Tình hình tài chính và chính sách cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

TÓM TẮT

Bài viết nhằm đánh giá mối quan hệ giữa tình hình tài chính và chính sách cổ tức của các

ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2013. Dựa

trên việc đánh giá các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính, xem xét thông lệ chi trả cổ tức và thực

tế chi trả cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, qua bài viết cho thấy, chính sách

cổ tức có quan hệ mật thiết với tình hình tài chính của các ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng

thương mại Việt Nam vẫn đang chia cổ tức cao so với lợi nhuận thu được cũng như nhu cầu vốn cho

phát triển. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại được sử dụng

gồm mức độ an toàn vốn, chất lượng tài sản, hiệu quả hoạt động và các tỷ số thanh khoản. Các chỉ

tiêu phản ánh chính sách cổ tức được sử dụng gồm tỷ lệ cổ tức, tỷ lệ chi trả cổ tức và tỷ suất cổ tức.

pdf 18 trang yennguyen 11620
Bạn đang xem tài liệu "Tình hình tài chính và chính sách cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình tài chính và chính sách cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Tình hình tài chính và chính sách cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
43
Tình hình tài chính . . .
TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VÀ CHÍNH SÁCH CỔ TỨC CỦA 
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM 
 Tô Thị Thanh Trúc*
 Nguyễn Thị Diễm Hiền**, Trần Thanh Vũ***
TÓM TẮT
Bài viết nhằm đánh giá mối quan hệ giữa tình hình tài chính và chính sách cổ tức của các 
ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2013. Dựa 
trên việc đánh giá các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính, xem xét thông lệ chi trả cổ tức và thực 
tế chi trả cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, qua bài viết cho thấy, chính sách 
cổ tức có quan hệ mật thiết với tình hình tài chính của các ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng 
thương mại Việt Nam vẫn đang chia cổ tức cao so với lợi nhuận thu được cũng như nhu cầu vốn cho 
phát triển. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại được sử dụng 
gồm mức độ an toàn vốn, chất lượng tài sản, hiệu quả hoạt động và các tỷ số thanh khoản. Các chỉ 
tiêu phản ánh chính sách cổ tức được sử dụng gồm tỷ lệ cổ tức, tỷ lệ chi trả cổ tức và tỷ suất cổ tức.
Từ khóa: ngân hàng thương mại, tình hình tài chính, chính sách cổ tức
FINANCIAL SITUATION AND DIVIDEND POLICY OF 
THE VIETNAMESE BANKING SECTOR
ABSTRACT
The paper study the relationship between the financial position and dividend policy 
of Vietnamese joint-stock commercial banks from 2009 to 2013. Based on the evaluation of the 
indicators reflecting financial position and the analysis of payout policy, the paper shows that there 
exists a association between the dividend policy and the financial performance of Vietnamese banks. 
Another finding is that given the fund requirements to support growth, the Vietnamese commercial 
banks return a large fraction of earnings to their shareholders in dividends.Capital adequacy, asset 
quality, efficiency and liquidity are used as indicators of financial performance of the banks while 
dividend rate, payout ratio and dividend yield as proxies for dividend policy.
Keywords: commercial banking, financial condition, dividend policy
* ThS. GV. Khoa TCNH, Trường ĐH. Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM, Email: tructtt@uel.edu.vn 
** ThS. GV. Khoa TCNH, Trường ĐH. Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM, Email: hienntd@uel.edu.vn 
*** TS. GV. Khoa TCNH, Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương 
44
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Giới thiệu
Đến mỗi mùa đại hội cổ đông, thông tin 
được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu có lẽ 
là những công bố của các công ty về kế hoạch 
chia cổ tức được trình trước đại hội cổ đông. 
Đối với ngành ngân hàng (NH), tại mùa đại 
hội cổ đông năm nay, bên cạnh việc mua bán 
và sáp nhập, xử lý nợ xấu thì chia cổ tức là 
một vấn đề được mong đợi đối với cổ đông. 
Điều này theo nhận định của các chuyên gia, 
trong thời gian qua các NH chia cổ tức ở mức 
thấp so với các công ty phi tài chính, thậm chí 
một số NH trong nhiều năm liền không trả 
cổ tức. Thêm vào đó, theo thông tin từ Ngân 
hàng Nhà nước (NHNN), từ năm 2015 mức 
chia cổ tức của mỗi NH có thể sẽ phụ thuộc 
vào sự chấp nhuận của NHNN sau khi đã xem 
xét kỹ lưỡng chất lượng tài sản và kết quả 
kinh doanh. Có nghĩa là các NH yếu kém với 
tỷ lệ nợ xấu cao hoặc những NH đang trong 
quá trình tái cấu trúc sẽ không được phép trả 
cổ tức. 
