Tính tất yếu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt

Ở một thế giới hội nhập, hướng đến nền kinh

tế tri thức và cạnh tranh toàn cầu thì hợp tác quốc

tế trong giáo dục - đào tạo có ý nghĩa sống còn với

mỗi quốc gia. Thông qua hợp tác quốc tế về giáo dục

- đào tạo, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam có một

nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong

bối cảnh hội nhập quốc tế. Phải khẳng định rằng:

Hợp tác quốc tế là một trong những hoạt động hữu

hiệu để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và

nghiên cứu khoa học.

pdf 7 trang yennguyen 7920
Bạn đang xem tài liệu "Tính tất yếu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính tất yếu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo ở Việt Nam hiện nay

Tính tất yếu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo ở Việt Nam hiện nay
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
Số 1/2017 No. 1/2017 
96 
TÍNH TẤT YẾU HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG 
LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
 Nguyễn Thị Tiến 
Khoa Lý luận chính trị, Trường ĐH Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt 
Ở một thế giới hội nhập, hướng đến nền kinh 
tế tri thức và cạnh tranh toàn cầu thì hợp tác quốc 
tế trong giáo dục - đào tạo có ý nghĩa sống còn với 
mỗi quốc gia. Thông qua hợp tác quốc tế về giáo dục 
- đào tạo, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam có một 
nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự 
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong 
bối cảnh hội nhập quốc tế. Phải khẳng định rằng: 
Hợp tác quốc tế là một trong những hoạt động hữu 
hiệu để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và 
nghiên cứu khoa học. 
Từ khóa 
 Hợp tác quốc tế, giáo dục - đào tạo, yêu cầu 
khách quan 
1. Yêu cầu khách quan của việc mở rộng, 
tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục 
- đào tạo ở Việt Nam 
Trong thời kỳ nào, giáo dục - đào tạo 
cũng hết sức quan trọng, là quá trình biến con 
người nguyên bản thành con người của xã hội 
và truyền dạy họ những kiến thức, kinh nghiệm 
nghề nghiệp để đảm bảo sự phát triển toàn 
diện của đất nước; giữ vai trò cân đối giữa tri 
thức và thực tiễn để thích nghi với sự biến đổi 
của xã hội. Và ở một thế giới hội nhập, hướng 
đến nền kinh tế tri thức, cạnh tranh toàn cầu 
thì hợp tác quốc tế trong giáo dục - đào tạo 
càng có ý nghĩa sống còn với mỗi quốc gia cũng 
như mỗi con người. Con người trong quá trình 
hội nhập ngày nay không chỉ cần năng lực lao 
động mà còn cần trang bị các kỹ năng chung 
sống hòa bình trong môi trường đa dạng văn 
hóa, đặc biệt khi mà khối lượng kiến thức nhân 
loại ngày càng gia tăng, thách thức hệ thống 
giáo dục - đào tạo của tất cả các quốc gia trên 
thế giới. Cạnh tranh giữa các quốc gia hiện nay 
là cạnh tranh chất lượng nguồn nhân lực, hay 
chính là cạnh tranh về giáo dục - đào tạo, khoa 
học và công nghệ. Tuy nhiên, cùng sống và tồn 
tại nên các nước vẫn chung tay, cùng nhau tạo 
sự phát triển gắn kết. Hợp tác quốc tế đã giúp 
Việt Nam tiếp nhận những nền giáo dục, khoa 
học kỹ thuật tiên tiến, giúp cải thiện chất lượng 
từ giáo trình, chất lượng quản lý đến giáo viên, 
học sinh, sinh viên 
1.1. Sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, 
mở cửa, tăng cường giao lưu, hợp tác giữa 
các nước trên thế giới 
Toàn cầu hoá như một quá trình không 
thể đảo ngược. Tuy nhiên đó là quá trình định 
hướng được và cần phải định hướng vì sự phát 
triển bền vững của từng quốc gia cũng như 
toàn thế giới. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
Số 1/2017 No. 1/2017 
97 
Yêu cầu định hướng đối với tiến trình 
toàn cầu hoá thuộc phạm vi chính sách phát 
triển của từng quốc gia trên mọi lĩnh vực chính 
trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Trong bối cảnh 
đó, hợp tác giáo dục - đào tạo là một xu thế 
mới trong chính sách phát triển giáo dục - đào 
tạo ở các nước nhằm góp phần định hướng tiến 
trình toàn cầu hoá. 
