Tính bất quy phạm trong thơ chữ Hán Nguyễn Du (Trường hợp Thanh hiên thi tập)
Tóm tắt
Nguyễn Du là một trong số những nhà thơ xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam, tác phẩm
của ông là đối tượng chưa bao giờ cũ đối với người nghiên cứu. Thơ ông vừa chứa những đặc điểm của
văn học trung đại, vừa phá vỡ những đặc điểm ấy. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu tính bất quy
phạm trong Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du ở những phương diện như hình tượng thiên nhiên, hình
tượng con người, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, Kết quả nghiên cứu này càng khẳng
định tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Du, đồng thời khẳng định tính bất quy phạm như là một đặc
điểm luôn tồn tại song hành với tính quy phạm của văn học trung đại Việt Nam.
Bạn đang xem tài liệu "Tính bất quy phạm trong thơ chữ Hán Nguyễn Du (Trường hợp Thanh hiên thi tập)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính bất quy phạm trong thơ chữ Hán Nguyễn Du (Trường hợp Thanh hiên thi tập)
66 67 Soá 12, thaùng 3/2014 66 Soá 12, thaùng 3/2014 67 Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên 2.1. Hình tượng thiên nhiên Điều đầu tiên có thể nhận thấy là thiên nhiên trong Thanh Hiên thi tập được thể hiện qua nhiều hình ảnh quen thuộc của văn chương trung đại: trăng, sông, núi, hoa cúc, hoa đào, về mùa thì nhiều nhất là xuân và thu, ngoài ra còn nhiều bài lấy cảm hứng từ những địa danh cụ thể. Nhiều hình ảnh trong số đó được thể hiện ngay ở nhan đề bài thơ. Chúng tôi thống kê được 25 bài có địa danh hoặc những hình ảnh quen thuộc xuất hiện ngay trong nhan đề, chẳng hạn: Quỳnh Hải nguyên tiêu, Xuân nhật ngẫu hứng, Thu chí, Thu dạ, Xuân dạ, Mộ xuân mạn hứng, Vọng phu thạch, Đề Nhị Thanh động, Tuy nhiên, khi xem xét nội dung các bài thơ trên, người viết nhận thấy dù hình ảnh rất “cũ” nhưng qua đó, tác giả thể hiện nội dung không hoàn toàn giống với quy phạm truyền thống của văn chương trung đại. Thiên nhiên hiện diện trong thơ xưa không nhằm mục đích miêu tả, mà chủ yếu mang tính tượng trưng. Nguyên nhân là trong văn học trung đại Việt Nam, nói rộng ra là trong văn học cổ Đông Á, “tả” bao giờ cũng ít hơn “hoài, cảm”, nghĩa là giá trị phản ánh bao giờ cũng thấp hơn giá trị biểu cảm. Những hình ảnh vốn là ước lệ trong văn học trung đại, khi được sử dụng trong Thanh Hiên thi tập, mang đồng thời cả hai đặc điểm quy phạm và bất quy phạm. Chẳng hạn nguyên tiêu trong thơ ông cũng có trăng sáng, trăng cũng được xem như người bạn thân thiết của nhà thơ suốt ba mươi năm, an ủi tấm lòng người lữ khách lúc cô đơn: “Nguyệt dạ không đình nguyệt mãn thiên/()/Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến/ Hải giác thiên nhai tam thập niên” (Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời/()/ Cảm động thay, lúc cùng đường, vẫn được trăng từ xa đến thăm/Trong ba mươi năm nay, dù ở chân trời góc biển) (Quỳnh Hải nguyên tiêu). Nhưng trăng không phải lúc nào cũng hiện lên với vẻ lãng mạn muôn thuở như thế. Trăng cũng có lúc gắn với hiện thực: “Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch” (Vách nát, trăng sáng, rắn mối leo quanh) (U cư). Trăng đi liền với vách nát, với rắn mối để tỏ cái nghèo của nhân vật trữ tình – hình ảnh ấy vừa lãng mạn vừa hiện thực. Một số hình tượng thiên nhiên khác cũng được tác giả sử dụng đầy sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và tâm sự riêng của ông. Mùa thu trong thơ xưa thường gắn với hoa cúc, thu trong Thanh Hiên thi tập cũng có hoa cúc, nhưng hoa cúc lại xác xơ, tàn tạ: “Tây phong thoát mộc diệp/ Bạch lộ tổn hoàng hoa” (Gió tây thổi, lá rụng/ Sương trắng làm hoa cúc xác xơ) (Ký giang bắc Huyền Hư Tử). Có khi hoa cúc tươi tốt thì lại được cảm nhận một cách khá “phàm tục”: “Song ngoại hoàng hoa tú khả xan” (Ngoài cửa sổ hoa cúc vàng tươi tốt có thể ăn được) (Tạp ngâm), và có khi dùng hình ảnh ước lệ với ý phủ định: “Xuân lan thu cúc thành hư