nhiều 
nhà máy, công ty sản xuất 
kinh doanh. Kéo theo đó, số 
lượng thẻ ATM ở các địa điểm 
này cũng tăng, nhất là các 
tỉnh có sự phát triển về kinh 
tế như Hà Nội, Hải Phòng, 
Quảng Ninh Lý do chủ yếu 
làm cho lượng thẻ ATM tăng 
nhanh trong giai đoạn 2013- 
2017 là do hầu hết các cơ 
quan Nhà nước, doanh nghiệp 
trong khu công nghiệp đều trả 
lương qua tài khoản làm cho 
số lượng người trưởng thành 
có thẻ ATM tăng lên. Ngược 
lại, ở vùng nông thôn, do nhu 
cầu sử dụng tài khoản và mật 
độ dân số thưa nên số lượng 
máy ATM, thẻ ATM ít hơn so 
với thành thị. 
Bên cạnh việc sử dụng chỉ 
tiêu số chi nhánh ngân hàng 
phân bổ theo dân số và địa 
lý để đánh giá mức độ TCTC 
của người dân, chúng tôi còn 
quan tâm đến mức độ bao 
phủ của máy ATM. Đó là số 
lượng máy ATM trên 100.000 
người dân và số lượng máy 
ATM trên 1.000 km2 và trong 
giai đoạn từ năm 2013 đến 
2017, cả hai chỉ tiêu trên đều 
có sự tăng trưởng nhẹ. Cụ thể 
về mặt địa lý, nếu năm 2013 
có 20,9 máy ATM trên 1.000 
km2 thì con số này đã lên đến 
25 máy vào năm 2017 (Biểu 
đồ 1), tương đương với mức 
độ tăng là 1,19 lần. Về mặt 
dân số, nếu như năm 2013 cứ 
Bảng 2. 
Số lượng máy ATM và thẻ ATM tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng giai đoạn 2013- 2017
TT
 Năm 
Địa 
phương
2013 2014 2015 2016 2017
SL
máy 
ATM
SL
 thẻ 
ATM
SL
máy 
ATM
SL
 thẻ 
ATM
SL
máy 
ATM
SL
 thẻ 
ATM
SL
máy 
ATM
SL
 thẻ 
ATM
SL
máy 
ATM
SL
 thẻ 
ATM
1. Bắc Ninh 185 285.845 198 384.185 222 454.095 230 549.334 245 694.697
2. Hà Nội 2.872 3.820.405 3.055 4.338.547 3.070 5.088.731 3.098 6.154.883 3.113 6.401.078
3. Hưng Yên 111 205.022 129 239.701 145 343.576 160 441.139 177 583.322
4. Hải Dương 235 552.153 244 676.343 254 773.029 272 923.844 305 1.060.729
5. Quảng Ninh 326 428.916 375 473.952 392 521.347 400 581.302 405 649.315
6. Hải Phòng 351 413.268 380 450.304 422 815.051 448 945.459 465 1.030.550
7. Vĩnh Phúc 140 207.198 150 230.819 169 257.132 172 286.445 192 319.100
8. Hà Nam 52 179.221 65 193.961 81 242.788 95 275.748 103 294.943
9. Nam Định 122 305.030 132 359.020 151 445.202 162 511.358 182 526.479
10. Thái Bình 113 431.745 128 495.225 131 556.782 135 653.954 146 756.350
Tổng 4.507 6.828.803 4.856 7.842.057 5.037 9.497.733 5.172 11.323.466 5.333 12.316.563
Nguồn: NHNN các tỉnh và tính toán của tác giả
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019
100.000 người trưởng thành 
có 36,8 máy ATM thì con số 
này lên đến 44,3 máy vào năm 
2017 (Biểu đồ 1). Mặc dù mật 
độ máy ATM tăng lên nhưng 
sự phân bố chưa đồng đều, 
nhất là ở khu vực nông thôn, 
vùng sâu, vùng xa.