Toàn cầu hóa tạo nên một thị trường giáo 
dục - đào tạo quốc tế, đòi hỏi các trường, các cơ 
sở giáo dục phải có chương trình đào tạo, cơ sở 
vật chất và đội ngũ giảng viên theo tiêu chuẩn 
quốc tế. Nền giáo dục đại học đã trở thành một 
thị trường cạnh tranh của những nền giáo dục 
hiện đại trên thế giới. Liệu Việt Nam có thể trở 
thành một đối tác, hợp tác một cách có hiệu quả 
và cạnh tranh được với các nước khác hay 
không? Điều này còn phụ thuộc vào chiến lược 
đổi mới của giáo dục - đào tạo, chính sách đầu 
tư, khả năng quản lý và đội ngũ giảng viên. 
Nhưng thực tế cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa 
có trường nào đạt tiêu chuẩn quốc tế. 
Mỗi nước trên thế giới có sự khác nhau 
về chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và dân 
tộc. Các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức, 
Canada là những trung tâm giáo dục lớn trên 
thế giới, hấp dẫn nhiều du học sinh. Những 
trung tâm giáo dục của từng vùng như trường 
Đại học ở Ả Rập cho những người nói tiếng Ả 
Rập, các trường đại học ở Trung Quốc cho 
vùng châu Á. Sự hội nhập, hợp tác quốc tế 
về giáo dục - đào tạo ở từng nước còn phụ 
thuộc nhiều vào sự quan tâm của các đảng 
phái, chính phủ và năng lực kinh tế ở trong 
các nước đó, nó đòi hỏi sự mạnh dạn nhưng 
cũng phải hết sức cẩn trọng 
Càng ngày càng có nhiều người thích du 
học nước ngoài. Lưu lượng thông thường 
khoảng chừng 4,5 triệu sinh viên, trong đó 
80% là từ các nước đang phát triển. Ngay sinh 
viên ở các nước phát triển cũng thích ra nước 
ngoài để học thêm văn hoá bổ sung kiến thức. 
Các giáo sư, nhà nghiên cứu và quản lý giáo 
dục cũng chọn việc ra nước ngoài để giảng dạy 
hoặc trau dồi thêm kiến thức (khoảng 200.000 
người/năm). Làn sóng “di cư trí thức” từ các 
nước đang phát triển đến các trung tâm giáo 
dục trên thế giới. Họ mang theo cả một nền 
văn hoá khác với dân tộc khi trở về nước 
Nhu cầu hợp tác trong giáo dục - đào tạo 
giữa các quốc gia trước quá trình toàn cầu hóa 
đã và đang đòi hỏi phải xây dựng và phát triển 
các khuôn khổ chung về giáo dục - đào tạo cấp 
độ khu vực và quốc tế như: hệ thống giáo dục, 
chuẩn mực về nhà trường, giáo viên, chương 
trình đào tạo, thiết bị, phương tiện dạy học... 
tạo cơ sở thuận lợi cho các chương trình hợp tác 
giáo dục - đào tạo, công nhận tương đương văn 
bằng, chứng chỉ, trao đổi giảng viên, sinh viên, 
chuyển tiếp chương trình đào tạo, kiểm định 
chất lượng... Cùng với quá trình xây dựng và 
hoàn thiện hệ thống chuẩn mực quốc gia, việc 
tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế và khu vực 
là nhu cầu và xu hướng phát triển tất yếu của 
hệ thống giáo dục các nước đặc biệt là các nước 
đang phát triển. Các quan hệ quốc tế và quốc 
gia trong phát triển giáo dục không phải là quan 
hệ đối lập, loại trừ mà là quan hệ tương thích 
nhằm đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của từng 
quốc gia và lợi ích của cộng đồng quốc tế trong 
phát triển giáo dục - đào tạo. Nền giáo dục - 
đào tạo tiến bộ và hiện đại hướng tới hình thành 
và phát triển nhân cách toàn diện cho mỗi con 
người trở thành những công dân, những thành 
viên tích cực của quốc gia và thế giới. 