sự/ Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên” (Xuân có lan, thu có cúc, đã thành chuyện hão/ Lần lữa đông rét, hè nóng, cướp cả tuổi trẻ) (Tạp thi). Hoa đào cũng không khác gì hơn, rơi rụng tả tơi bên cạnh cổng xiêu, nhà nghèo, vách nát, ao hoang, nước cạn: “Đào hoa đào diệp lạc phân phân/ Môn yểm tà phi nhất viện bần/()/ Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch/ Hoang trì thủy hạc xuất hà ma” (Hoa đào, lá đào rụng tả tơi/ Cánh cổng xiêu vẹo, bên trong là chiếc nhà bần bạc/()/Vách nát, trăng sáng, rắn mối leo quanh/Ao hoang, nước cạn, ếch nhái nhẩy ra) (U cư). Sự miêu tả ở đây cũng không còn tính chất ước lệ, tượng trưng mà đã gần với hiện thực, giống như hình ảnh cóc nhái, giun dế - bằng chứng thực tế cho cảnh nghèo nàn, cô quạnh của kẻ xa quê - trong bài “Bất mị”: “Phế táo tụ hà ma/ Thâm đường xuất khâu dẫn” (Cóc nhái nhóm quanh bếp vắng/Giun từ góc nhà bò ra). Một hình ảnh khác trở đi trở lại trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là hình ảnh ngọn cỏ bồng. Ông thường tự ví mình như ngọn cỏ bồng, loài cỏ thường bị gió bứt khỏi gốc rễ và lăn lông lốc trên những triền cát: “Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng” (Chân không bén rễ, mặc cho chuyển dời như ngọn cỏ bồng) (Mạn hứng II), “Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp/ Tất cánh phiêu linh hà xứ quy?” (Ngọn cỏ bồng lìa gốc, trước luồng gió tây thổi mạnh/ Không biết cuối cùng sẽ bay đến nơi đâu?) (Tự thán I), “Nhất lệ thiên nhai sái đoạn bồng” (Nơi chân trời thương thân như ngọn cỏ bồng lìa gốc mà rơi lệ) (Ngẫu hứng II). Hình ảnh ấy khiến người ta nghĩ đến sự vô định của cuộc đời, sự nhỏ bé của kiếp người trong vũ trụ. Nhưng trong thơ Nguyễn Du, nhất là trong tập thơ này, ngọn cỏ bồng trở thành hình ảnh gắn liền với thân phận và tâm sự của chính tác giả, của người khách phiêu bạt: quê hương thì đã xa mà đích đến thì mờ mịt, chưa biết sẽ còn trôi dạt về đâu. Như vậy, người đọc dễ có cảm giác những hình tượng thiên nhiên như đã nêu trên nếu không phải gắn với hiện thực cơ hàn của tác giả thì dường như cũng chỉ là cái cớ để tác giả bày tỏ tâm sự của mình, tâm sự của một con người cá nhân thuần tuý, những yếu tố chức năng xã hội ở con người đó bị TÍNH BẤT QUY PHẠM TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU (TRƯỜNG HỢP THANH HIÊN THI TẬP) Bùi Thanh Thảo * Tóm tắt Nguyễn Du là một trong số những nhà thơ xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam, tác phẩm của ông là đối tượng chưa bao giờ cũ đối với người nghiên cứu. Thơ ông vừa chứa những đặc điểm của văn học trung đại, vừa phá vỡ những đặc điểm ấy. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu tính bất quy phạm trong Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du ở những phương diện như hình tượng thiên nhiên, hình tượng con người, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, Kết quả nghiên cứu này càng khẳng định tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Du, đồng thời khẳng định tính bất quy phạm như là một đặc điểm luôn tồn tại song hành với tính quy phạm của văn học trung đại Việt Nam. Từ khóa: Tính quy phạm, tính bất quy phạm, hình tượng thiên nhiên, hình tượng con người, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật. Abstract Nguyễn Du is one of the excellent poets of the Vietnamese Medieval Literature. His masperpieces are never old to researchers. His poetry both bears and breaks medieval features. In this writing, the non- normativeness in Thanh Hiên thi tập of Nguyễn Du is studied in some aspects of the natural and human image, artistic time and space. The result of this study affirms both Nguyen Du’s talent and creativeness; and concurrently affirms that the non-normativeness always exists paralelly with the normativeness of Vietnamese Medieval Literature. Keywords: Normative, non-normative, natural image, human image, artistic time, artistic space. * Giảng viên Bộ môn Ngữ Văn, Khoa Khoa học Xã hội & Nhân văn, Trường ĐH Cần Thơ 1. Mở đầu Tính