2.2. Thực trạng tiền gửi tiết 
kiệm tại ngân hàng
Trong giai đoạn 2013- 2017, 
mức độ huy động tiết kiệm từ 
nền kinh tế trong vùng 
có sự tăng lên đáng kể, 
nhưng mức độ tiền gửi 
của dân cư, tổ chức 
kinh tế và nguồn khác 
là không đồng đều. Nếu 
như năm 2013, tổng tiền 
gửi tại hệ thống ngân 
hàng trong vùng đạt 
1.406.005 tỷ đồng thì 
đến con số này đã lên 
đến 3.343.688 tỷ đồng 
vào năm 2017, với tốc 
độ tăng đạt 37%. Trong 
tất cả các nguồn huy 
động thì tiền gửi của 
dân cư chiếm tỷ trọng 
chủ yếu, năm 2013 tổng 
tiền gửi của người dân 
ở mức 687.384 tỷ đồng, 
chiếm tỷ trọng 48,8% 
thì đến năm 2017 tiền 
gửi của dân cư đã lên 
đến 1.525.724 tỷ đồng, 
chiếm tỷ trọng 45,6% 
(Báo cáo NHNN chi 
nhánh các tỉnh). 
Biểu đồ 2 cho thấy giá 
trị tiền gửi của dân cư 
có sự tăng lên nhưng 
tốc độ tăng không đều 
giữa các năm, có năm 
tăng xấp xỉ 30%, nhưng 
có năm chỉ dừng lại ở 
mức gần 16%. Điều này 
cho thấy, do thu nhập 
của người dân các tỉnh 
đồng bằng Sông Hồng 
chưa cao, chủ yếu mới 
chỉ đáp ứng được nhu 
cầu chi tiêu cuộc sống 
hàng ngày. Ngoài ra, do thói 
quen tâm lý của người dân 
thích giữ tiền mặt trong nhà 
hay đầu tư vào tài sản khác 
và một phần do hiểu biết của 
người dân về các sản phẩm 
dịch vụ của ngân hàng còn 
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Số lượng máy ATM trên 100,000 người trưởng thành
Số lượng máy ATM trên 1,000 km2
Biểu đồ 1. Số lượng máy ATM tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng 
giai đoạn 2013- 2017
Nguồn: NHNN các tỉnh và tính toán của tác giả
Biểu đồ 2. Diễn biến tiền gửi ngân hàng của dân cư các tỉnh đồng 
bằng Sông Hồng giai đoạn 2013 ... o dịch qua POS các tỉnh 
đồng bằng Sông Hồng giai đoạn 2013- 2017
Nguồn: NHNN các tỉnh và tính toán của tác giả
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
25Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019
triển mạnh mẽ của điện thoại 
thông minh (smartphone) đã 
thay đổi thói quen của người 
dân trong nhiều lĩnh vực như 
tra cứu thông tin, mua sắm, 
giao dịch ngân hàng... Như 
vậy, có rất nhiều cơ hội để các 
TCTD ứng dụng công nghệ 
mới trên điện thoại di động 
nhằm tạo ra các kênh phân 
phối, sản phẩm dịch vụ mới 
hướng đến cải thiện tiếp cận 
tài chính cho người dân vùng 
nông thôn.
3. Đánh giá chung về tiếp 
cận tài chính toàn diện tại 
các tỉnh đồng bằng Sông 
Hồng
3.1. Các kết quả đạt được
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà 
nước đã và đang triển khai 
nhiều chương trình, dự án về 
nâng cấp cơ sở hạ tầng ngân 
hàng; đẩy mạnh phát triển 
mạng lưới các tổ chức tài 
chính như Ngân hàng Nông 
nghiệp và Phát triển Nông 
thôn Việt Nam, Ngân hàng 
Chính sách xã hội, Chiến lược 
phát triển hệ thống TCVM; 
thúc đẩy thanh toán điện tử 
và cho phép thí điểm các sản 
phẩm đổi mới sáng tạo.
Thứ hai, khả năng tiếp cận 
dịch vụ tài chính của người 
dân ngày càng gia tăng thông 
qua việc sở hữu tài khoản 
ngân hàng. Trong giai đoạn 
2013- 2017 mạng lưới chi 
nhánh, phòng giao dịch ngân 
hàng được mở rộng đã tạo 
điều kiện thuận lợi cho người 
dân đến với ngân hàng để mở 
tài khoản hơn, đó là tiền đề 
cho việc sử dụng các dịch vụ 
khác của ngân hàng.
Thứ ba, số lượng tài khoản 
tiết kiệm và giá trị tiền gửi 
vào ngân hàng ngày càng 
tăng. Điều đó chứng tỏ rằng 
ngân hàng đã thu hút được sự 
quan tâm của người dân, nhất 
là đối với người nông dân và 
người có thu nhập không ổn 
định họ lựa chọn ngân hàng là 
nơi gửi tiết kiệm để duy trì sự 
ổn định của cuộc sống.
