Tìm hiểu một số vấn đề về chữ Nôm và tiếng Việt thể hiện trong văn bản "Hoa tiên nhuận chính" (Phần 2)

TÓM TẮT

Trong những năm gần đây, việc tìm hiểu về chữ Nôm và tiếng Việt lịch sử ngày

càng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong đó, xu hướng đi vào khảo sát, nghiên

cứu và phân tích chữ Nôm cũng như tiếng Việt được thể hiện trong một tác phẩm Nôm

cụ thể đang ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng và đạt được thành tựu rất

khả quan. Vận dụng theo xu hướng nghiên cứu nói trên, chúng tôi đã lựa chọn một văn

bản chữ Nôm cụ thể để đi vào khảo sát, phân tích những vấn đề về chữ Nôm cũng như

tiếng Việt được thể hiện trong văn bản. Văn bản được chúng tôi lựa chọn là tác phẩm

Hoa tiên nhuận chính bằng nguyên bản chữ Nôm. Sở dĩ chúng tôi lựa chọn văn bản này,

vì đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu về các phương diện văn học, ngôn ngữ,

văn tự trong giai đoạn thế kỷ XVIII - XIX. Thông qua việc phân tích chữ Nôm và cách

ghi tiếng Việt được thể hiện trong văn bản, có thể giúp chúng ta tìm ra một số đặc điểm

về cấu trúc chữ Nôm và tiếng Việt cổ được thể hiện trong văn bản.

pdf 11 trang yennguyen 8080
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu một số vấn đề về chữ Nôm và tiếng Việt thể hiện trong văn bản "Hoa tiên nhuận chính" (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu một số vấn đề về chữ Nôm và tiếng Việt thể hiện trong văn bản "Hoa tiên nhuận chính" (Phần 2)