quy phạm trong văn học trung đại là thuật ngữ chỉ những khuôn thước, kiểu mẫu sẵn có, chúng tồn tại như là những nguyên tắc bắt buộc đối với nhà văn nhà thơ. Những quy phạm này rất chặt chẽ, từ ngôn ngữ, thể loại, người sáng tác, mục đích sáng tác, đề tài, ngôn từ cho đến nội dung văn học, chúng nhằm phục vụ mục đích chung là chở đạo, giáo huấn, nói chí của người quân tử. Tất cả những điều đó được kết hợp với những nội dung rút ra từ sách vở thánh hiền tạo nên những chuẩn mực tồn tại lâu bền trong văn học. Tuy nhiên, bao giờ cũng vậy, khi đã có những chuẩn mực thì sẽ có những biểu hiện đi ngược lại chuẩn mực đó, bởi không có gì là tuyệt đối, trong khi bản thân đời sống thực sự phong phú. Tính bất quy phạm ra đời trên cơ sở đó. Có lẽ khác với tính quy phạm, khó có thể thể liệt kê được thế nào là bất quy phạm một cách đầy đủ, hoặc nếu có thì chỉ có thể liệt kê những phương diện chính chứ không thể liệt kê nội dung cụ thể, bởi quy phạm là chuẩn mực, còn bất quy phạm là phá cách, là mỗi người một vẻ không theo khuôn mẫu nào nhất định. Chính vì lẽ đó, biểu hiện của tính bất quy phạm trong sáng tác của mỗi tác giả mỗi khác, và điều đó làm nên nét đặc biệt cho họ, tạo nên cái mà ngày nay chúng ta gọi là cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Ở đây chúng tôi khảo sát Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du cũng không nằm ngoài mục đích đó. 2. Nội dung Thanh Hiên thi tập được Nguyễn Du sáng tác trong khoảng thời gian từ 1786 đến 1804, được chia thành 3 phần nhỏ: Mười năm gió bụi, Dưới chân núi Hồng và Ra làm quan ở Bắc Hà. Đây chính là quãng đời lận đận nhất của Nguyễn Du, vì vậy nó chứa đựng nhiều tâm sự phức tạp. Ở đây, chúng tôi không có tham vọng chỉ ra tường tận mọi biểu hiện bất quy phạm trong tập thơ, chúng tôi chỉ tìm kiếm và đưa ra những nhận định ban đầu về hiện tượng này. Chúng tôi nhận thấy việc tách bạch quy phạm và bất quy phạm là rất khó, kể cả đối với những tác giả thế kỷ XVIII – XIX, bởi hai tính chất này vẫn hoà quyện với nhau trong từng phương diện của tác phẩm. Vì vậy, ở đây chúng tôi không khảo sát mọi phương diện mà chỉ lựa chọn khảo sát những phương diện mà chúng tôi cho là có thể hiện tính bất quy phạm ở một mức độ nhất định. 66 67 Soá 12, thaùng 3/2014 66 Soá 12, thaùng 3/2014 67 Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên 2.1. Hình tượng thiên nhiên Điều đầu tiên có thể nhận thấy là thiên nhiên trong Thanh Hiên thi tập được thể hiện qua nhiều hình ảnh quen thuộc của văn chương trung đại: trăng, sông, núi, hoa cúc, hoa đào, về mùa thì nhiều nhất là xuân và thu, ngoài ra còn nhiều bài lấy cảm hứng từ những địa danh cụ thể. Nhiều hình ảnh trong số đó được thể hiện ngay ở nhan đề bài thơ. Chúng tôi thống kê được 25 bài có địa danh hoặc những hình ảnh quen thuộc xuất hiện ngay trong nhan đề, chẳng hạn: Quỳnh Hải nguyên tiêu, Xuân nhật ngẫu hứng, Thu chí, Thu dạ, Xuân dạ, Mộ xuân mạn hứng, Vọng phu thạch, Đề Nhị Thanh động, Tuy nhiên, khi xem xét nội dung các bài thơ trên, người viết nhận thấy dù hình ảnh rất “cũ” nhưng qua đó, tác giả thể hiện nội dung không hoàn toàn giống với quy phạm truyền thống của văn chương trung đại. Thiên nhiên hiện diện trong thơ xưa không nhằm mục đích miêu tả, mà chủ yếu mang tính tượng trưng. Nguyên nhân là trong văn học trung đại Việt Nam, nói rộng ra là trong văn học cổ Đông Á, “tả” bao giờ cũng ít hơn “hoài, cảm”, nghĩa là giá trị phản ánh bao giờ cũng thấp hơn giá trị biểu cảm. Những hình ảnh vốn là ước lệ trong văn học trung đại, khi được sử dụng trong Thanh Hiên thi tập, mang đồng thời cả hai đặc điểm quy phạm và bất quy phạm. Chẳng hạn nguyên tiêu trong thơ ông cũng có trăng sáng, trăng cũng được xem như người bạn thân thiết của nhà thơ suốt ba mươi năm, an ủi tấm lòng người lữ khách lúc cô đơn: “Nguyệt dạ không đình nguyệt mãn thiên/()/Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến/ Hải giác thiên nhai tam thập niên” (Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời/()/ Cảm động thay, lúc cùng đường, vẫn được trăng từ xa đến thăm/Trong ba mươi năm nay, dù ở chân trời góc biển) (Quỳnh Hải nguyên tiêu). Nhưng trăng không phải lúc nào cũng hiện lên với vẻ lãng mạn muôn thuở như thế. Trăng cũng có lúc gắn với hiện thực: “Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch” (Vách nát, trăng sáng, rắn mối leo quanh) (U cư). Trăng đi liền với vách nát, với rắn mối để tỏ cái nghèo của nhân vật trữ tình – hình ảnh ấy vừa lãng mạn vừa hiện thực. Một số hình tượng thiên nhiên khác cũng được tác giả sử dụng đầy sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và tâm sự riêng của ông. Mùa thu trong thơ xưa thường gắn với hoa cúc, thu trong Thanh Hiên thi tập cũng có hoa cúc, nhưng hoa cúc lại xác xơ, tàn tạ: “Tây phong thoát mộc diệp/ Bạch lộ tổn hoàng hoa” (Gió tây thổi, lá rụng/ Sương trắng làm hoa cúc xác xơ) (Ký giang bắc Huyền Hư Tử). Có khi hoa cúc tươi tốt thì lại được cảm nhận một cách khá “phàm tục”: “Song ngoại hoàng hoa tú khả xan” (Ngoài cửa sổ hoa cúc vàng tươi tốt có thể ăn được) (Tạp ngâm), và có khi dùng hình ảnh ước lệ với ý phủ định: “Xuân lan thu cúc thành hư sự/ Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên” (Xuân có lan, thu có cúc, đã thành chuyện hão/ Lần lữa đông rét, hè nóng, cướp cả tuổi trẻ) (Tạp thi). Hoa đào cũng không khác gì hơn, rơi rụng tả tơi bên cạnh cổng xiêu, nhà nghèo, vách nát, ao hoang, nước cạn: “Đào hoa đào diệp lạc phân phân/ Môn yểm tà phi nhất viện bần/()/ Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch/ Hoang trì thủy hạc xuất hà ma” (Hoa đào, lá đào rụng tả tơi/ Cánh cổng xiêu vẹo, bên trong là chiếc nhà bần bạc/()/Vách nát, trăng sáng, rắn mối leo quanh/Ao hoang, nước cạn, ếch nhái nhẩy ra) (U cư). Sự miêu tả ở đây cũng không còn tính chất ước lệ, tượng trưng mà đã gần với hiện thực, giống như hình ảnh cóc nhái, giun dế - bằng chứng thực tế cho cảnh nghèo nàn, cô quạnh của kẻ xa quê - trong bài “Bất mị”: “Phế táo tụ hà ma/ Thâm đường xuất khâu dẫn” (Cóc nhái nhóm quanh bếp vắng/Giun từ góc nhà bò ra). Một hình ảnh khác trở đi trở lại trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là hình ảnh ngọn cỏ bồng. Ông thường tự ví mình như ngọn cỏ bồng, loài cỏ thường bị gió bứt khỏi gốc rễ và lăn lông lốc trên những triền cát: “Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng” (Chân không bén rễ, mặc cho chuyển dời như ngọn cỏ bồng) (Mạn hứng II), “Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp/ Tất cánh phiêu linh hà xứ quy?” (Ngọn cỏ bồng lìa gốc, trước luồng gió tây thổi mạnh/ Không biết cuối cùng sẽ bay đến nơi đâu?) (Tự thán I), “Nhất lệ thiên nhai sái đoạn bồng” (Nơi chân trời thương thân như ngọn cỏ bồng lìa gốc mà rơi lệ) (Ngẫu hứng II). Hình ảnh ấy khiến người ta nghĩ đến sự vô định của cuộc đời, sự nhỏ bé của kiếp người trong vũ trụ. Nhưng trong thơ Nguyễn Du, nhất là trong tập thơ này, ngọn cỏ bồng trở thành hình ảnh gắn liền với thân phận và tâm sự của chính tác giả, của người khách phiêu bạt: quê hương thì đã xa mà đích đến thì mờ mịt, chưa biết sẽ còn trôi dạt về đâu. Như vậy, người đọc dễ có cảm giác những hình tượng thiên nhiên như đã nêu trên nếu không phải gắn với hiện thực cơ hàn của tác giả thì dường như cũng chỉ là cái cớ để tác giả bày tỏ tâm sự của mình, tâm sự của một con người cá nhân thuần tuý, những yếu tố chức năng xã hội ở con người đó bị TÍNH BẤT QUY PHẠM TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU (TRƯỜNG HỢP THANH HIÊN THI TẬP) Bùi Thanh Thảo * Tóm tắt Nguyễn Du là một trong số những nhà thơ xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam, tác phẩm của ông là đối tượng chưa bao giờ cũ đối với người nghiên cứu. Thơ ông vừa chứa những đặc điểm của văn học trung đại, vừa phá vỡ những đặc điểm ấy. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu tính bất quy phạm trong Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du ở những phương diện như hình tượng thiên nhiên, hình tượng con người, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, Kết quả nghiên cứu này càng khẳng định tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Du, đồng thời khẳng định tính bất quy phạm như là một đặc điểm luôn tồn tại song hành với tính quy phạm của văn học trung đại Việt Nam. Từ khóa: Tính quy phạm, tính bất quy phạm, hình tượng thiên nhiên, hình tượng con người, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật. Abstract Nguyễn Du is one of the excellent poets of the Vietnamese Medieval Literature. His masperpieces are never old ... đời sống con người. Chú thích: (1) Nguyễn Đình Chú, Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt Nam trung cận đại. (2) Lê Thu Yến, Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, trang 185. (3) Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, trang 338. Tài liệu tham khảo Lại Nguyên Ân. 2004. 150 thuật ngữ văn học. NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội. Lê Thu Yến. 1999. Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du. NXB.Thanh niên. TP.HCM. Lê Thước, Trương Chính (biên soạn). 2012. Thơ chữ Hán Nguyễn Du (in lại theo bản 1965). NXB. Văn học. Hà Nội. Lê Trí Viễn. 2001. Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam. NXB.Văn nghệ TP.HCM. Nguyễn Công Lý. 2008. Dạy và học văn học trung đại Việt Nam, đôi điều suy nghĩ. ngonngu.edu.vn. Nguyễn Đình Chú. 1999. Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt Nam trung cận đại. Thiều Chửu. 1998. Hán Việt tự điển. NXB Thành phố Hồ Chí Minh. lượng đáng kể những câu hỏi xuất hiện trong tập thơ này. Theo thống kê ban đầu của chúng tôi, có ít nhất 34 câu hỏi xuất hiện trong 78 bài thơ, trong đó đến 4 bài có 2 câu hỏi ở mỗi bài, cá biệt 1 bài có đến 3 câu hỏi (Vọng phu thạch). Sở dĩ chúng tôi chú ý đến yếu tố này là vì trong thơ xưa thường không nhiều câu hỏi. Điều này được tác giả Lê Thu Yến lý giải là do con người trong thơ Đường “với tầm nhìn thoáng đạt rộng rãi đã nắm bắt được quy luật riêng chung của vũ trụ nên họ không vướng mắc điều gì”, còn Nguyễn Du thì “luôn đau đáu những câu hỏi về cuộc đời, ông mang luôn nỗi niềm đó vào thơ”.2 Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng có thể không phải chỉ có nguyên nhân đó, ít nhất là với Thanh Hiên thi tập. Không phải chỉ vì Nguyễn Du không nắm được quy luật riêng chung của vũ trụ nên mới phải đặt nhiều câu hỏi đến như thế. Trong số 34 câu hỏi mà chúng tôi thống kê được, có câu hỏi thể hiện thái độ ung dung tự tại của tác giả trước cuộc đời: “Đại địa văn chương tuỳ xứ kiến/ Quân tâm hà sự thái thông thông” (Trên mặt đất rộng lớn này, ở đâu không có cảnh đẹp/ Việc gì mà anh phải quá vội vàng?) (Hoàng Mai kiều vãn thiếu), cũng có câu hỏi khẳng định sự an nhiên tự tại trước những bon chen danh lợi của con người: “Như hà thế gian nhân/ Thừa hiểm bất tri úy” (Thế mà sao người thế gian/ Cứ xông pha nơi hiểm nghèo không biết sợ) (Lam giang), “Phù thế vi hoan các hữu đạo/ Khu xa ủng cái thị hà nhân?” (Ở đời mỗi người một cách tìm thú vui/ Lọng đón xe đưa là ai đấy nhỉ?) (Liệp). Tuy nhiên, đại đa số những câu hỏi mà chúng tôi khảo sát được trong tập thơ này lại mang tính chất cá nhân, gồm nỗi buồn thương của nhà thơ khi lìa quê: “Chinh hồng ảnh lý gia hà tại?” (Trong bóng chim hồng bay kia, nhà mình ở đâu?) (Ngẫu hứng II), niềm ao ước gần như tuyệt vọng được về lại nơi “xóm cũ”: “Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ/ Viên hạc hà tòng nhận cựu lân” (Một chiếc áo xanh đi khắp cõi bụi hồng/ Làm sao lại về chơi được với con vượn con hạc ở xóm cũ?) (Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn), cùng với đó là nỗi niềm bơ vơ lưu lạc như ngọn cỏ bồng: “Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp/ Tất cánh phiêu linh hà xứ quy?” (Ngọn cỏ bồng lìa gốc, trước luồng gió tây thổi mạnh/ Không biết cuối cùng sẽ bay đến nơi nào?) (Tự thán I), là lời than thân, là tâm sự thất chí: “Hà sự kiền khôn thác đố nhân” (Làm sao trời đất lại ghen lầm người?) (Tự thán II), “Thiên cao hà xứ vấn?” (Trời cao biết đâu mà hỏi?) (Bất mị), “Bình Chương di hận hà thời liễu?” (Bao giờ mới hết mối hận Bình Chương?) (My trung mạn hứng). Nhiều nhất trong số này là những câu hỏi thể hiện nỗi cô đơn và niềm khao khát mong được sự đồng cảm, mong tìm được tri kỷ tri âm: “Tịch liêu lương dạ dữ thùy đồng” (Đêm đẹp vắng lặng, biết trò chuyện cùng ai) (Trệ khách). Khi sống không biết trò chuyện cùng ai, người còn lo đến cả khi chết không người tưới rượu lên mồ: “Sinh tiền bất tận tôn trung tửu/ Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?” (Lúc sống không uống cạn hồ rượu/ Chết rồi ai tưới rượu trên mồ cho) (Đối tửu), “Ninh tri dị nhật tây lăng hạ/ Năng ẩm trùng dương nhất trích vô” (Biết rồi đây, khi nằm xuống dưới gò phía tây/ Tiết trùng dương đến, liệu có uống được một giọt rượu nào không?) (Mạn hứng). Nỗi lo lắng ấy thật đáng thương. Nó làm hiện lên một con người bơ vơ, cô đơn, lạc lõng không chỉ ở đất khách mà lạc lõng cả trên cõi đời, đến chén rượu cũng tự khuyên mình nên uống cạn, bởi biết khi chết rồi có ai tưới cho chung rượu nào không. Những câu thơ này rất gần với tâm sự trong hai câu kết bài Độc Tiểu Thanh ký rất nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi: “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” (Không biết ba trăm năm sau/ Thiên hạ ai người khóc Tố Như?). Không tìm được tri kỷ cùng thời, người đành phải hy vọng ít nhất cũng được như Tiểu Thanh, ba trăm năm sau còn có được người đồng cảm. Từ “khấp” có nghĩa là nghẹn ngào “khóc không ra tiếng”3. Con người cả đời sống lặng lẽ ấy đến mơ ước cũng lặng lẽ, lặng lẽ nhưng mãnh liệt, chứa đựng niềm khao khát tìm được tấm lòng tri âm. Ngoài ra, trong số các câu hỏi ở tập thơ này còn có những câu hướng về một đối tượng rất đặc biệt: người phụ nữ. Ông cảm thương người ca nữ đất La thành tài sắc một thời, giờ chẳng mấy ai đoái hoài: “Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh” (Thiên hạ ai người thương kẻ bạc mệnh) (Điếu La Thành ca giả). Và đặc biệt là ông bày tỏ niềm thông cảm, yêu thương, xót xa đối với vợ: “Kinh niên bất tương kiến/ Hà dĩ uý tương ti (tư)/ ()/ Đạo lộ hiểm thả ác/ Nhược chất tương hà y” (Bao nhiêu năm không gặp nhau/ Biết lấy gì yên ủi nỗi nhớ mong/()/ Đường đi hiểm trở khó khăn/ Thân yếu đuối biết cậy nhờ ai?) (Ký mộng). Dù đó chỉ là một giấc mơ nhưng hai câu hỏi này cũng chan chứa tình cảm chân thành của nhà thơ, của một người chồng đối với vợ chứ không phải của một kẻ sĩ hay một bậc anh hùng. Chính những điều này càng góp phần vào việc thể hiện điểm khác biệt trong thơ ông. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến vốn không được coi trọng, ca nữ càng bị xem thường, 72 73 Soá 12, thaùng 3/2014 72 Soá 12, thaùng 3/2014 73 Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên vậy mà ông vẫn dành cho họ sự thương xót chân thành, liên cũng là từ xuất hiện khi Nguyễn Du nói về Tiểu Thanh: “Chi phấn hữu thần liên tử hậu” (Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết) (Độc Tiểu Thanh ký). Còn đối với vợ, Nguyễn Du không dành những lời trang trọng khách sáo như phần lớn các nhà thơ trung đại khi nói về vợ mà ông dùng những lời yêu thương, lo lắng, dù chỉ là trong giấc mơ. Như vậy có thể thấy những câu hỏi trong Thanh Hiên thi tập xuất hiện rất nhiều, nhưng thường không hướng về những vấn đề lớn, về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ mà hướng về vấn đề cá nhân của tác giả. Đó là nỗi cô đơn buồn thương, là lòng nhớ quê, thương vợ, là khao khát tìm kiếm một tâm hồn đồng điệu. Dù là ở hình thức hay nội dung thì việc xuất hiện những câu hỏi như thế cũng là một sự phá cách của Nguyễn Du. 3. Kết luận Như nhiều nhà nghiên cứu từng nhận xét, văn học trung đại là nền văn học có tính chất hỗn dung, chứa đựng trong nó nhiều đặc điểm khác biệt, thậm chí trái ngược nhau. Bên cạnh những quy chuẩn chặt chẽ tưởng như không thể vượt thoát được là những sự bứt phá, thay đổi để phù hợp với biến chuyển của xã hội đồng thời thể hiện tài năng