Thứ tư, số lượng sử dụng vốn 
vay ngân hàng tăng. Trong 
những năm qua, bên cạnh việc 
tăng huy động vốn thì việc 
cho vay đối với khu vực nông 
nghiệp nông thôn, các tổ chức 
kinh tế cũng tăng. Do vậy đã 
giúp cho người dân tiếp cận 
được với dịch vụ tín dụng nói 
riêng và sản phẩm của ngân 
hàng nói chung.
Thứ năm, sử dụng dịch vụ 
thanh toán qua ngân hàng 
ngày càng tăng về hình thức, 
số lượng và giá trị giao dịch. 
Trong thời gian gần đây, việc 
sử dụng dịch vụ thanh toán 
qua ngân hàng của người dân 
trong vùng đã tăng lên với 
nhiều hình thức như thanh 
toán bằng thẻ ATM, thẻ tín 
dụng, điểm POS, internet 
banking, mobile banking 
3.2. Một số hạn chế
Một là, mức độ bao phủ tài 
chính còn thấp, mạng lưới các 
chi nhánh ngân hàng và phòng 
giao dịch phân bổ không đồng 
đều giữa các địa bàn trong 
toàn vùng, phần lớn chỉ tập 
trung ở thành thị và rất ít tại 
vùng nông thôn. 
Hai là, việc tiếp cận dịch vụ 
ngân hàng chủ yếu phát triển 
ở các thành phố lớn, đô thị, 
còn ở vùng nông thôn, vùng 
sâu, vùng xa việc tiếp cận sản 
phẩm dịch vụ ngân hàng còn 
hạn chế. Thêm vào đó, các 
dịch vụ tín dụng nông thôn 
còn đơn điệu, chủ yếu cho 
vay theo món, hạn mức, cho 
vay thu mua nông sản và chưa 
đáp ứng đủ nhu cầu ở khu vực 
nông thôn. Các mặt hàng vay 
theo truyền thống đòi hỏi vay 
phải có thế chấp, trong khi đối 
với các sản phẩm, công trình 
của nông dân giá trị tài sản thế 
chấp không được định giá cao 
tương xứng vì nhiều tài sản 
giá trị nhưng lại chưa có sổ 
đỏ, vì thế trong vùng vẫn còn 
nhiều người dân không nhận 
được khoản vay truyền thống.
Ba là, dịch vụ thanh toán phát 
triển khá nhanh trong những 
năm gần đây, song chất lượng 
dịch vụ chưa cao và phân bố 
chưa tiện lợi, nhất là dịch vụ 
ngân hàng hiện đại như ATM, 
POS còn có hạn chế, sai sót 
trong quá trình sử dụng, mạng 
lưới máy ATM, POS được 
tập trung lắp đặt chủ yếu ở 
thành thị, nơi dân cư đông 
đúc, khiến cho người dân ở 
các khu vực nông thôn, vùng 
sâu, vùng xa không mặn mà 
sử dụng. Ngoài ra, công tác an 
toàn, bảo mật vẫn là một vấn 
đề làm cho người dân e ngại 
sử dụng sản phẩm dịch vụ 
ngân hàng hiện đại.
Bốn là, khuôn khổ luật pháp 
và thể chế bảo vệ người tiêu 
dùng tài chính còn thiếu và 
phân tán. Đây là nguyên nhân 
dẫn đến người tiêu dùng chưa 
thật sự tin tưởng vào các giao 
dịch tài chính, làm hạn chế sự 
tiếp cận và sử dụng của người 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019
dân đối với các dịch vụ tài 
chính chính thức.
Năm là, trình độ văn hóa và 
tiếp cận công nghệ thông tin 
của người dân các tỉnh đồng 
bằng Sông Hồng chưa cao, so 
với mặt bằng chung cả nước 
thì trình độ văn hóa của người 
dân trong vùng còn thấp. Bên 
cạnh đó, tỷ lệ sử dụng Internet 
ở vùng nông thôn vẫn còn 
tương đối thấp, chủ yếu chỉ có 
những người trẻ nên vẫn còn 
rất nhiều cơ hội để các TCTD 
phát triển sản phẩm trong lĩnh 
vực này.