Tìm hiểu một số vấn đề về chữ Nôm và tiếng Việt thể hiện trong văn bản "Hoa tiên nhuận chính" (Phần 2)
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
62 
TÌM HIỂU MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỮ NÔM VÀ TIẾNG VIỆT 
THỂ HIỆN TRONG VĂN BẢN HOA TIÊN NHUẬN CHÍNH (P2) 
TS. Đào Mạnh Toàn1 
ThS. Hoàng Ngọc Cương2 
TÓM TẮT 
Trong những năm gần đây, việc tìm hiểu về chữ Nôm và tiếng Việt lịch sử ngày 
càng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong đó, xu hướng đi vào khảo sát, nghiên 
cứu và phân tích chữ Nôm cũng như tiếng Việt được thể hiện trong một tác phẩm Nôm 
cụ thể đang ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng và đạt được thành tựu rất 
khả quan. Vận dụng theo xu hướng nghiên cứu nói trên, chúng tôi đã lựa chọn một văn 
bản chữ Nôm cụ thể để đi vào khảo sát, phân tích những vấn đề về chữ Nôm cũng như 
tiếng Việt được thể hiện trong văn bản. Văn bản được chúng tôi lựa chọn là tác phẩm 
Hoa tiên nhuận chính bằng nguyên bản chữ Nôm. Sở dĩ chúng tôi lựa chọn văn bản này, 
vì đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu về các phương diện văn học, ngôn ngữ, 
văn tự trong giai đoạn thế kỷ XVIII - XIX. Thông qua việc phân tích chữ Nôm và cách 
ghi tiếng Việt được thể hiện trong văn bản, có thể giúp chúng ta tìm ra một số đặc điểm 
về cấu trúc chữ Nôm và tiếng Việt cổ được thể hiện trong văn bản. 
Từ khóa: Chữ Nôm, âm Hán Việt, âm tiền Hán Việt, tiếng Việt cổ 
(Tiếp theo P1) 
3.2. Dấu vết vần Việt cổ và vần tiền Hán Việt thể hiện qua văn bản 
3.2.1. Dấu vết vần Việt cổ thể hiện qua văn bản 
Dấu vết âm cổ của ngƣời Việt đƣợc ghi lại trong mô hình cấu trúc của chữ Nôm. 
Thông qua hệ thống chữ Nôm phần nào có thể dựng lại đƣợc diện mạo tiếng Việt cổ giúp 
cho việc tìm hiểu quá trình lịch sử phát triển của tiếng Việt [1, tr.91-92]. 
Dựa vào các tiêu chí nói trên để tìm hiểu dấu vết vần Việt cổ trong HTNC, và 
trong khi đi sâu khảo sát về mặt vần chúng tôi đã phát hiện ra khá nhiều trƣờng hợp chữ 
Nôm trong HTNC còn mang dấu vết vần Việt cổ. 
- i > ây, ay, ơi. Ví dụ: 
STT Chữ Nôm 
Chữ HV 
biểu âm 
Âm Nôm Tần số Ví dụ 
1 意/𧘇 í/ý Ấy 21 6b,d11 
2 眉 My/mi Mày 7 24a,d5 
3 悲 Bi Bây 5 26b,d6 
4 尼 Ni Này 20 23b,d5 
1Trƣờng Đại học Đồng Nai 
2Trƣờng Đại học KHXH & NV Tp. Hồ Chí Minh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
63 
Theo GS. Nguyễn Ngọc San và theo Đinh Trọng Thanh, vần ây, ay, ơi Việt vốn 
có nguồn gốc từ i Mƣờng, có thể so sánh: 
 Tiếng Việt Tiếng Mường 
 Đấy Tí (Mƣờng Khến) 
 Vây (cá) Pì (Mƣờng Động) [2, tr.286] 
Ngay trong nội bộ tiếng Việt, i cũng là hình thức cổ hơn ây, ay, ơi. Trong khi ở Bắc 
Bộ phát âm các từ “gầy, mày, này, mới, với, chấy” thì ở phƣơng ngôn Bắc Trung Bộ còn 
phát âm là “ghì, mi, ni, mí, ví, chí” [1, tr.95]. 
- u > âu 
Trong HTNC có hai trƣờng hợp dùng chữ Hán có chính âm u để ghi “âu” Việt, 
nhƣ dùng âm “du” 油 để ghi âm “dầu” (28a,d6) xuất hiện 9 lần, dùng âm “cú” 句 để ghi 
“câu” (38a,d6), xuất hiện 7 lần. 
Những trƣờng hợp dùng chữ Hán có chính âm u để ghi âu là phản ánh chữ Nôm 