Như vậy, cổ tức NH rõ ràng là một thông 
điệp có hiệu lực mạnh mẽ về thực chất hiệu 
quả hoạt động, rủi ro và triển vọng của các 
NH. Ngược lại, việc chi trả cổ tức của NH 
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nội tại của bản 
thân từng NH, tình hình hoạt động chung của 
ngành và những quy định quản lý của nhà 
nước. Bài viết này nhằm đánh giá lại chính 
sách cổ tức của ngành NH trong thời gian qua 
cùng với hiệu quả hoạt động, thanh khoản, nợ 
xấu, chất lượng tài sản của các NH để thấy 
được mối liên hệ giữa các yếu tố tài chính và 
chính sách cổ tức của NH.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp 
nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Cổ tức là phần chi trả của công ty cổ phần 
cho các cổ đông của họ, thường là chi trả lợi 
nhuận. Khi công ty kinh doanh có lời thì công 
ty có thể tái đầu tư hoặc chia lợi nhuận sau 
thuế cho cổ đông, phần lợi nhuận chia cho cổ 
đông được gọi là cổ tức. Hình thức phổ biến 
nhất của cổ tức là tiền mặt, ngoài ra các công 
ty có thể chia cổ tức bằng cổ phiếu. Cổ tức 
thường được phát biểu dưới dạng một số tiền 
cụ thể cho mỗi cổ phiếu (cổ tức trên một cổ 
phiếu), một tỷ lệ phần trăm so với giá cổ phiếu 
(tỷ suất cổ tức), riêng ở Việt Nam, cổ tức được 
phát biểu bằng một tỷ lệ % so với mệnh giá cổ 
phiếu. Những vấn đề liên quan đến chính sách 
cổ tức của một công ty bao gồm: 
 y Công ty nên trả cho cổ đông bao nhiêu 
trong số dòng tiền tự do của mình?
 y Liệu họ nên trả lượng tiền mặt này cho 
cổ đông bằng cách tăng cổ tức chi trả hay 
bằng cách mua lại cổ phần?
 y Họ có nên duy trì một chính sách phân 
phối ổn định và nhất quán, hay chính sách chi 
trả cổ tức nên thay đổi tùy thuộc vào kết quả 
hoạt động của công ty?
Một công ty có thể theo đuổi chính sách 
cổ tức thụ động, chính sách có tỷ lệ chi trả cao 
hoặc thấp. Những tranh luận ủng hộ cho một 
chính sách chi trả nào đó dựa trên cở sở ảnh 
hưởng của chính sách đó đến giá trị tài sản 
của cổ đông.
Theo quan điểm của Miller và Modigliani 
(1961), trong một thị trường vốn hoàn hảo và 
giả định chính sách đầu tư của công ty độc 
lập với quyết định phân phối thì giá trị công 
ty độc lập với chính sách cổ tức. Yếu tố tạo 
nên giá trị doanh nghiệp là các quyết định đầu 
tư, bởi vì quyết định đầu tư tạo ra thu nhập và 
dòng tiền trong tương lai cho doanh nghiệp. 
Các công ty nên chia cổ tức từ lợi nhuận còn 
lại sau khi các dự án NPV dương đã được 
thực hiện.
Myron Gordon (1959) cho rằng cổ tức 
45
Tình hình tài chính . . .
dễ dự đoán hơn lãi vốn, các nhà quản lý có 
thể ổn định cổ tức nhưng họ không thể kiểm 
soát giá cổ phiếu. Và như vậy, khi giữ lại lợi 
nhuận để tái đầu tư, công ty đã thay thế dòng 
cổ tức chắc chắn ở hiện tại cho cổ đông bằng 
một dòng tiền xa hơn, không chắc chắn trong 
tương lai. 
Nghiên cứu của Bhattacharya (1979), 
Miller và Rock (1985), John và William 
(1985) cho rằngtrongđiều kiện bất cân xứng 
thông tin, các nhà quản lý sử dụng việc chi trả 
cổ tức để đưa ra thông tin về triển vọng của 
công ty đến thị trường. Nhà đầu tư sẽ dựa vào 
việc chia trả cổ tức để đánh giá tình hình tài 
chính hiện tại và triển vọng hoạt động tương 
lai của công ty. 
Một tranh luận khác ủng hộ chính sách trả 
cổ tức cao là lý thuyết đại diện, giả định của 
lý thuyết này là các nhà quản lý không phải 
luôn hành động theo lợi ích của cổ đông là 
tối đa hóa giá trị cổ phiếu do có sự mâu thuẫn 
quyền lợi giữa ban điều hành và cổ đông. 
Theo Jensen (1986), khi lợi nhuận giữ lại cao 
các nhà quản lý công ty thường đầu tư vào 
những dự án xấu. Do đó, chính sách cổ tức 
cao làm tăng giá trị công ty bởi vì nó giảm 
dòng tiền tự do mà ban điều hành có thể tùy 
nghi sử dụng và do đó kiểm soát được vấn đề 
đầu tư quá mức.
Ủng hộ cho chính sách chi trả cổ tức thấp 
có lý thuyết chi phí giao dịch. Theo lý thuyết 
này, công ty có thể chịu chi phí cho việc chia 
cổ tức cao, trong khi đó cổ đông cũng có thể 
chịu chi phí trong quá trình nhận cổ tức và tái 
đầu tư thu nhập nhận được này. Khi chi trả cổ 
tức, công ty phải huy động vốn từ bên ngoài 
để đáp ứng các nhu cầu đầu tư và phải chịu 
các chi phí phát hành, nếu công ty phải huy 
động vào thời điểm không thuận lợi, chi phí 
huy động vốn sẽ rất cao. Theo Bhattacharya 
(1979), chi phí giao dịch phát sinh trong việc 
phải dùng đến nguồn tài trợ bên ngoài chính 
là chi phí của cổ tức.