của tác giả. Từ thế kỷ XVIII trở đi, văn học chức năng dần nhường chỗ cho văn học nghệ thuật, tức là văn chương thực thụ. Văn học chức năng bị đẩy ra vùng rìa, văn học nghệ thuật tiến vào trung tâm để thực hiện vai trò thực sự của nó đối với đời sống con người. Điều kiện chung này cộng với những biến động của xã hội Việt Nam và hoàn cảnh riêng nhiều trắc trở của Nguyễn Du đã tạo cho thơ ông những nét khác biệt, không hoàn toàn trùng lắp với quy chuẩn đã có. Tuy nhiên cũng phải nói rõ rằng, không phải chỉ đến thời đại này mới có một Nguyễn Du mang tâm trạng u sầu đến vậy. Thời nào, ở đâu cũng có những người anh hùng thất cơ lỡ vận, những bậc trí giả “bất hòa” với thời cuộc, nhưng không phải tất cả họ đều thể hiện vào thơ ca, và đều thể hiện như là một biểu hiện trái với quy chuẩn đương thời. Với Nguyễn Du, tâm trạng cá nhân gắn với thời đại nhiều biến động, với những điều bất như ý của hoàn cảnh cá nhân, cộng với tài năng của ông mới tạo nên những độc đáo, khác biệt, vượt khỏi quy phạm của văn học trung đại. Đến giai đoạn này, chế độ phong kiến đã bộc lộ những hạn chế của nó, những quyền lợi cơ bản của con người trở nên mâu thuẫn với quyền lợi của giai cấp thống trị, con người có điều kiện nhìn nhận rõ hơn về bản thân mình và về những ràng buộc, những suy thoái của chế độ xã hội. Vì vậy, trong Thanh Hiên thi tập chúng ta thấy dấu ấn cá nhân của tác giả hiển hiện rất rõ qua việc thể hiện các hình tượng nghệ thuật, qua giọng điệu, ngôn từ, Ở đó vẫn có sự kế thừa tất yếu những quy chuẩn đã có, nhưng cũng có sự sáng tạo riêng của nhà thơ. Chính điều này làm cho văn học thế kỷ XVIII – XIX trở nên hết sức đặc biệt trong bức tranh văn học trung đại, là tấm gương phản chiếu sinh động những biến chuyển của thời cuộc và tác động của nó đến đời sống con người. Chú thích: (1) Nguyễn Đình Chú, Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt Nam trung cận đại. (2) Lê Thu Yến, Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, trang 185. (3) Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, trang 338. Tài liệu tham khảo Lại Nguyên Ân. 2004. 150 thuật ngữ văn học. NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội. Lê Thu Yến. 1999. Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du. NXB.Thanh niên. TP.HCM. Lê Thước, Trương Chính (biên soạn). 2012. Thơ chữ Hán Nguyễn Du (in lại theo bản 1965). NXB. Văn học. Hà Nội. Lê Trí Viễn. 2001. Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam. NXB.Văn nghệ TP.HCM. Nguyễn Công Lý. 2008. Dạy và học văn học trung đại Việt Nam, đôi điều suy nghĩ. ngonngu.edu.vn. Nguyễn Đình Chú. 1999. Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt Nam trung cận đại. Thiều Chửu. 1998. Hán Việt tự điển. NXB Thành phố Hồ Chí Minh. lượng đáng kể những câu hỏi xuất hiện trong tập thơ này. Theo thống kê ban đầu của chúng tôi, có ít nhất 34 câu hỏi xuất hiện trong 78 bài thơ, trong đó đến 4 bài có 2 câu hỏi ở mỗi bài, cá biệt 1 bài có đến 3 câu hỏi (Vọng phu thạch). Sở dĩ chúng tôi chú ý đến yếu tố này là vì trong thơ xưa thường không nhiều câu hỏi. Điều này được tác giả Lê Thu Yến lý giải là do con người trong thơ Đường “với tầm nhìn thoáng đạt rộng rãi đã nắm bắt được quy luật riêng chung của vũ trụ nên họ không vướng mắc điều gì”, còn Nguyễn Du thì “luôn đau đáu những câu hỏi về cuộc đời, ông mang luôn nỗi niềm đó vào thơ”.2 Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng có thể không phải chỉ có nguyên nhân đó, ít nhất là với Thanh Hiên thi tập. Không phải chỉ vì Nguyễn Du không nắm được quy luật riêng chung của vũ trụ nên mới phải đặt nhiều câu hỏi đến như thế. Trong số 34 câu hỏi mà chúng tôi thống kê được, có câu hỏi thể hiện thái độ ung dung tự tại của tác giả trước cuộc đời: “Đại địa văn chương tuỳ xứ kiến/ Quân tâm hà sự thái thông thông” (Trên mặt đất rộng lớn này, ở đâu không có cảnh đẹp/ Việc gì mà anh phải quá vội vàng?) (Hoàng Mai kiều vãn thiếu), cũng có câu hỏi khẳng định sự an nhiên tự tại trước những bon chen danh lợi