Trước xu thế toàn cầu hóa, không một 
quốc gia, dân tộc nào có thể “cô lập”, sống tách 
khỏi cộng đồng thế giới. Nghị quyết Đại hội IX 
đã chỉ rõ: Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến 
đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến 
nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng 
nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản 
xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế kinh 
tế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước 
tham gia vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu 
cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu 
thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những 
hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và 
phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân 
tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay 
gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu 
mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự 
giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương” 
[2, tr.64-65]. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
Số 1/2017 No. 1/2017 
98 
Yêu cầu định hướng đối với tiến trình 
toàn cầu hoá thuộc phạm vi chính sách phát 
triển của từng quốc gia trên mọi lĩnh vực kinh 
tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, hợp tác giáo dục 
- đào tạo là một xu thế mới trong chính sách 
phát triển giáo dục - đào tạo ở các nước nhằm 
góp phần định hướng tiến trình toàn cầu hoá. 
1.2. Tác động của cách mạng khoa học 
công nghệ 
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, 
nay là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ 
đã tạo điều kiện cho xu thế “toàn cầu hóa”, 
“quốc tế hóa” phát triển mạnh mẽ. Càng ngày 
sự phân hóa giữa các nước phát triển và chậm 
phát triển càng gia tăng. Tại diễn đàn hợp tác 
và phát triển kinh tế năm 2001, Ban thư ký đã 
có một báo cáo, trong đó nói rằng: những quốc 
gia có chính sách phát triển kinh tế tri thức đã 
tăng trưởng rất nhanh, còn những quốc gia 
khác đã tụt hậu ngày càng rõ rệt hơn. Đầu thế 
kỷ XX, khoảng cách thu nhập bình quân giữa 
nước giàu nhất so với nước nghèo nhất là 10 
lần, thì đầu thế kỷ XXI, khoảng cách đó là 400 
lần. Sự không cập nhật tri thức mới trong quá 
trình lão hóa tri thức tăng tốc, nhất là sự bất 
cập với công nghệ mới, công nghệ cao là yếu 
tố hàng đầu của sự phân hóa phát triển - kém 
phát triển. Khoảng 30 năm lại đây, lượng kiến 
thức nhân loại thu được về khoa học và công 
nghệ bằng tổng số kiến thức đó trong hai ngàn 
năm trước đó. Theo dự báo, đến năm 2020, 
những tri thức khoa học sẽ tăng khoảng 4 lần 
so với năm 2000. 
Để giải quyết bài toán phát triển đầy 
thách thức, Việt Nam phải tính đến yếu tố 
con người, năng lực sáng tạo tri thức mới, từ 
đó cần phải học tập và cập nhật kiến thức 
mới, hòa mình vào với nền tri thức của nhân 
loại để phát triển. 
Công nghệ thông tin đang giúp cho quá 
trình phát triển ở các quốc gia nhanh chóng 
hơn. Công nghệ thông tin với hàng loạt các 
sách báo điện tử, các bản tin, website, email 
đã trở thành các dịch vụ công cộng nhanh nhất. 
Thông tin toàn cầu giúp con người bước vào thế 
giới học vấn rộng lớn. Kiến thức được nhân lên 
gấp bội qua thư viện khổng lồ và vô tận từ máy 
tính. Khả năng cập nhật những tri thức mới 
cũng nhanh chóng. Công nghệ thông tin được 
phát triển sử dụng với hình thức cao hơn, từ 
quảng cáo đến thương mại điện tử và chính 
phủ điện tử ở các nước phát triển. Những quốc 
gia coi trọng công nghệ thông tin đã được lợi 
vô cùng lớn trong việc tiếp nhận những tri thức. 
Ngược lại, thực tế ở những nước chưa có đủ 
điều kiện phát triển công nghệ thông tin thì nền 
giáo dục cũng phát triển kém và hệ quả kéo 
theo là nền kinh tế cũng trì trệ. 
Công nghệ thông tin đặc biệt giúp cho sự 
phát triển của các trung tâm đào tạo từ xa, 
nhanh chóng và thuận lợi đưa bài giảng đến 
từng người ở các vùng xa xôi hay thoả mãn bất 
cứ thời gian nào của người ham học nhưng bận 
rộn. Nhiều trường đã thực hiện các chương 
trình đào tạo từ xa chất lượng và uy tín... 
Tuy nhiên, hiện nay không phải quốc gia nào 
cũng có điều kiện phát triển công nghệ thông 
tin, Việt Nam đang tích cực và cố gắng không 
ngừng để tiếp nhận tri thức qua kênh công nghệ 
thông tin nhưng chưa thực sự hiệu quả 
1.3. Nhu cầu phát triển đất nước nói 
chung và mở rộng, tăng cường hợp tác 
quốc tế trong giáo dục - đào tạo nói riêng 
Thành tựu phát triển đất nước từ sau khi 
đổi mới đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm 
thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của 
nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc 
và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và 
uy tín của nước ta trên trường quốc tế. 
Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam có nền 
kinh tế tăng trưởng khá, thoát ra khỏi nước 
khu vực nước kém phát triển. Văn hoá, xã 
hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân 
tiếp tục được cải thiện. Tình hình chính trị - 
xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an 
ninh được tăng cường. Công tác xây dựng, 
chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống 
chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại 
không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh 
tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt 
nhiều kết quả tốt. Trước xu thế hội nhập 
quốc tế, Việt Nam đi lên từ một nước nghèo 
và lạc hậu nên càng không thể đứng ngoài 
thế giới. Bắt đầu từ thế kỷ XXI, Việt Nam 
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
Số 1/2017 No. 1/2017 
99 
vẫn còn đi sau các nước ở nhiều mặt, là một 
nước nông nghiệp, dân số đông, năng lực 
lao động thấp, tuy nhiên, lại có lợi thế về 
nguồn nhân lực. 
Bảng 1: Dự báo một số chỉ tiêu cơ bản về phát triển nhân lực đến 2020 
Chỉ tiêu 2005 2010 2015 2020 
1. Lực lượng lao động làm việc 
trong nền kinh tế –Tổng số/ 
(1000 người) 
43.456 45.750 47.500 48.500 
2. Tỷ lệ lao động qua đào tạo 
(%) 
24,8 40,0 50,0 60,0 
3. Số người được đào tạo kỹ năng nghề nghiệp trình độ cao 
- Hoạch định chính sách 12.000 15.000 18.000 20.000 
- Giảng viên đại học 47.700 70.000 120.000 200.000 
- Khoa học – công nghệ 30.000 40.000 60.000 100.000 
- Y tế, chăm sóc sức khỏe 51.500 60.000 70.000 80.000 
 Nguồn: Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam 
Trước kia, giá nhân công ở Việt Nam 
rẻ hơn so với một số nước ở khu vực là một 
lợi thế nhưng hiện nay đặc điểm này không 
còn là yếu tố hấp dẫn đối với nhà đầu tư 
nước ngoài mà họ đang chuyển hướng vào 
những nước có nguồn nhân lực tay nghề cao, 
nền chính trị ổn định và tay nghề tốt. Đây là 
một điều không mấy lợi thế cho sức cạnh 
tranh về nguồn nhân lực của Việt Nam nói 
riêng và sức cạnh tranh kinh tế nói chung. 
Nhu cầu phát triển nhanh giáo dục - đào tạo 
đòi hỏi sự đáp ứng của quá trình công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh 
tế theo chiều sâu tri thức với công nghệ tiên 
tiến và hội nhập quốc tế, trong khi nguồn 
lực đầu tư cho giáo dục có giới hạn sẽ tạo 
sức ép đối với phát triển giáo dục - đào tạo. 
Nguy cơ tụt hậu có thể làm cho khoảng 
cách kinh tế, tri thức, giáo dục – đào tạo giữa 
Việt Nam với các nước ngày càng gia tăng. Để 
trở thành một nước công nghiệp tiên tiến, 
với xuất phát điểm là nền kinh tế nông 
nghiệp lạc hậu và chỉ vừa đạt được một số 
thành tựu kinh tế nhất định thì Việt Nam cần 
phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó đào 
tạo nguồn nhân lực có tư duy phù hợp với 
nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa là 
một trong những vấn đề tất yếu cần giải 
quyết. Để giải quyết những nhược điểm của 
nguồn nhân lực Việt Nam thì nền giáo dục - 
đào tạo có đáp ứng được hay không, hay cần 
sự giúp đỡ từ các nước tiên tiến? Dựa trên 
những điều kiện khách quan cũng như chủ 
quan, Việt Nam đã sớm nhận ra rằng muốn 
tiến lên để hòa nhập với phát triển toàn cầu 
thì Việt Nam cần phải mở rộng quan hệ 
ngoại giao với các nước trong khu vực cũng 
như trên thế giới về mọi mặt để tranh thủ sự 
giúp đỡ của quốc tế trong đó có lĩnh vực giáo 
dục - đào tạo. 