Về mặt lý thuyết, các công ty cổ phần sẽ 
lựa chọn chính sách cổ tức sao cho đạt được 
mục tiêu trong dài hạn là tối đa hóa giá trị tài 
sản của cổ đông trên cơ sở xem xét các yếu tố 
ảnh hưởng đến quyết định cổ tức của họ. Các 
yếu tố này có thể được chia thành bốn nhóm 
chính: (1) quy định quản lý của nước sở tại và 
các ràng buộc trong các khế ước vay nợ, (2) 
tính sẵn có của tiền mặt, (3) các cơ hội đầu tư, 
(4) tính sẵn có và chi phí sử dụng các nguồn 
vốn khác, và (5) các tác động của chính sách 
cổ tức lên chi phí vốn cổ phần. 
Ở Việt Nam theo quy định của Luật Doanh 
nghiệp năm 2005 và năm 2014, công ty cổ 
phần chỉ được trả cổ tức cho cổ đông khi đã 
hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài 
chính khác theo quy định của pháp luật; trích 
lập các quỹ và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy 
định của pháp luật và điều lệ công ty. Sau khi 
trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn phải bảo 
đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ 
tài sản khác đến hạn.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp 
kinh doanh tiền tệ, nguồn vốn chính cho hoạt 
động kinh doanh là tiền gửi của dân cư,những 
thất bại trong hoạt động của một NH có ảnh 
hưởng đến toàn bộ hệ thống NH và của cả nền 
kinh tế. Cho nên quản trị ngân hàng không 
chỉ vì lợi ích của cổ đông, mà quyền lợi của 
người gửi tiền và lợi ích của xã hội cũng cần 
được bảo vệ. Chính vì thế, chính sách cổ tức 
của các NH ngoài việc phải tuân thủ các quy 
định chung áp dụng cho các doanh nghiệp còn 
chịu sự kiểm soát của NH nhà nước. Tại điểm 
a, khoản 2, điều 59 Luật NH Nhà nước đã quy 
định “Tùy theo tính chất và mức độ rủi ro, NH 
Nhà nước được áp dụng các biện pháp như 
46
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
hạn chế chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần, 
chuyển nhượng tài sản; hạn chế việc mở rộng 
phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động; hạn 
chế, đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số 
hoạt động NH đối với đối tượng thanh tra, 
giám sát NH”. Dựa theo đó, từ năm 2012 NH 
nhà nước đã ra chỉ thị “NH nào không trích 
lập đủ dự phòng rủi ro thì không được chia 
cổ tức. NHNN sẽ có biện pháp thanh tra, giám 
sát cần thiết để đảm bảo lợi nhuận của NH 
trước tiên để giải quyết nợ xấu”. Ngay trước 
mùa đại hội cổ đông năm 2015, vào cuối 
tháng 3/2015 vừa qua, NH Nhà nước cũng đã 
yêu cầu các NHTM báo cáo về kế hoạch chi 
trả cổ tức dự kiến năm 2014; trên cơ sở quy 
mô nợ xấu, rủi ro tiềm ẩn, mức độ trích lập 
đủ dự phòng rủi ro theo đánh giá chất lượng 
tín dụng của NH Nhà nước để xác định mức 
chia cổ tức.
Như vậy, đối với ngành ngân hàng, ngoài 
những yếu tố thông thường tác động đến chính 
sách cổ tức, mà quan trọng nhất là khả năng 
sinh lợi,thì những yếu tố đặc trưng đo lường 
sức khỏe tài chính của ngân hàng như độ an 
toàn vốn, chất lượng tài sản, thanh khoản rõ 
ràng có liên quan mật thiết đến quyết định 
chia cổ tức. Các chỉ tiêu tài chính đo lường 
các yếu tố này không chỉ được công bố bởi 
bản thân các NHTM để phục vụ cho việc 
giám sát của các cơ quan chức năng và nội bộ 
ngân hàng mà còn có các giới hạn phải tuân 
thủ do NHNN đưa ra. Dưới đây là cách tính 
toán và hàm ý đánh giá của một số chỉ tiêu.
Mức độ an toàn vốn, thể hiện số vốn NH 
có để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng. Ngân hàng càng chấp nhận nhiều 
rủi ro thì càng đòi hỏi phải có nhiều vốn để 
hỗ trợ hoạt động của ngân hàng và bù đắp tổn 
thất tiềm năng liên quan đến mức độ rủi ro 
cao hơn. Chỉ tiêu này được thể hiện qua các tỷ 
số Vốn tự có/ Tài sản điều chỉnh theo trọng số 
rủi ro, Vốn chủ sở hữu / Tổng tài sản
Chất lượng tài sản, chỉ tiêu tổng hợp nói 
lên chất lượng quản lý, khả năng thanh toán, 
khả năng sinh lời và triển vọng bền vững của 
một ngân hàng. Phần lớn rủi ro trong hoạt 
động ngân hàng đều tập trung ở phía tài sản 
của nó, nên cùng với việc đảm bảo an toàn 
vốn thì vấn đề nâng cao chất lượng tài sản có 
là yếu tố quan trọng đảm bảo cho ngân hàng 
hoạt động an toàn. Chỉ tiêu này bao gồm các 
tỷ số Nợ xấu/Dư nợ, Dự phòng rủi ro tín dụng/ 
Dư nợ, Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng/Dư 
nợ, Dư nợ theo lĩnh vực kinh tế / Tổng dư nợ
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt 
động, nhằm đánh giá hiệu quả kinh doanh và 
mức độ phát triển của một NHTM, bao gồm 
các tỷ số NIM = Thu nhập lãi thuần/Tài sản 
có sinh lời, ROA = Lợi nhuận ròng/Vốn chủ 
sở hữu, ROE = Lợi nhuận ròng/Vốn chủ sở 
hữu, Thu nhập ròng từ lãi / tổng thu nhập, Thu 
nhập từ giao dịch tài chính / Tổng thu nhập, 
Chi phí nhân viên / Tổng chi phí
Các chỉ tiêu phản ánh mức độ thanh 
khoản, bao gồm: Tài sản thanh khoản/tổng 
tài sản, Tài sản thanh khoản / Nguồn vốn ngắn 
hạn. Những ngân hàng thiếu hụt khả năng 
thanh khoản là biểu hiện của tình trạng không 
lành mạnh, ngân hàng đang gặp khó khăn, rất 
dễ rơi vào nguy cơ bị ồ ạt rút tiền của công 
chúng, nghiêm trọng hơn có thể làm sụp đổ 
ngân hàng và tác động xấu đến cả hệ thống. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của bài viết chủ 
yếu là phân tính định tính, thông qua tính toán 
các chỉ số đánh giá hoạt động, thanh khoản, 
chất lượng tài sản và chính sách cổ tức của 
các NH, phân tích diễn biến các tỷ số này qua 
thời gian của toàn bộ các NH trong mẫu phân 
tích. Mẫu dữ liệu cũng được phân chia thành 
47
Tình hình tài chính . . .