còn giữ dấu vết của âm Việt cổ. Có thể so sánh mối tƣơng ứng giữa tiếng Việt và tiếng 
Mƣờng: sâu – su, nâu – nu, bâu – bu, dầu – du [3, tr.172]. Hoặc ở phƣơng ngữ Bắc Bộ 
và Bắc Trung Bộ: bầu – bù, trâu – tru. 
- a > ưa, ươ 
Trong HTNC có 3 trƣờng hợp dùng chữ Hán có vần a để ghi chữ Nôm có vần ưa 
và ươ, nhƣ dùng “lã” 焒 để ghi “lửa” (23b,d5) xuất hiện 8 lần, dùng “mang” 忙 ghi 
“mƣờng” (3a,d3) xuất hiện 1 lần, dùng “chử” để ghi “chƣa” (3b,d5), xuất hiện 16 lần. 
Sự tƣơng ứng giữa a và ưa, ươ còn để lại dấu vết trong phƣơng ngôn Bắc Bộ và 
Bắc Trung Bộ nhƣ: lửa - lả, nƣớng – náng, ngửa - ngả Hoặc khi so sánh giữa tiếng 
Việt với tiếng Mƣờng lại cho thấy mối tƣơng quan giữa a và ươ nhƣ: nƣớc – nác, lƣỡi – 
lãi
[3, tr.173]. 
- ư > ơ 
Trong HTNC cũng còn một số trƣờng hợp dùng chữ Hán có vần ư để ghi chữ 
Nôm có vần ơ. Một số ví dụ: 
STT Chữ Nôm 
Chữ HV 
biểu âm 
Âm Nôm Tần số Ví dụ 
1 /據 Xứ/cứ Cớ 1 27b,d8 
2 魚 Ngƣ Ngơ 1 13b,d3 
3 𢖵 Nhữ Nhớ 9 20a,d8 
4 女 Nữ Nỡ 4 19b,d9 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
64 
Dấu vết của sự tƣơng ứng giữa ư – ươ có thể tìm thấy trong sự so sánh giữa tiếng 
Việt và các phƣơng ngôn Mƣờng: 
 Tiếng Việt Tiếng Mường 
 Tơ Sƣ (Mƣờng Ống) 
 Mơ Mƣ (Mƣờng Khến) [2, tr.285] 
Hay ở Bắc Bộ phát âm các từ: bây giờ, cậu mợ, lờ đờ, thì ở Bắc Trung Bộ còn 
phát âm là: bây chừ, cụ mự, lừ đừ.[3, tr.174] 
3.2.2. Dấu vết vần tiền Hán Việt thể hiện qua văn bản 
Âm tiền Hán Việt có một sự phát triển riêng khác với âm Hán Việt, nó thuộc một 
hệ quy chiếu khác có thể xuất hiện sớm hơn âm Hán Việt ngót chục thế kỷ. Các tác 
phẩm viết bằng chữ Nôm từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV cho đến các 
tác phẩm Nôm ở thế kỷ XX, trong đó có HTNC chẳng những lƣu giữ đƣợc dấu vết vần 
Việt cổ mà còn thể hiện vần tiền Hán Việt nhƣ ở các trƣờng hợp ghi: 
沉Chìm (=trầm): Đành rằng nát ngọc chìm châu (36a,d9). 
謹 Kín (=cẩn): Ngàn non ngậm kín bóng kim (12b,d1). 
急Kíp (=cấp): Rụng rời kíp gọi gia đồng thuốc thang (23b,d7). 
Chính các từ Nôm “chìm, kín, kíp, tìm, kịp, kim” là âm tiền Hán Việt của các từ “trầm, 
cẩn, cấp, tầm, cập, châm” và im – ip là vần tiền Hán Việt của âm - ấp. Điều này đã đƣợc các 
nhà Hán ngữ học nghiên cứu và chứng minh. 
3.3. Từ cổ trong văn bản Hoa Tiên nhuận chính 
3.3.1. Tình hình từ cổ trong Hoa Tiên nhuận chính 
Cũng nhƣ những tác phẩm văn học Nôm ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII trở về 
trƣớc, HTNC còn ghi lại khá nhiều từ Việt cổ. 
Từ Việt cổ - đó là những từ ngữ thuần Việt bình thƣờng đã từng có thời gian đƣợc sử 
dụng phổ biến trong lới nói hàng ngày, nhƣng đến nay qua thời gian sàng lọc chúng không 
còn đƣợc sử dụng mà chỉ còn tồn tại trong các tác phẩm cổ hoặc trong tục ngữ ca dao cổ mà 
chúng ta gọi là các từ Việt cổ. Cổ với ý nghĩa là chúng đã mất đi trong ngôn ngữ hiện đại 
hoặc có xuất hiện thì cũng không còn giữ nghĩa cổ nữa, khiến ngƣời Việt hiện đại không 
còn hiểu đƣợc ý nghĩa của chúng, chứ không phải là những từ ngữ xuất hiện sớm nhất trong 
tiếng Việt (Chính những từ ngữ xuất hiện sớm nhất lại là những từ chúng ta đang dùng hiện 
nay – đó là lớp từ cơ bản nhƣ số đếm, từ trỏ các bộ phận của cơ thể, từ trỏ các hiện tƣợng tự 
nhiên gần gũi với đời sống con ngƣời, từ trỏ các động tác trong sinh hoạt và lao động thô 
sơ) Và nhƣ vậy, nếu hiểu từ Việt cổ nhƣ trên thì từ cổ trong HTNC chỉ có loại từ sau: 
Những từ trước kia được sử dụng như những đơn vị độc lập, mang một nghĩa từ vựng nhất 
định nhưng nay không còn thấy xuất hiện trong các văn bản thành văn nữa. Ví dụ: 
- 幻Ao nghĩa là đong: Đấu nào ao được vơi đầy mà tin (15b,d10). Trong văn bản chữ này 
xuất hiện 1 lần. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
65 
- 直蒙 Chực mòng: là mong nhớ, chờ đợi, (mòng < vọng = mong): Lũ hầu tấp nập 
hả hê chực mòng (6a, d6). Trong văn bản chữ này xuất hiện 1 lần. 
- 詰 Cật: là sát: Cật ngày, Diêu nói tận từ mới nghe (25a,d12). Trong văn bản chữ này 
xuất hiện 1 lần. 
- 𢩵撴 Dẩy dun: may mắn, ngẫu nhiên: Dẩy dun may được như nguyền biết đâu 
(2a,d5). Trong văn bản chữ này xuất hiện 1 lần. 
- 𢥇 Chán: là thẹn: Vẻ hoa vừa chán gót lan vội dời (3b,d4). Trong văn bản chữ 
này xuất hiện 1 lần. 
3.3.2. Bảng thống kê các từ ngữ cổ trong Hoa Tiên nhuận chính 
Dựa vào các tiêu chí nhận diện từ cổ, chúng tôi đã tiến hành thống kê đƣợc 80 từ 
cổ trong văn bản Nôm HTNC. Điều đó chứng tỏ rằng trong HTNC dù sáng tác ở thế kỷ 
XVIII nhƣng vẫn bảo lƣu đƣợc những từ cổ của tiếng Việt. Đây cũng là một cứ liệu 
quan trọng giúp ngƣời nghiên cứu có cái nhìn đúng đắn khi nghiên cứu quá trình phát 
triển của tiếng Việt. 
STT Từ Ý nghĩa Xuất xứ Ví dụ 
1 Áng Đám 962, 1666 
Áng hoa vô chủ đã 
đành từ đây 
2 Ao Đong 690 
Đấu nào ao đƣợc vơi 
đầy mà tin 
3 Ban Lúc, khi, về 
114, 129, 176, 
999, 1641 
Tiệc vầy ban tối khi 
chơi ngoài đƣờng 
4 Bàn mê Bối rối 520 
Rèm đồng khách 
hãy mơ màng 
bàn mê 
5 Bẵng Bằng, giống nhƣ 82, 580, 815, 
Chập chờn xem bẵng 
chiêm bao 
6 Biếng Từ chối 832 
Biếng quan anh cũng 
trải đời nhƣ em 
7 Bợn Vƣơng vấn 
47, 97, 147, 519, 
1730 
Rƣớc mừng chẳng 
bợn tóc tơ mọi điều 
8 Buổi 𣇜 Lúc 130, 289, 362 
Quyến hồn khôn vía 
buổi này đi đâu 
9 Cả Lớn 563 
Chợt đâu bóng cả 
cành dài 
10 Cật Sát 1150 
Cật ngày, Diêu nói 
tận từ mới nghe 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
66 
11 Chác Mua 272, 712, 1423 
Phú Tƣơng Nhƣ dễ 
mấy vàng chác nên 
12 Chác Chuốc lấy 1334 
Bỗng không mua não 
chác sầu mà chơi 
13 Chán 𢥇 Thẹn 102 
Vẻ hoa vừa chán, gót 
lan vội dời 
14 Chề chà 
Khoan thai, cởi 
mở 
387 
Chề chà ông mới hỏi 
sinh 
15 Chỉn Quả thực 838 
Chỉn e lều cỏ biết là 
nên chăng 
16 Chỉnh Sạch sẽ, đẹp đẽ 384 
Vƣờn vừa dọn chỉnh 
khách đà đến chơi 
17 Chốc Chính cống 530 
Phải Hƣơng đấy chốc 
nhìn lâu tỏ chừng 
18 Chợt chã 
Nƣớc mắt rơi lã 
chã 
742 
Chợt nghe chợt chã 
đôi dòng phôi pha 
19 Chực mòng 
Chờ mong, chờ 
đọi, mong mỏi 
226 
Lũ hầu tấp nập hả hê 
chực mòng 
20 Đãi đằng Nói năng, ăn nói 950 
Bây giờ còn dám đãi 
đằng với ai 
21 Dẫn nhàn 
Tìm đến cảnh 
nhàn (xin về hƣu) 
817 
Dẫn nhàn gởi xuống 
bệ rồng 
22 Đắng đót Cay đắng 627 