Xu hướng toàn cầu hoá đang đặt ra 
những tiêu chuẩn quốc tế cho nguồn nhân 
lực có trình độ cao. Nền giáo dục Việt Nam 
còn lạc hậu, phải đối mặt với một thách 
thức nặng nề đó là vấn đề: “tồn tại hay 
không tồn tại”. 
Những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan 
trọng và bức thiết đã và đang đặt ra những 
yêu cầu, những nội dung rất mới, rất cao về 
nguồn lực con người, với những giá trị mới, 
tiêu chí mới về phẩm chất và năng lực của 
mỗi con người và cả cộng đồng. 
Nhận thức đúng sức mạnh dân tộc và 
sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh, 
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quán triệt bài học 
về: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức 
khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc 
với sức mạnh thời đại 7 trong điều kiện mới. 
Phát huy nội lực xem đây là nhân tố quyết 
định đối với sự phát triển; đồng thời coi 
trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông 
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
Số 1/2017 No. 1/2017 
100 
qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ 
các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực 
mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp 
để phát triển đất nước nhanh và bền vững, 
trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định 
hướng xã hội chủ nghĩa [3, tr.72-73] 
Thách thức trước nguy cơ tụt hậu xa 
hơn về giáo dục - đào tạo với khu vực và thế 
giới kéo theo nguy cơ tụt hậu về kinh tế so 
với các nước phát triển ngày càng lớn. Hợp 
tác quốc tế hội nhập thế giới đồng nghĩa với 
việc tăng lựa chọn quốc tế cho người học. 
Nếu các cơ sở giáo dục - đào tạo trong nước 
không đáp ứng được chất lượng, người học 
có năng lực sẽ lựa chọn các cơ sở giáo dục - 
đào tạo ngoài nước và sẽ làm cho các cơ sở 
giáo dục - đào tạo trong nước gặp khó khăn 
hơn trong việc tiếp cận các chuẩn mực giáo 
dục - đào tạo quốc tế 
Trước nhu cầu phát triển đất nước để 
sánh ngang với các nước trên thế giới, với vị 
thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày 
nay, Việt Nam hiện nay cần phải hợp tác 
quốc tế về giáo dục - đào tạo, cùng với các 
lĩnh vực khác. Đây là cơ hội để giáo dục Việt 
Nam tiếp cận với xu thế tất yếu, thực hiện 
việc trao đổi kinh nghiệm và xây dựng một 
nền giáo dục – đào tạo tiên tiến bắt kịp với 
thế giới và khu vực. 
2. Tình hình hợp tác quốc tế trong giáo 
dục - đào tạo ở Việt Nam cũng đặt ra 
những yêu cầu mới 
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 
từ năm 1986 đã thực sự mở ra một thời kỳ 
mới trong lịch sử nước ta, nền giáo dục - đào 
tạo cũng có những chuyển biến căn bản. 
Xuất phát từ quan điểm cơ bản là sự nghiệp 
giáo dục phải phù hợp với sự nghiệp phát 
triển kinh tế, yêu cầu của công cuộc đổi mới 
giáo dục phải phù hợp với công cuộc đổi mới 
toàn diện nền kinh tế - xã hội, ngay năm 
1987, ngành giáo dục - đào tạo đã tập trung 
thảo luận và đề xuất phương hướng đổi mới. 
Đánh dấu giai đoạn mới này là thông 
điệp ngoại giao do Đại hội Đảng Cộng sản Việt 
Nam lần thứ VII (1991) gửi đi, trong đó khẳng 
định: “Việt Nam thực hiện chính sách đối 
ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương 
hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn 
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế 
giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát 
triển” [3, tr.119]. Vì thế, cùng với những 
bước chuyển quan trọng trong quan hệ quốc 
tế, cụ thể là việc bình thường hoá quan hệ 
ngoại giao với Hoa Kỳ (12/7/1995), Việt 
Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN 
(28/7/1995), nước ta ký hiệp định khung về 
hợp tác với Liên minh châu Âu 
(17/7/1995), 
Từ năm 2000, Việt Nam đã ban hành các 
văn bản pháp lý khuyến khích sự hiện diện 
thương mại của các nhà cung ứng giáo dục 
nước ngoài theo cơ chế vì lợi nhuận và không 
vì lợi nhuận, dưới các hình thức văn phòng đại 
diện, cơ sở liên kết và cơ sở 100% vốn nước 
ngoài. Mặt tích cực của nó là đã thúc đẩy tiến 
trình đa dạng hoá giáo dục, đáp ứng nhu cầu 
học tập của một bộ phận người học thuộc các 
gia đình có thu nhập cao, khuyến khích sự du 
học tại chỗ. 