các nhóm để có thể tìm thấy được quy luật 
chung theo thời gian và theo nhóm NH. Đầu 
tiên các NH được chia thành hai nhóm: (1) 
có vốn nhà nước (NN) và không có vốn nhà 
nước. Sau đó, nhóm NH không có vốn NN lại 
được theo hai cách. Cách thứ nhất là: (1) có 
chia cổ tức; (2) không chia cổ tức và cách thứ 
hai chia theo tỷ lệ cổ tức, các NH này được 
chia thành 3 nhóm: (1) dưới 5%; (2) từ 5 đến 
10%; (3) trên 10%.
Các tỷ số trong phân tích được tính toán 
từ các số liệu thu thập được ban đầu, sau đó 
được phân nhóm, tính trung bình cho tổng thể 
và từng nhóm. Các tính toán và đồ thị được 
thực hiện bằng excel. 
Các tỷ số chủ yếu được sử dụng phân tích 
được liệt kê dưới đây
Nhóm chỉ tiêu đánh giá chính sách 
cổ tức:
- Tỷ lệ cổ tức = Cổ tức/Mệnh giá cổ phiếu
- Tỷ lệ chi trả cổ tức = Cổ tức một cổ 
phiếu/Lợi nhuận một cổ phiếu (cổ tức năm 
nay, lợi nhuận năm trước)
- Tỷ suất cổ tức = Cổ tức/Giá cổ phiếu
Nhóm chỉ tiêu đánh giá tình hình tài 
chính của NH
- Mức độ an toàn vốn: CAR = Vốn chủ 
sở hữu/ Tài sản có điều chỉnh rủi ro. Nhằm 
bảo vệ người gửi tiền và tăng tính ổn định 
và hiệu quả của hệ thống tài chính, các NH 
thương mại phải tuân theo các quy định về 
an toàn vốn của cơ quan quản lý hoặc của ủy 
ban giám sát NH BASEL. Để đảm bảo tỷ lệ 
an toàn vốn như quy định, các NH có thể phát 
hành thêm cổ phiếu để huy động vốn chủ sở 
hữu hoặc giảm phân phối tiền mặt bao gồm 
chi trả cổ tức, mua lại cổ phiếu và chia thưởng 
cho nhân viên. Như vậy chúng ta có thể kỳ 
vọng rằng những NH có tỷ lệ an toàn vốn thấp 
sẽ hạn chế chi trả cổ tức, trong khi những NH 
vốn đã có tỷ lệ an toàn vốn cao sẽ sẵng lòng 
chia cổ tức ở mức cao hơn.
- Chất lượng tài sản: Tỷ lệ nợ xấu = Nợ 
xấu/Dư nợ, Dự phòng rủi ro tín dụng/ Dư 
nợ, Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng/Dư nợ. 
Phần lớn tài sản của các NH nằm ở các khoản 
cho vay, nên chất lượng tài sản cỏ thể được 
đánh giá qua chất lượng khoản vay, được thể 
hiện qua tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn hay dự 
phòng rủi ro tín dụng. Một NH có tỷ lệ nợ xấu 
cao sẽ bị hạn chế chia cổ tức vì theo quy định, 
NH phải trích lập đầy đủ dự phòng trước khi 
chia cổ tức.
- Hiệu quả hoạt động: NIM = Thu nhập 
lãi thuần/Tài sản có sinh lời, ROA = Lợi nhuận 
rò ... 
NH không có vốn NN 50.01% 24.60% 52.89% 42.50%
Tỷ lệ chia cổ tức = cổ tức năm nay/lợi nhuận năm trước
 Nguồn: Tổng hợp từ BCTC các NHTM được khảo sát
	Ngân hàng có vốn Nhà nước
Trong mẫu phân tích có 4 NHTMCP có vốn nhà nước là BIDV, Vietinbank, Vietcombank và 
MHB. Trong đó, MHB không trả cổ tức trong cả giai đoạn, các thống kê về cổ tức của ba NH 
có vốn NN còn lại thể hiện ở bảng sau.