Duềnh riêng đắng 
đót bấy lâu 
23 Dành dập 
Đành để, ý nói 
nhƣ rấm trƣớc 
770 
Hai là dành dập liệu 
bề mối manh 
24 Dây Kéo dài thời gian 314 
Vụng về chẳng bỏ 
dây cƣời làng thơ 
25 Dẩy dun 𢩵 
Ngẫu nhiên, may 
mắn mà gặp 
32 
Dẩy dun may đƣợc 
nhƣ nguyền biết đâu 
26 Dỉ dang / 
Trò truyện, tâm 
tình với nhau 
207, 1658 
Dỉ dang kể hết đầu 
đuôi sự mình 
27 Diễn / Cách xa 352, 1204 
Non Bồng diễn ngỡ 
mấy mƣơi mƣơi trùng 
28 Dở dói 𢷣𦇒 Xảy ra 591 
Sầu đâu dở dói biếng 
rằng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
67 
29 Độc đƣờng 
Đƣa đƣờng, gây 
nên chuyện 
455, 1358 
Éo le ai dám độc 
đường 
30 Đòi Nhiều 
318, 1125, 1304, 
1733 
Đòi nơi giốc sớm 
địch chiều 
31 Đôi So sánh 691 
Lại khi đôi tuổi kén 
duyên 
32 Dồi dắng Trễ tràng, do dự 1590 
Nếu dồi dắng lại ra 
lờn cợt ngay 
33 Đòi nau 
Nhiều lúc khốn 
khổ 
1138 
Nỗi riêng riêng 
chạnh đòi nau một 
mình 
34 Dù Tùy ý 172 
Liền song sang đó dù 
khi đỡ buồn 
35 Đua đàn 
Đua theo chúng 
bạn 
235 
Vờ chơi Nguyệt cũng 
đua đàn 
36 
Dƣờng 
/nhƣờng bẵng 
Dƣờng bằng, 
dƣờng nhƣ 
82, 580 
Đêm thanh nhường 
bẵng còn ai say cờ 
37 Ê dề𠲖 Đau đớn lắm 1304 
Nghe tin nàng những 
ê dề đòi cơn 
38 Giàng 
Giữ gìn, coi sóc 
cẩn thận 
1010 
Lại sai Dƣơng tƣớng 
giữ giàng việc biên 
39 Gót nguồn 𨃴 
Đầu đuôi, trƣớc 
sau 
1757 
Gót nguồn bàn lại 
mà chơi 
40 Hổ Hổ thẹn 638, 796 
Vừng soi đã hổ có 
trên đỉnh đầu 
41 Hôm dao Ngày càng cách xa 67 4 
Chẳng thà cách trở 
hôm dao nhƣờng này 
42 Hôm tăm 𣋚 Đêm hôm tối tăm 118 
Hôm tăm tạm ngụ 
biết ai đấy mà 
43 Kèo Rót rƣợu mời 335, 1712 
Hầu vui chén hãy kèo 
mau 
44 Khảy 𢭮 Khêu gợi lên 
220, 543, 683, 
902, 1159 
Thấy lời nhƣ khảy 
mối tình 
45 Khóm lòng 𦽔𢚸 Trong lòng, bên lòng 267 
Sởn sơ hoa nở khóm 
lòng 
46 Khỏng khảnh Khệnh khạng 521 Thói quyền khỏng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
68 
𠾶 khảnh là lề 
47 Khúc nôi Nỗi niềm tình cảm 244, 1584 
Thở than Lƣơng mới 
kể rành khúc nôi 
48 Lăm Ƣớc muốn 241, 1227 
Những lăm chắp 
cánh liền cành 
49 Lệ Sợ 
410, 631, 794, 
864, 1001 
Nhà ta coi với lòng ta 
lệ gì 
50 Le te 
Cao thấp, ngắn dài 
không đều 
562 
Le te bên vũng độ 
tầm ngang vai 
51 Lom om 𤋾 Xanh thẫm 73 
Thủy đình rủ bóng 
lom om 
52 Lộng nâm 
Nói những lời lẽ 
thiếu tế nhị, nói 
bừa bãi 
371 
Lộng nâm, Nguyệt 
mới mới kỳ 
53 Lứa đam Lứa đôi 1625 
Rủi may chẳng kẻo 
lứa đam 
54 Lƣợc Từ chối 1471 
Ơn lòng dàm nhẽ 
lược lời 
55 Mách mao 𠼽 
Kể lại chuyện có 
thêm thắt chi tiết 
490 
Dở bề xuýt ải, dở bề 
mách mao 
56 Mảng 𠻵 Nghe thấy 804, 988 
Mái sƣơng chợt 
mảng trên thành 
điểm năm 
57 Mếch 𠼽 
Sứt mẻ, làm cho 
mất lòng 
103, 
Mếch xem chiều 
mỉm mỉm cƣời 
58 Mếch 
Nghiêng, không 
thẳng 
900, 1172 
Trong khoang mếch 
nặng lƣng then chở 
sầu 
59 Ná trò Trò kỳ lạ 1390 
Lại mang lấy tiếng 
ná trò mà chơi 
60 Nghỉ 𢪀 Ngƣời ấy, nó 117 
Mới rồi hẳn nghỉ 
chẳng sai 
61 Nhắc Cân 502, 698 
So ra nhắc giá thanh 
niên ai tày 
62 Nhẫn Đến 340, 605 
Nhẫn nay chừng đã 
đâu thèm nửa sƣơng 
63 Nhơn nhơn 
Uy nghiêm: sắc 
diện không thay 
261, 1657 
Nhơn nhơn chiêng 