của con người: “Như hà thế gian nhân/ Thừa hiểm bất tri úy” (Thế mà sao người thế gian/ Cứ xông pha nơi hiểm nghèo không biết sợ) (Lam giang), “Phù thế vi hoan các hữu đạo/ Khu xa ủng cái thị hà nhân?” (Ở đời mỗi người một cách tìm thú vui/ Lọng đón xe đưa là ai đấy nhỉ?) (Liệp). Tuy nhiên, đại đa số những câu hỏi mà chúng tôi khảo sát được trong tập thơ này lại mang tính chất cá nhân, gồm nỗi buồn thương của nhà thơ khi lìa quê: “Chinh hồng ảnh lý gia hà tại?” (Trong bóng chim hồng bay kia, nhà mình ở đâu?) (Ngẫu hứng II), niềm ao ước gần như tuyệt vọng được về lại nơi “xóm cũ”: “Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ/ Viên hạc hà tòng nhận cựu lân” (Một chiếc áo xanh đi khắp cõi bụi hồng/ Làm sao lại về chơi được với con vượn con hạc ở xóm cũ?) (Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn), cùng với đó là nỗi niềm bơ vơ lưu lạc như ngọn cỏ bồng: “Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp/ Tất cánh phiêu linh hà xứ quy?” (Ngọn cỏ bồng lìa gốc, trước luồng gió tây thổi mạnh/ Không biết cuối cùng sẽ bay đến nơi nào?) (Tự thán I), là lời than thân, là tâm sự thất chí: “Hà sự kiền khôn thác đố nhân” (Làm sao trời đất lại ghen lầm người?) (Tự thán II), “Thiên cao hà xứ vấn?” (Trời cao biết đâu mà hỏi?) (Bất mị), “Bình Chương di hận hà thời liễu?” (Bao giờ mới hết mối hận Bình Chương?) (My trung mạn hứng). Nhiều nhất trong số này là những câu hỏi thể hiện nỗi cô đơn và niềm khao khát mong được sự đồng cảm, mong tìm được tri kỷ tri âm: “Tịch liêu lương dạ dữ thùy đồng” (Đêm đẹp vắng lặng, biết trò chuyện cùng ai) (Trệ khách). Khi sống không biết trò chuyện cùng ai, người còn lo đến cả khi chết không người tưới rượu lên mồ: “Sinh tiền bất tận tôn trung tửu/ Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?” (Lúc sống không uống cạn hồ rượu/ Chết rồi ai tưới rượu trên mồ cho) (Đối tửu), “Ninh tri dị nhật tây lăng hạ/ Năng ẩm trùng dương nhất trích vô” (Biết rồi đây, khi nằm xuống dưới gò phía tây/ Tiết trùng dương đến, liệu có uống được một giọt rượu nào không?) (Mạn hứng). Nỗi lo lắng ấy thật đáng thương. Nó làm hiện lên một con người bơ vơ, cô đơn, lạc lõng không chỉ ở đất khách mà lạc lõng cả trên cõi đời, đến chén rượu cũng tự khuyên mình nên uống cạn, bởi biết khi chết rồi có ai tưới cho chung rượu nào không. Những câu thơ này rất gần với tâm sự trong hai câu kết bài Độc Tiểu Thanh ký rất nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi: “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” (Không biết ba trăm năm sau/ Thiên hạ ai người khóc Tố Như?). Không tìm được tri kỷ cùng thời, người đành phải hy vọng ít nhất cũng được như Tiểu Thanh, ba trăm năm sau còn có được người đồng cảm. Từ “khấp” có nghĩa là nghẹn ngào “khóc không ra tiếng”3. Con người cả đời sống lặng lẽ ấy đến mơ ước cũng lặng lẽ, lặng lẽ nhưng mãnh liệt, chứa đựng niềm khao khát tìm được tấm lòng tri âm. Ngoài ra, trong số các câu hỏi ở tập thơ này còn có những câu hướng về một đối tượng rất đặc biệt: người phụ nữ. Ông cảm thương người ca nữ đất La thành tài sắc một thời, giờ chẳng mấy ai đoái hoài: “Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh” (Thiên hạ ai người thương kẻ bạc mệnh) (Điếu La Thành ca giả). Và đặc biệt là ông bày tỏ niềm thông cảm, yêu thương, xót xa đối với vợ: “Kinh niên bất tương kiến/ Hà dĩ uý tương ti (tư)/ ()/ Đạo lộ hiểm thả ác/ Nhược chất tương hà y” (Bao nhiêu năm không gặp nhau/ Biết lấy gì yên ủi nỗi nhớ mong/()/ Đường đi hiểm trở khó khăn/ Thân yếu đuối biết cậy nhờ ai?) (Ký mộng). Dù đó chỉ là một giấc mơ nhưng hai câu hỏi này cũng chan chứa tình cảm chân thành của nhà thơ, của một người chồng đối với vợ chứ không phải của một kẻ sĩ hay một bậc anh hùng. Chính những điều này càng góp phần vào việc thể hiện điểm khác biệt trong thơ ông. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến vốn không được coi trọng, ca nữ càng bị xem thường,
File đính kèm:
- tinh_bat_quy_pham_trong_tho_chu_han_nguyen_du_truong_hop_tha.pdf