4. Khuyến nghị chính sách 
nhằm nâng cao tiếp cận tài 
chính toàn diện tại Việt Nam 
4.1. Khuyến nghị với các cơ 
quan quản lý Nhà nước
Thứ nhất, Chính phủ cần rà 
soát và hoàn thiện các khuôn 
khổ pháp lý cần thiết nhằm 
tạo điều kiện cho các TCTD 
mở rộng hoạt động và cung 
cấp nhiều hơn các dịch vụ 
ngân hàng, đặc biệt là ở vùng 
sâu vùng xa. 
Thứ hai, NHNN đưa ra một 
số biện pháp để tạo điều kiện 
như ban hành về quy định tài 
khoản theo cấp độ, áp dụng 
tài khoản cơ bản cho người 
về hưu, quy định đơn giản 
hóa thủ tục nhận biết khách 
hàng và xác thực nhân thân 
khách hàng, chi trả trợ cấp xã 
hội, lương hưu vào tài khoản 
của người hưởng, đẩy mạnh 
chuyển khoản và các hình thức 
thanh toán không dùng tiền 
mặt, khuyến khích các hình 
thức cho vay và gửi tiền phù 
hợp với người nghèo ở nông 
thôn... để tạo điều kiện cho 
các TCTD đa dạng hóa hơn 
nữa các sản phẩm dịch vụ tài 
chính, bởi người nghèo cũng 
có nhu cầu đối với các dịch 
vụ tài chính như chuyển tiền, 
thanh toán và bảo hiểm (ngoài 
sản phẩm tiết kiệm, tín dụng).
Thứ ba, NHNN có chính sách 
khuyến khích các NHTM, 
TCTD ứng dụng công nghệ 
thông tin và viễn thông để 
cung ứng sản phẩm, dịch vụ 
ngân hàng vi mô hay phát 
triển các mạng lưới ngân hàng 
điện tử.
Thứ tư, để người dân có thể dễ 
dàng tiếp cận với các dịch vụ 
tài chính chính thức một cách 
thuận tiện, phù hợp với nhu 
cầu và chi phí hợp lý thì, bên 
cạnh hoàn thiện khung pháp 
lý, NHNN cần huy động nhiều 
nguồn lực như tài chính, công 
nghệ, nhân lực có trình độ... 
thông qua các TCTD, chính 
quyền địa phương, tổ chức 
chính trị- xã hội, khu vực tư 
nhân Đồng thời, hỗ trợ cho 
công tác tuyên truyền giáo 
dục tài chính, giúp người dân 
nông thôn, vùng sâu vùng xa 
có kiến thức về các sản phẩm, 
dịch vụ tài chính được đầy đủ 
và chính xác hơn.
Thứ năm, Uỷ ban Nhân dân 
các tỉnh cần rà soát và hoàn 
thiện các khuôn khổ pháp lý 
cần thiết trong hệ thống nhằm 
tạo điều kiện cho người dân 
khu vực nông thôn, vùng sâu 
vùng xa, vùng khó khăn tiếp 
cận với các dịch vụ tài chính 
chính thức, như chính sách hỗ 
trợ tín dụng, hỗ trợ vay vốn
4.2. Khuyến nghị với các tổ 
chức tín dụng 
Một là, các TCTD cần nắm 
bắt được nhu cầu, tâm lý 
cũng như những vướng mắc 
khó khăn của từng phân khúc 
khách hàng để từ đó thiết kế 
sản phẩm phù hợp với từng 
khách hàng cụ thể hoặc thực 
hiện phân khúc thị trường để 
cung cấp các sản phẩm dịch 
vụ đa dạng, chất lượng cao và 
chi phí hợp lý.
Hai là, các TCTD cần thực 
hiện đa dạng hóa tín dụng 
nông thôn nhằm đáp ứng nhu 
cầu vay vốn với quy mô đa 
dạng của nông dân, phù hợp 
với tính mùa vụ của các loại 
nông sản, đảm bảo công bằng 
trong tín dụng nông thôn, góp 
phần tăng thu nhập và giảm 
đói nghèo; tăng hiệu quả của 
đồng vốn bằng cách hoàn 
thiện việc thẩm định dự án, 
đánh giá mức rủi ro của người 
đi vay.