Bảng 9: Lịch sử trả cổ tức của các NH có vốn Nhà nước
Ngân hàng Năm
Tổng Cổ tức 
(triệu đồng)
DPS 
tiền 
mặt*
EPS
EPS năm 
trước
Tỷ lệ cổ 
tức
Tỷ lệ chia 
cổ tức**
CTG 2011 2,043,709 1,347 3,778 2,867 13.5% 47.0%
VCB 2011 0 0 2,417 3,463 0.0% 0.0%
CTG 2012 0 0 2,531 3,778 0.0% 0.0%
VCB 2012 8,342,702 1,200 1,906 2,417 12.0% 49.6%
BID 2013 532,902 227 1,434 1,419 2.3% 16.0%
CTG 2013 4,194,807 1,600 1,863 2,531 16.0% 63.2%
VCB 2013 2,780,901 1,200 1,881 1,906 12.0% 63.0%
*Cổ tức nhà đầu tư nhận được trong năm từ lợi nhuận năm trước.
**DPS năm nay/EPS năm trước
Nguồn: Tổng hợp từ BCTC các NHTM được khảo sát và thông tin từ www.cophieu68.vn
Bảng 10: Một số tỷ số tài chính của các NH có vốn Nhà nước trả cổ tức
Ngân 
hàng
Năm NIM
Tỷ lệ 
nợ xấu
DPRRTD/
DN
ROE ROA
VCSH/
TTS
Cho vay/
Tiền gửi
CTG 2011 4.4% 0.8% 1.0% 22.0% 1.4% 6.2% 114.1%
VCB 2011 3.4% 2.0% 2.5% 14.7% 1.2% 7.8% 92.2%
CTG 2012 3.7% 1.5% 1.1% 18.3% 1.2% 6.7% 115.3%
VCB 2012 2.6% 2.4% 2.2% 10.7% 1.1% 10.0% 84.8%
BID 2013 2.5% 0.0% 1.6% 12.4% 0.7% 5.8% 115.4%
CTG 2013 3.2% 0.9% 10.7% 1.0% 9.4% 103.2%
VCB 2013 2.3% 0.0% 2.4% 10.7% 1.1% 9.0% 82.6%
 Nguồn: Tổng hợp từ BCTC các NHTM được khảo sát
56
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Nhìn chung trong cả giai đoạn, cổ tức 
trên một cổ phiếu của CTG cao hơn VCB, 
tuy nhiên tỷ lệ lợi nhuận dùng để trả cổ tức 
của VCB lại phần nào cao hơn CTG. Kết 
hợp so sánhcác chỉ tiêu về khả năng sinh lợi 
và đòn bẩy tài chính giữa hai ngân hàng cho 
thấy tất cả các chỉ tiêu của CTG đều cao hơn 
VCB. Như vậy CTG đã tận dụng tốt đòn bẩy 
tài chính, đẩy mạnh hoạt động tín dụng, huy 
động được vốn với chi phí thấp hơn (NIM của 
CTG cao hơn) từ đó mang lại cho cổ đông lợi 
nhuận và cổ tức cao hơn VCB.
	NH không có vốn Nhà nước
Thống kê về số lượng các NH trả cổ tức 
được liệt kê trong bảng dưới đây. Số liệu 
cho thấy số lượng NH không trả cổ tức tăng 
lên từ 4 NH năm 2011 đến 8 NH năm 2013. 
Tỷ lệ cổ tức của đa số các NH dưới 10%, 
riêng năm 2013 chỉ có 2 NH có tỷ lệ cổ tức 
trên 10%. Nếu so với trần lãi suất tiền gửi 
quy định bởi NHNN (14%, 9%, 7% tương 
ứng cho các năm 2011, 2012, 2013) thì tỷ 
lệ cổ tức năm 2011của đa số NH thấp hơn 
nhiều, năm 2012 và 2013 xấp xỉ một nửa 
các NH có chia cổ tức có tỷ lệ cổ tức thấp 
hơn lãi suất. Các NH không trả cổ tức năm 
2011 là PNB, SCB, TCB, PVB; năm 2012 
là NVB, PVB, SCB, SEA, TCB và năm 
2013 là NVB, PNB, SCB, TCB, VAB, VPB, 
PVB, MSB.
Bảng 11: Thống kê số lượng các NH trả cổ tức tiền mặt
2011 2012 2013
Số NH không trả cổ tức 4 5 8
Tổng số NH trả cổ tức 21 20 17
Tỷ lệ cổ tức dưới 5% 9 7 7
Tỷ lệ cổ tức từ 5% đến 10% 7 5 8
Tỷ lệ cổ tức từ 10% đến 15% 5 5 2 (EIB, STB)
Tỷ lệ cổ tức trên 15% 0 3(ACB, EIB, PGB) 0
 Nguồn: Tổng hợp từ BCTC các NHTM được khảo sát
So sánh các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động 
giữa hai nhóm NH có trả cổ tức và không trả 
cổ tức cho thấy rằng nhóm NH có trả cổ tức 
có NIM, ROE, ROA, EPS đều cao hơn nhóm 
không trả cổ tức, sự cách biệt này được duy trì 
trong cả giai đoạn phân tích. 
Bảng 12: Thống kê các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động của 2 nhóm NH có trả cổ tức 
và không trả cổ tức
EPS EPS lag NIM lag ROE lag ROA lag
Năm 2011
Không trả cổ tức 1,430 1,676 1.4% 10.5% 0.8%
Trả cổ tức 1,566 1,493 2.4% 11.0% 1.1%
Năm 2012
Không trả cổ tức 206 932 1.8% 9.1% 0.8%
Trả cổ tức 861 1,625 3.4% 12.1% 1.3%
Năm 2013
Không trả cổ tức 411 395 2.0% 3.4% 0.3%
Trả cổ tức 683 887 3.7% 8.1% 0.9%
 Nguồn: Tổng hợp từ BCTC các NHTM được khảo sát
57
Tình hình tài chính . . .