lặng điêu chìm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
69 
đổi 
64 Nhòng Cao 512 
Phong tao tài điệu rất 
nhòng ai so 
65 No Đủ, nhiều 243, 1032 
Cậy quanh mãi mãi 
buồn no 
66 Nƣơng Nƣơng tựa 353, 1048, 1477 
Trƣớc hiên nương 
bóng tà song 
67 Pha Đi vào, xuyên qua, 486, 718, 1418 
Vội pha lối cũ thẳng 
giong về lầu 
68 Sam sƣa 𧀜 Vƣợt khuôn phép 248 
Nhủ rằng: ngƣời thế 
sam sưa đã đầy 
69 Soi Gò đất trên sông 46 
Đầu soi bay lộ cuối 
gềnh nổi âu 
70 Sởn sơ 𠮿𠮿 Vui tƣơi, hớn hở 267, 1751 
Sởn sơ hoa nở khóm 
lòng 
71 Tạn Sát một bên 112 
Lòa mây nào ngỡ 
khách man tạn vời 
72 Táo 
Tiếng hót của đàn 
chim 
528 
Táo cành xao xác, 
chiếc chim điểm sầu 
73 Thăn thỉ 𠱈 Năn nỉ, kêu van 743 
Nỗi niềm thăn thỉ 
gần xa 
74 
Thày lay 𢯦 
Gây ra sự phiền 
phức 
146 
Cƣời chăng cƣời nỗi 
thày lay dại càn 
75 Thèm 
Gần, còn kém, còn 
thiếu chút ít thì 
bằng 
340, 833 
Nhẫn nay chừng đã 
đâu thèm nửa sƣơng 
76 Trần trần Trơ ra, ỳ ra 505,1586 
Ấp cây một mực trần 
trần 
77 Tri tri Trơ trơ 687, 1057 
Ngƣời hầu với đá tri 
tri 
78 Xắm nắm Chuẩn bị 33 
Gởi qua xắm nắm 
dƣới lầu 
79 Xƣng xƣng Khăng khăng 1635 
Ví xưng xưng quyết 
lấy mình 
80 Xuýt ải 
Xuýt xoa kêu nhè 
nhẹ 
490 
Dở bề xuýt ải, dở bề 
mách mao 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
70 
Kết quả thống kê từ cổ trong HTNC đã cho chúng ta thấy rằng, việc tìm hiểu các 
tác phẩm văn học Nôm của ông cha ta để lại là một công việc rất khó khăn và phức tạp. 
Bởi vì, ngoài những vấn đề về mặt xác định văn bản chân ngụy, văn bản gốc, tác giả, 
niên đại ra còn có các vấn đề về ngữ âm lịch sử tiếng Việt và các từ ngữ cổ mà các văn 
bản Nôm còn bảo lƣu đƣợc. 
Dựa vào từ điển Nôm cổ chúng tôi đã thống kê đƣợc 80 từ cổ. Điều đó chứng tỏ 
rằng trong HTNC dù sáng tác ở thế kỷ XVIII nhƣng vẫn bảo lƣu đƣợc những từ cổ của 
tiếng Việt. Đây cũng là một cứ liệu quan trọng giúp ngƣời nghiên cứu có cái nhìn đúng 
đắn khi nghiên cứu quá trình phát triển của tiếng Việt. 
Nhìn chung, các từ cổ trong HTNC đã trở nên xa lạ và khó hiểu đối với độc giả 
phổ thông hiện nay nên khi phiên âm chúng ra Quốc ngữ cần phải có sự chú thích rõ 
ràng. 
Qua những nội dung vừa trình bày trên đây chúng ta có thể phần nào hình dung đƣợc 
diện mạo ngữ âm tiếng Việt vào khoảng cuối thế kỷ XVIII thông qua văn bản Nôm HTNC. 
Bởi ngôn ngữ và văn tự là hai hệ thống không thể tách rời nhau, đó là mối quan hệ giữa cái 
biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện. Chữ Nôm trong HTNC đã phản ánh những mối liên hệ ngữ 
âm lịch sử tiếng Việt thể hiện ở phụ âm đầu và vần mà lƣu tích còn để lại trong các phƣơng 
ngôn hoặc các ngôn ngữ họ hàng thân thuộc với tiếng Việt. 
4. Một số nhận xét về giá trị văn tự và sự phát triển của tiếng Việt qua văn 
bản Hoa Tiên nhuận chính 
Qua những vấn đề về văn tự và ngôn ngữ tiếng Việt đƣợc thể hiện trong HTNC 
mà chúng tôi đã trình bày ở trên, chúng tôi cho rằng HTNC thực sự là một tác phẩm rất 
có giá trị về mặt văn tự và ngôn ngữ. 
4.1. Về giá trị văn tự 
 Thông qua quá trình khảo sát về chữ Nôm trong văn bản HTNC, chúng tôi nhận 