Ba là, đẩy mạnh việc huy 
động tiết kiệm bằng cách xoá 
bỏ quan điểm người nghèo 
không thể tiết kiệm. Các 
TCTD cần mạnh dạn cung 
ứng sản phẩm nhận tiền gửi 
tiết kiệm theo đặc thù riêng 
của từng đơn vị, tạo điều kiện 
cho người nghèo có thể tiết 
kiệm, tạo lập vốn tự có, từng 
bước tiếp cận và đẩy mạnh 
nhu cầu sử dụng sản phẩm, 
dịch vụ ngân hàng. Các TCTD 
cần nỗ lực để huy động tiền 
gửi từ người dân, xây dựng 
cơ cấu lãi suất theo quy định 
của NHNN, đồng thời chủ 
động hơn nữa trong huy động 
nguồn vốn (từ Trung ương, 
địa phương và vốn huy động 
tại chỗ) để đáp ứng tốt hơn 
nhu cầu vốn vay cho các đối 
tượng. 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
27Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019
Bốn là, để phát huy sứ mệnh 
và ý nghĩa của tài chính toàn 
diện, các TCTD cần có các 
gói sản phẩm ưu đãi riêng và 
quan tâm đặc biệt đối với các 
đối tượng dễ bị tổn thương 
như các hộ nghèo và cận 
nghèo ở nông thôn, gia đình 
neo đơn nhằm giúp các đối 
tượng này có nhiều cơ hội hơn 
trong việc tiếp cận dịch vụ 
tài chính. Đồng thời gắn việc 
phát triển dịch vụ ngân hàng 
truyền thống với phát triển 
các dịch vụ ngân hàng hiện 
đại thông qua việc sử dụng 
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tổng kết của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Hải 
Phòng, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Vĩnh Phúc các năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.
2. CGAP (2018), Câu hỏi thường gặp về tiếp cận tài chính. https://www.cgap.org/about/faq
3. Chung Thủy (2018), “60% doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa tiếp cận được nguồn vốn tín dụng”. https://vov.vn/kinh-te/60-
doanh-nghiep-nho-va-vua-chua-tiep-can-duoc-nguon-von-tin-dung-797249.vov.
4. Demirguc-Kunt, Asli; Klapper, Leora (2012). “Measuring Financial Inclusion: The Global Findex Database”. Policy 
Research Working Paper; No. 6025. World Bank, Washington, DC. © World Bank. https://openknowledge.worldbank.org/
handle/10986/6042 License: CC BY 3.0 IGO.”
5. Honohan, Patrick (2008), “Cross-country variation in household access to financial services”, Journal of Banking and 
Finance, Vol.32, Issue 11, 2493-2500.
6. Nguyễn Thùy Dương, Nguyễn Thị Thu Trang (2017), “Vai trò của ngân hàng đối với phát triển tài chính toàn diện tại Việt 
Nam”, Hội thảo quốc tế thúc đẩy tiếp cận tài chính toàn diện tại Việt Nam.
7. NHNN Việt Nam: Sơ lược tiếp cận tài chính toàn diện, 2018.
8. Phạm Thị Hồng Vân, Trần Thị Thu Hường (2017), “Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển tài chính toàn diện- giải pháp đối 
với Việt Nam”, Hội thảo quốc tế thúc đẩy tiếp cận tài chính toàn diện tại Việt Nam.
9. Ravikuma, T. (2012), “Role of Bank in Financial Inclusion process in India, International Jounal of Maketing and 
Technology”, Vol.2.
10. Sarma, M. (2012). “Index of Financial Inclusion – A measure of financial sector inclusiveness”. Working Paper No. 07/2012.
11. Sarma, M. (2015). “Measuring fnancial inclusion”. Economics Bulletin, 35(1), 604–611.
12. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê các năm 2013, 2014, 2015, 2016.
Thông tin tác giả
Phạm Thị Hoàng Anh, Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng 
Email: anhpth@hvnh.edu.vn
Trần Thị Thắng, Thạc sĩ
Học viện Ngân hàng, Phân viện Bắc Ninh 
Email: thangtt@hvnh.edu.vn
Summary
Financial inclusion in Red River delta provinces
Finance inclusion is a topic that has attracted the attention of many countries in the world including Viet Nam. The 
paper aims at assessing the real status of finance inclusion in the Red River Delta provinces during 2013-2017. 
Based on Gobal Findex, the paper suggested that financial inclusion was significantly improved, but still a big 
gap among Red River Delta provinces. In the second section, the study evaluates the achievements and some 
limitations in improving financial inclusion in Red River Delta. Lastly, the paper suggests recommendations to 
promote financial inclusion in the Red River Delta region.