Bảng 13 dưới đây thể hiện nhóm NH có 
trả cổ tức có độ an toàn vốn, tỷ lệ vốn chủ sở 
hữu và tỷ lệ cho vay trên tổng tiền gửi cao 
hơn, ngược lại các chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu, dự 
phòng rủi ro tín dụng ở nhóm này thấp hơn 
nhóm không trả cổ tức. Điều này cũng nhất 
quán trong suốt giai đoạn phân tích. Dự liệu 
phân tích cho thấy rằng không có sự khác biệt 
đáng kể trong tỷ lệ tài sản thanh khoản trong 
tổng tài sản giữa hai nhóm NH.
Bảng 13: Thống kê các chỉ tiêu đo lường rủi ro và mức độ đòn bẩy của hai nhóm NH 
không có vốn Nhà nước
 CAR lag
Tỷ lệ nợ 
xấu
 lag 
DPRRTD/
Dư nợ
 lag 
VCSH/
TTS 
lag 
Cho vay/
Tiền gửi lag 
Năm 2011
 Không trả cổ tức 11.7% 4.4% 1.3% 10.6% 85.1%
 Trả cổ tức 12.3% 1.6% 1.1% 11.9% 94.0%
Năm 2012
 Không trả cổ tức 11.4% 3.4% 1.5% 10.0% 79.7%
 Trả cổ tức 11.4% 2.1% 1.2% 12.1% 106.8%
Năm 2013
 Không trả cổ tức 12.1% 4.1% 1.7% 10.7% 74.9%
 Trả cổ tức 14.2% 3.3% 1.7% 13.5% 91.7%
 Nguồn: Tổng hợp từ BCTC các NHTM được khảo sát
Như vậy có thể khẳng định các ngân hàng 
đạt hiệu quả hoạt động cao hơn, chất lượng tài 
sản tốt, độ an toàn vốn cao và có thể sử dụng 
tốt tiền gửi huy động được vào hoạt động cho 
vay sẵn sàng chia cổ tức tiền mặt cho cổ đông 
hơn các ngân hàng còn lại.
Quan hệ giữa mức cổ tức chia trả với các 
chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động, độ an toàn vốn 
và chất lượng tài sản càng được thể hiện rõng 
ràng hơn khi các ngân hàng có trả cổ tức được 
chia thành 3 nhóm theo tỷ lệ chia cổ tức: (1) tỷ 
lệ cổ tức dưới 5%, (2) tỷ lệ cổ tức từ 5% đến 
10% và (3)tỷ lệcổ tứctrên 10%. Các số liệu 
trung bình cho thấy thấy EPS, tỷ lệ chi trả cổ 
tức, tỷ suất cổ tức và ROE có quan hệ cùng 
chiều với tỷ lệ cổ tức. Tỷ lệ cổ tức cao là kết 
quả của lợi nhuận cao vả tỷ lệ chi trả cổ tức 
cao. Trong khi đó, tỷ số an toàn vốn CAR 
và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng tài sản 
lại có quan hệ ngược chiều với tỷ lệ cổ tức, 
như vậy các ngân hàng muốn duy trì tỷ lệ an 
toàn vốn và tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao chia cổ 
tức ở mức thấp . Tỷ lệ nợ xấu cho thấy NH 
có tỷ lệ nợ xấu càng cao, chia cổ tức càng ít. 
Các quan hệ trên nhất quán trong suốt 3 năm 
phân tích. 
Bảng14: Thống kê các chỉ tiêu đo lường cổ tức, rủi ro và hiệu quả hoạt động của 3 nhóm NH 
không có vốn Nhà nước
 DPS
EPS 
lag
Tỷ lệ chi 
trả cổ tức
Tỷ suất 
cổ tức
CAR 
lag 
Tỷ lệ nợ 
xấu lag 
ROE 
lag 
VCSH/
TTS lag 
Năm 2011
Tỷ lệ cổ tức < 5% 315 1,265 30.4% 4.1% 22.5% 1.9% 9.1% 13.7%
Tỷ lệ từ 5-10% 753 1,313 74.8% 8.9% 17.9% 1.4% 10.4% 12.9%
Tỷ lệ trên 10% 1,326 2,156 64.0% 13.3% 12.9% 1.3% 14.1% 9.1%
58
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Năm 2012
Tỷ lệ cổ tức < 5% 310 1,389 27.3% 3.7% 27.0% 2.0% 10.1% 14.1%
Tỷ lệ từ 5-10% 503 944 70.2% 8.4% 14.8% 2.6% 8.3% 13.5%
Tỷ lệ trên 10% 1,531 2,258 83.4% 15.8% 11.7% 1.8% 16.2% 9.5%
Năm 2013
Tỷ lệ cổ tức < 5% 212 523 58.4% 2.5% 16.7% 4.5% 7.2% 16.9%
Tỷ lệ từ 5-10% 650 1,083 70.1% 6.3% 11.6% 2.5% 8.3% 11.7%
Tỷ lệ trên 10% 1,247 1,380 94.9% 8.9% 13.0% 1.7% 10.4% 9.1%
 Nguồn: Tổng hợp từ BCTC các NHTM được khảo sát
 4. Kết luận và dự báo cổ tức ngân hàng 
năm 2015
 4.1. Kết luận về quan hệ giữa cổ tức và 
các chỉ tiêu tài chính của NH
Tổng hợp tình hình chia cổ tức của các 
ngân hàng khảo sát có thể rút ra các điểm sau:
- Nhìn chung, các NHTM Việt Nam vẫn 
đang chia cổ tức cao so với lợi nhuận kiếm 