thấy rằng, có rất nhiều mã chữ Nôm đã ghi lại một cách tƣơng đối chính xác ngữ âm 
tiếng Việt thời bấy giờ. Những mã chữ Nôm đó, theo sự khảo sát của chúng tôi thì hầu 
nhƣ đã không còn tồn tại trong những văn bản Nôm cùng thời với HTNC và những văn 
bản Nôm ra đời sau HTNC. Nhƣ vậy có nghĩa là, HTNC đã bảo lƣu đƣợc những mã chữ 
Nôm cổ khác biệt với những tác phẩm Nôm cùng thời điểm đó. Và những mã chữ Nôm 
khác biệt này “đã tồn tại một cách đích thực trong một giai đoạn không phải vì bản thân 
nó cố tình tạo ra sự khác biệt so với các văn bản Nôm khác mà vì nhằm cố gắng biểu 
hiện đƣợc bộ mặt của tiếng Việt trong một giai đoạn. Tức là ở chiều sâu bên trong của 
những mã chữ Nôm này – cái thể hiện là diện mạo tiếng Việt ở một thời điểm – cái 
đƣợc biểu hiện. Bởi lẽ, văn tự cũng chỉ là những ký hiệu ghi lại ngôn ngữ”[4, tr.85]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
71 
4.2. Sự phát triển của tiếng Việt qua tác phẩm Nôm HTNC 
Qua những kết quả khảo sát về chữ Nôm và tiếng Việt trong văn bản HTNC, 
chúng tôi cho rằng, HTNC đã ghi lại một cách trung thành ngôn ngữ tiếng Việt qua từng 
thời kỳ phát triển. Nó chính là bƣớc tiếp nối giữa chữ Nôm và tiếng Việt giai đoạn II (thế 
kỷ XVI – XVII) sang giai đoạn III (từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX). 
Song điều đáng ghi nhận là HTNC đã kế thừa đƣợc những thành tựu về mặt ngôn 
từ mà các tác phẩm thơ Nôm trƣớc đó đã đạt đƣợc, nhất là văn học dân gian. Nhiều khi 
ta bắt gặp cả những câu ca dao tục ngữ đƣợc đƣa vào tác phẩm một cách nguyên vẹn. 
Ngoài những câu ca dao, tục ngữ quen thuộc đƣợc ghi lại trong văn bản Nôm 
HTNC, thì tác phẩm này còn bảo lƣu đƣợc một số lƣợng từ cổ khá phong phú. Kết quả 
thống kê của chúng tôi cho thấy số lƣợng từ cổ trong HTNC so với các tác phẩm nhƣ 
Phật thuyết, Thiên Nam ngữ lục đã có phần dễ hiểu hơn và hầu nhƣ gần gũi với tiếng 
Việt hiện đại hơn. Ví dụ, trong Phật thuyết còn tồn tại những từ ngữ cổ nhƣ: Áng (cha), 
bao nả (xiết bao), của (sự việc), dái (sợ), ghê (nhiều) [4, tr.126-127], hay trong Thiên 
Nam ngữ lục còn có những từ nhƣ: bà cắt (chim cắt), bỏ đôn (vứt bỏ), bồ cóc (con cóc), 
chiêu đăm (bên phải, bên trái), chốc mòng (mong đợi), bui (duy, chỉ) [3, tr.182-183], 
nhƣng trong HTNC không còn thấy xuất hiện những từ đó nữa. 
Sự phát triển của tiếng Việt còn đƣợc thể hiện trong HTNC là ở chỗ: rất nhiều 
câu, chữ Hán trong văn bản đã trở thành những điển tích hay những mô típ quen thuộc 
của dòng văn học Trung đại và đã đƣợc HTNC dịch ra tiếng Việt một cách nhuần 
nhuyễn, điêu luyện, ví dụ: 
- Quả mai chi để trên cành bảy ba là từ câu “Phiếu hữu mai, kỳ thực thất hề, kỳ 
thực tam hề”. 
- Y dương liễu, mặt phù dung là từ câu “Phù dung nhƣ diện, liễu nhƣ my”. 
- Vẻ hồng trơ đó, mặt người nào đâu là từ câu “Nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào 
hoa y cựu tiếu đông phong” (Thôi Hộ). 
- Dằng dai bạng duật là câu “Bạng duật tƣơng trì” 
Sự ảnh hƣởng nhƣ trên chứng tỏ tiếng Việt trong HTNC đang ở quá trình tiếp thu và 