Từ năm 1986 đến năm 1990, mỗi năm ta 
gửi được 4.400 lưu học sinh trong đó có 2.400 
ở bậc đại học, sau đại học và 2.000 ở bậc trung 
học chuyên nghiệp và dạy nghề đi Liên Xô và 
các nước Đông Âu. Đến đầu năm 1990, các nước 
thuộc: Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa 
Đông Âu đã đào tạo cho Việt Nam 6.500 Phó 
Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ), 238 Tiến sĩ (nay là Tiến 
sĩ khoa học), 34.000 sinh viên Đại học và 
72.000 công nhân học nghề. Đây là những con 
số to lớn ghi nhận công lao và tình cảm quý báu 
của Nhà nước và nhân dân các nước anh em đã 
giúp Việt Nam trong những năm tháng khó khăn 
mọi bề và mãi mãi không quên. 
Từ năm 1987 đến năm 1999, khoảng 
16.000 lưu học sinh đã được cử đi học nước 
ngoài và phân bố ở những khu vực địa lý 
như sau: Liên Xô-Đông Âu 53,29%, Tây 
Bắc Á 30,6%, Australia-Newzealand 6,8%, 
Mỹ-Canada 0,9%, châu Phi-Mỹ Latinh 
0,32%... lưu học sinh được cử đi đào tạo 
bằng nhiều hình thức học bổng khác nhau, 
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
Số 1/2017 No. 1/2017 
101 
thông qua các dự án, các chương trình hợp 
tác song phương... 
Năm 1999 - 2000, CIDA (Canadia 
International Development Agency) của 
Canada đã tài trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo 
một dự án trị giá khoảng 500.000 đôla 
Canada để nâng cao năng lực xây dựng 
chính sách và chiến lược giáo dục Việt Nam. 
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đón khoảng 
400 lượt khách quốc tế, đến năm 1995 là 
1.500 lượt, năm 1996 là 2.400 lượt và ngày 
càng tăng lên. Trong số đó có 40% vào để trao 
đổi, hợp tác nghiên cứu khoa học và đào tạo, 
còn lại 60% số khách vào để giao lưu và tham 
gia các hoạt động văn hóa, giáo dục vào mỗi 
năm cuối thập kỉ 80. 
Từ năm 2000 đến năm 2007 trong tổng 
số 2.684 lưu học sinh được tuyển chọn đi học 
tại 30 nước của đề án 322, số lượng được gửi 
đi đào tạo nhiều nhất là ở Nga (496 người), 
tiếp đó là Úc (357 người) và Mỹ (334 người), 
chiếm tỉ lệ cao nhất là các ngành khoa học kỹ 
thuật (41,49%), khoa học tự nhiên (14,55%), 
quản lý kinh tế (14,42%)... Trong giai đoạn 2 
đề án 322 (kéo dài từ năm 2006 và kết thúc 
vào năm 2014 với kinh phí dự kiến là 260 tỉ 
đồng/năm), từ nay đến năm 2010, mỗi năm 
Bộ Giáo dục - Đào tạo cấp 400 suất học bổng, 
trong đó 50% là để đào tạo bậc tiến sĩ tại các 
nước tiên tiến như: Mỹ, Canada, Anh, Đức, 
Pháp, Hà Lan, Liên bang Nga, Úc, New 
Zealand, Nhật Bản, Hàn Quốc. Năm 2009, 
nước ta đã có mối quan hệ liên kết đào tạo với 
khoảng 60 nước, 36 tổ chức quốc tế; 200 
chương trình liên kết đào tạo ở những mức độ 
khác nhau. Năm 2011, có khoảng 60.000 du 
học sinh Việt Nam đang theo học tại các cơ sở 
đào tạo nước ngoài. Những ngành nghề được 
ưu tiên đào tạo bao gồm công nghệ thông tin, 
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công 
nghệ nano, công nghệ cao. Năm 2014, nước 
ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng 
trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, đồng thời vấn 
đề hợp tác quốc tế được triển khai một cách 
toàn diện, phục vụ cho chính sách đối ngoại 
đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam. 