được (bình quân 43% lợi nhuận) và nhu cầu 
vốn cho phát triển. Ngành NH ở Việt Nam vẫn 
là một ngành trẻ, nhu cầu tăng vốn để đảm 
bảo an toàn trong hoạt động và tăng cường 
các nguồn lực để có thể cạnh tranh với các 
tổ chức tài chính nước ngoài đang và sẽ hoạt 
động ở Việt Nam là rất lớn. Một chính sách 
cổ tức hợp lý cho các công ty trong giai đoạn 
phát triển là không chia cổ tức tiền mặt mà 
thay vào đó là cổ tức cổ phiếu. Tuy nhiên, các 
NHTM Việt Nam trong thời gian qua có thể 
nói là rất nỗ lực để mang đến cho cổ đông cổ 
tức như là một lời khẳng định rằng hoạt động 
của NH đang ổn. Các nỗ lực tăng vốn điều 
lệ bằng cách phát hành cổ phiếu mới và tìm 
kiếm đối tác chiến lược đi cùng với chia cổ 
tức tiền mặt. Điều có vẻ nghịch lý này lại là 
lựa chọn tối ưu cho các NH, vì trong điều kiện 
thị trường Việt Nam với những bất cân xứng 
thông tin, hoạt động quản trị công ty chưa tốt 
nhà đầu tư chỉ còn biết nhìn vào cổ tức để 
đánh giá các ngân hàng. Cổ tức cũng là phần 
lợi nhuận quan trọng từ nắm giữ cổ phiếu NH 
đối với các nhà đầu tư trong điều kiện thanh 
khoản và giá cổ phiếu NH suy giảm trong giai 
đoạn 2011 – 2013.
- Cổ tức có quan hệ rất rõ ràng với các 
chỉ tiêu đo lường sức khỏe tài chính của NH. 
Phân tích theo thời gian và theo nhóm NH 
đều cho thấy tỷ lệ cổ tức quan hệ cùng chiều 
với các chỉ tiêu sinh lợi và ngược chiều với 
các chỉ tiêu đo lường chất lượng tài sản.Số 
lượng NH không chia cổ tức tăng lên, và đây 
là các NH có tỷ suất sinh lời thấp, tỷ lệ nợ xấu 
cao, độ an toàn vốn thấp. Trong các NH chia 
cổ tức, NH duy trì CAR và tỷ lệ vốn chủ sở 
hữu cao chia cổ tức ít hơn. Quan hệ giữa tỷ lệ 
cổ tức và tỷ số thanh khoản không nhất quan 
trong 3 năm phân tích.
4.2. Tổng lược tình hình 2014 và dự báo 
cổ tức 2015
Cổ tức năm 2014, cũng không khởi sắc 
hơn năm 2013 do tổng lợi nhuận và ROE năm 
2013 của các NH phân tích đều thấp hơn năm 
2012. Dù vậy, tỷ lệ chi trả cổ tức của các NH 
vẫn tiếp tục cao, các NH lớn dành khoảng 42 
-51% lợi nhuận để chia cổ tức, con số này của 
các NH nhỏ là 60%. Các NH lớn giữ nguyên 
hoặc giảm cổ tức so với năm 2013 thì các NH 
nhỏ hơn lại tăng cổ tức cho cổ đông, ví dụ 
SHB đã trả cổ tức năm 2014 là 7% trong khi 
năm 2013 không trả cổ tức tiền mặt. Một số 
NH tiếp tục có tỷ lệ trả cổ tức thấp hơn lãi suất 
tiền gửi như VCA, MDB, PNB. Ngân hàng 
59
Tình hình tài chính . . .
EIB có lịch sử trả cổ tức cao trên 15% thì năm 
2014 chỉ còn 4% do lợi nhuận cả năm 2013 
chỉ đạt 651 tỷ đồng, giảm gần 70% so với mức 
2117 tỷ đồng của năm 2012, thêm vào đó các 
năm trước NH này phải trích lập dự phòng nợ 
xấu chưa đầy đủ và phải trích nhiều hơn năm 
2013, 2014. Bảng 14 dưới đây so sánh tỷ lệ cổ 
tức 2 năm 2013 và 2014 của một số NH.
Bảng 14: Tỷ lệ cổ tức của một số NH
Ngân hàng VCB ACB BID CTG SHB STB EIB MBB
Tỷ lệ cổ tức 2013 12% 7% 2.27% 16% 0% 8% 14% 10%
Tỷ lệ cổ tức 2014 12% 7% 8.5% 10% 7.5% 12% 4% 7%
Nguồn: 
Năm 2015 này, NHNN đang quyết liệt 
đẩy mạnh tái cơ cấu ngành ngân hàng nên 
có khả năng là NHNN sẽ chặt chẽ hơn trong 
việc kiểm soát tỷ lệ chi trả cổ tức.Cụ thể là 
cuối tháng 3 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã 
có văn bản gửi đến các ngân hàng thương mại, 
yêu cầu báo cáo về kế hoạch chi trả cổ tức dự 
kiến năm 2014; trên cơ sở quy mô nợ xấu, rủi 
ro tiềm ẩn, mức độ trích lập đủ dự phòng rủi 
ro theo đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân 
hàng Nhà nước để xác định mức chia cổ tức.