Keywords: Financial Inclusion, bank, Red river delta. 
Anh Thi Hoang Pham, Assoc.Prof. PhD.
Director of Research Institute for Banking, Banking Academy of Vietnam
Thang Thi Tran, M.Ec.
Banking Academy of Vietnam, Bacninh Campus
sản phẩm trọn gói bằng cách 
kết nối với các doanh nghiệp 
thông qua việc trả lương qua 
tài khoản và vận động người 
lao động sử dụng thẻ ATM, 
lắp đặt máy ATM tại nơi có 
nhiều doanh nghiệp đang hoạt 
xem tiếp trang 44
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
44 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019
Việt Nam, Tạp chí công nghệ ngân hàng, số 85, trang 11-15.
21. Trujillo-Ponce, A., 2013. What determines the profitability of banks? Evidence from Spain. Accounting and Finance, 53(2): 
561-586.
Thông tin tác giả
Huỳnh Thị Hương Thảo, Tiến sĩ 
Khoa Tài chính Kế toán, Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM
Email: thaohth@hufi.edu.vn
Summary
The impact of credit risk to operational efficiency of vietnamese commercial banks
In banking business, credit is the activity that brings the bank’s main profit but also the potential risk. This is a 
major risk in banking business, so all credit and credit risk impacts on profitability as well as banking efficiency. 
This article is intended to study the impact of credit risk on operational efficiency through return on assets (ROA), 
return on equity (ROE), technical efficiency, pure technical efficiency, scale efficiency by regression models: 
Pooled OLS, FEM, REM, FGLS. The results of the study show that credit risk has the opposite effect on the 
operational efficiency, from which the author proposes solutions to limit credit risk to improve operational efficiency 
of commercial banks in Vietnam.
Key words: credit risk, commercial bank, operational efficiency. 
Thao Thi Huong Huynh, PhD.
Faculty of Finance and Accounting, University of Food Industry Ho Chi Minh
động, nhất là các khu công nghiệp.
Năm là, thực tế hiện nay thủ tục vay vốn ngân 
hàng đối với cả cá nhân và doanh nghiệp vẫn 
chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo hoặc bảo lãnh 
và hiểu biết của các cán bộ tín dụng về một 
số ngành nghề sản xuất kinh doanh còn thiếu, 
dẫn đến hạn chế trong việc đánh giá hiệu quả 
của phương án/dự án sản xuất kinh doanh. Do 
đó, các TCTD cần quan tâm đến đào tạo nâng 
cao trình độ của đội ngũ cán bộ nhằm nâng cao 
trình độ thẩm định các dự án, khả năng tư vấn, 
hỗ trợ có hiệu quả đối với hộ nghèo, hộ cận 
nghèo và các đối tượng chính sách trong việc 
xây dựng phương án sản xuất, nhất là kỹ năng 
quản lý tài chính cá nhân. ■
tiếp theo trang 27
cần có (1) Quan điểm ủng hộ của các cấp lãnh 
đạo và sự quyết tâm của Tòa soạn Tạp chí, qua 
đó nhận thức rõ tính cấp thiết, lợi ích gia nhập 
ACI, Nhà trường sẵn sàng hỗ trợ cho kế hoạch 
phát triển Tạp chí (bổ sung nhân sự, áp dụng 
phần mềm quản lý; thiết kế trang Web trực 
tuyến bằng tiếng Anh; chi trả kinh phí phản 
tiếp theo trang 71
biện bài viết); (2) Xác định nguồn kinh phí 
hoạt động từ hỗ trợ của cộng tác viên như ban 
hành chính sách và xác định thời điểm thu phí, 
mức phí xét duyệt/phản biện bài viết, mức phí 
đăng bài, mức phí tải dữ liệu trên Website và 
nguồn kinh phí từ cơ quan quản lý. Tạp chí bản 
tiếng Anh được xuất bản sẽ giúp nâng tầm uy 
tín của Tạp chí bản tiếng Việt, đồng thời nâng 
cao uy tín khoa học của Học viện Ngân hàng 
trong xu hướng hội nhập quốc tế. ■

File đính kèm:

  • pdftiep_can_tai_chinh_toan_dien_tai_cac_tinh_dong_bang_song_hon.pdf