đồng hóa khá nhiều từ ngữ gốc Hán. Vay mƣợn nhiều từ gốc Hán là nét chung của những 
tác phẩm Nôm từ thế kỷ XVIII trở về trƣớc, bởi ở giai đoạn này trong chữ Nôm loại chữ giả 
tá vẫn còn chiếm số lƣợng lớn. Càng về sau, tiếng Việt càng phát triển thì nhiều từ gốc Hán 
sẽ bị Việt hóa hoặc đƣợc thay thế bằng những từ thuần Việt. 
Từ những kết quả khảo sát và chứng minh về chữ Nôm và tiếng Việt nói trên, 
chúng ta có thể kết luận rằng: HTNC là một văn bản Nôm có nhiều giá trị về mặt văn tự 
và tiếng Việt lịch sử. Khai thác toàn diện văn bản HTNC nhất định sẽ cung cấp cho 
chúng ta nhiều tƣ liệu đáng tin cậy để tìm hiểu chữ Nôm và tiếng Việt lịch sử. 
Tóm lại, qua tác phẩm này chúng ta có thể phần nào hình dung đƣợc diện mạo của 
chữ Nôm và tiếng Việt ở vào một giai đoạn lịch sử cách chúng ta hơn hai thế kỷ. Việc 
đi sâu vào những tác phẩm tiêu biểu nhƣ HTNC chắc chắn sẽ đem lại nhiều điều bổ ích 
cho quá trình nghiên cứu lịch sử phát triển của chữ Nôm và tiếng Việt trong nền văn 
hóa truyền thống của dân tộc. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 02 - 2016 ISSN 2354-1482 
72 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đinh Trọng Thanh (Chủ biên) (1990), Giáo trình Hán Nôm, Nxb. ĐH và 
THCN, Hà Nội. 
2. Nguyễn Ngọc San (1987), Cơ sở ngữ văn Hán Nôm, Tập IV phần 2, Nxb. Giáo 
Dục, Hà Nội. 
3. Nguyễn Thị Lâm (2006), Chữ Nôm và tiếng Việt qua văn bản Thiên Nam ngữ 
lục, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
4. Hoàng Thị Ngọ (1999), Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại 
báo phụ mẫu ân trọng kinh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
STUDYING SOME PROBLEMS OF “NOM” CHARACTERS 
AND THE VIETNAMESE LANGUAGE USED IN 
HOA TIEN NHUAN CHINH 
ABSTRACT 
In recent years, learning about Demotic script and Vietnamese language history 
has become concerning more and more researchers. In which, the trend in survey, 
research and analysis of Demotic script as well as Vietnamese language written in a 
specific Demotic script work has increasingly been applied by many researchers and 
achieved very positively. Applying research trends mentioned above, we have chosen a 
specific Demotic script text to carry out a survey and analyze the issues in Demotic 
script as well as Vietnamese language written in the text. The Text chosen is “Hoa Tien 
Nhuan Chinh” which was originally written in Demotic script. The reason why we 
choose this text is that it is one of the representatives of the literary aspects such as 
linguistics, writings in period from century XVIII to XIX. Through analyzing Demotic 
script and the way how to write a text in Vietnamese, we can find out some 
characteristics of structure of Demotic script and Ancient Vietnamese language used in 
the text. 
Keywords: Demotic script, sounds of Chinese - Vietnamese word, sounds of pre – 
Chinese Vietnamese word, Ancient Vietnamese language 

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_mot_so_van_de_ve_chu_nom_va_tieng_viet_the_hien_tro.pdf