Như vậy, tỷ lệ cổ tức của mỗi ngân hàng 
sẽ được NHNN thông qua cuối cùng dựa 
theo từng trường hợp. Theo chánh thanh tra 
NHNN Nguyễn Hữu Nghĩa,với cơ chế giám 
sát việc chi trả cổ tức nói trên, Ngân hàng nào 
có kết quả kinh doanh tốt, kiểm soát và xử lý 
nợ xấu tốt, trích lập dự phòng đẩy đủ thì sẽ 
được chi trả cổ tức như dự kiến.
ĐHCĐ của một số ngân hàng trong thời 
gian vừa qua đã chứng kiến việc điều chỉnh tỷ 
lệ cổ tức, trong đó tỷ lệ cổ tức bị giảm xuống 
so với mức đã thông qua trong ĐHCĐ năm 
trước (VIB, ACB). Hiện tại, theo lãnh đạo 
một số NH, tỷ lệ và mức chia cổ tức cụ thể 
vẫn đang trình và chờ Ngân hàng Nhà nước 
xét duyệt. Cho nên nhiều NH có thể sẽ phải 
điều chỉnh tỷ lệ cổ tức sau khi có quyết định 
thông qua cuối cùng của NHNN. 
Theo HSC, NHNN đang xây dựng một 
công thức để tính trần tỷ lệ lợi nhuận trả cổ 
tức cho từng ngân hàng dựa trên nhiều tiêu 
chí khác nhau (trong đó rõ ràng sẽ gồm tiêu 
chí về hệ số an toàn tài chính và tỷ lệ nợ xấu 
(NPL) thực tế ước tính).Mục đích của việc 
áp trần tỷ lệ lợi nhuận dùng để chi trả cổ tức 
cho từng ngân hàng là (1) buộc các ngân hàng 
phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh 
nhằm nâng tỷ lệ lợi nhuận cho trích lập dự 
phòng và/hoặc nâng cao vốn chủ sở hữu; (2) 
tránh khánh khả năng rút vốn tại một số ngân 
hàng yếu kém có tỷ lệ NPL cao.
Từ quan điểm của các NĐT tài chính thì 
đây có thể coi là một động thái tích cực vì điều 
này sẽ giúp đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu 
thông qua tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại nhằm 
tăng cường hoạt động trích lập dự phòng. 
Trong khi đó với sự linh hoạt nhất định trong 
việc áp trần tỷ lệ cổ tức, cổ đông của các NH 
mạnh khỏe hơn có thể được chia cổ tức cao 
hơn trong khi hạn chế cổ đông các ngân hàng 
yếu kém lợi dụng việc trả cổ tức để rút vốn.
60
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo tài chính, Báo cáo thường niên của các NHTM năm 2009-2013.
[2]. T. Basse, S. Reddemann, J. Riegler, J. Schulenburg, Bank dividend policy and the global financial 
crisis: Empirical evidence from Europe. European Journal of Political Economy 34, S25–S31 
(2014).
[3]. Bhattacharya, Sudipto, Imperfect Information, Dividend Policy, and “The Bird in the Hand” Policy, 
The Rand Journal of Economics 10. 1, 259-270 (1979).
 [4]. H. Brigham, Fundamentals of Financial Management, 12Th Edition. South-Western Cengage 
Learning, 456-473 (2012).
[5]. Brealey, Myers và Allen, Principles of Corporate Finance, 10th edition. McGraw-Hill, Irwin, 398-
402 (2011).
[6]. M. Jensen, Agency Costs of Free Cash Flow, Corporate Finance, and Takeover, The American 
Economic Review76, 323-329 (1986).
[7]. M.H., Kỳ vọng gì vào cổ tức ngân hàng 2014, 
ngan-hang-2014-738-348439.htm
[8]. J. Kose, W. Joseph, Dividends, Dilution, and Taxes: A Signalling Equilibrium, The Journal of 
Finance40, 1053- 1070 (1985).
[9]. M. H. Miller, K. Rock, Dividend policy under asymmetric, The Journal of Finance40, 1031-
1051(1985).
[10]. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 Quy định về 
phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để 
xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (2013).
[11]. Ngân hàng Nhà nước Việt nam, Thông tư số 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 Về việc sửa đổi, 
bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 
[12]. Ngân hàng Nhà nước Việt nam,Thông tư số 14/2014/TT-NHNN ngày 20/5/2014 sửa đổi, bổ sung 
một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng 
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN 
ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, (2014).
[13]. N.T., Một số ngân hàng có thể phải điều chỉnh kế hoạch chi trả cổ tức, 
hang/mot-so-ngan-hang-co-the-phai-dieu-chinh-ke-hoach-chi-tra-co-tuc-20150407150533686.chn
[14]. T.C. Nguyễn &T.D.H. Nguyễn, Thực trạng hoạt động và mức độ lành mạnh của các Ngân hàng 
thương mại Việt Nam, Tạp chí phát triển kinh tế26 (02), 02-25 (2015). 
[15]. Quốc hội, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Số: 46/2010/QH12 ngày 16 tháng 6 năm 2010
[16]. Quốc hội, Luật doanh nghiệp 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005
[17]. Quốc hội, Luật Doanh Nghiệp 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014.
[18]. 
[19]. www.sbv.gov.vn/

File đính kèm:

  • pdftinh_hinh_tai_chinh_va_chinh_sach_co_tuc_cua_cac_ngan_hang_t.pdf