Việt Nam đã cử nhiều cán bộ đi giảng dạy, 
nghiên cứu, nâng cao trình độ ở nhiều quốc 
gia khác nhau trên thế giới, qua đó chúng ta 
đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao... 
Số sinh viên đi du học ngày càng tăng, trong 
đó ở Mỹ có đến 16.000 học viên và sinh viên 
Việt Nam theo học, đưa Việt Nam trở thành 
một trong những nước có nhiều sinh viên du 
học nhất tại Mỹ. Số sinh viên Việt Nam theo 
học tại các quốc gia khác cũng tăng mạnh như 
Úc, New Zeland, các nước truyền thống châu 
Âu và trong khu vực ASEAN. Với tư cách là 
thành viên trong mạng lưới các trường Đại học 
ASEAN, Việt Nam tăng cường hợp tác với các 
nước trong khu vực trao đổi sinh viên, hướng 
sinh viên học tập, tìm hiểu về văn hóa, lịch sử 
và ngôn ngữ các nước, nhằm xây dựng Cộng 
đồng văn hóa - xã hội ASEAN. Năm 2014, 
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, 
nhiều chương trình, dự án cụ thể về hợp tác 
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đã tiếp 
tục được triển khai, điển hình là “Chương trình 
911”, tiếp nối “Chương trình 322” trước đây, 
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở trình 
độ thạc sỹ, tiến sỹ ở nước ngoài... Ngoài ra, 
một điểm sáng nữa đó là quỹ NAFOSTED tiếp 
tục có nhiều đóng góp cho khoa học nước nhà, 
trở thành địa chỉ tin cậy, có uy tín đối với các 
nhà khoa học mở rộng hợp tác quốc tế, ký 
nhiều văn bản hợp tác với các quỹ quốc tế, tài 
trợ cho các đề tài nghị định thư hợp tác với Bỉ, 
Úc, Mỹ... 
Nhằm tăng cường quan hệ hợp tác trong 
lĩnh vực giáo dục đại học giữa các trường đại 
học Châu Âu và Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào 
tạo phối hợp với các cơ sở nước ngoài tổ chức 
Diễn đàn Giáo dục đại học Việt Nam – Châu 
Âu vào ngày 3/11/2016 và Triển lãm giáo dục 
Đại học Châu Âu vào ngày 4/11/2016. Hai sự 
kiện này thể hiện cam kết thúc đẩy phát triển 
quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực 
châu Âu với những nền giáo dục đại học hàng 
đầu thế giới, tạo sân chơi cho các trường đại 
học Việt Nam và châu Âu xây dựng và phát 
triển chương trình hợp tác, đóng góp chung 
vào việc tăng cường hội nhập quốc tế của giáo 
dục đại học Việt Nam, kêu gọi và thúc đẩy xúc 
tiến đầu tư trong lĩnh vực giáo dục trong bối 
cảnh nguồn vốn vay ODA sẽ chấm dứt vào 
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
Số 1/2017 No. 1/2017 
102 
năm 2018, và các viện trợ song phương cũng 
như nguồn học bổng của Chính phủ các nước 
cấp ngày càng hạn hẹp. Tham gia Diễn đàn 
này có khoảng 30 trường Đại học đến từ các 
nước Châu Âu và gần 50 trường đại học của 
Việt Nam. Tại Diễn đàn này, các cơ sở giáo 
dục trong nước và quốc tế đã cùng nhau chia 
sẻ, báo cáo một số kinh nghiệm phục vụ cho 
quá trình hội nhập quốc tế của các cơ sở đào 
tạo đại học nhằm tháo gỡ những khó khăn 
cũng như mang đến những thông tin và cơ hội 
du học có giá trị cho học sinh, sinh viên cũng 
như cơ hội hợp tác giáo dục đại học giữa Việt 
Nam và Châu Âu. 
Bên cạnh đó cũng có nhiều hạn chế: 
Việt Nam chưa chuẩn bị và đào tạo kịp 
những cán bộ có trình độ chuyên môn và 
ngoại ngữ giỏi để làm công tác quan hệ quốc 
tế trong tình hình quốc tế thay đổi đột ngột 
và các đối tác mới càng nhiều hơn. Chưa kịp 
xây dựng được một cơ chế và bộ máy hữu 
hiệu để điều hành và quản lý công tác quan 
hệ quốc tế của ngành, từ việc đào tạo và sử 
dụng cán bộ một cách hợp lý cho đến việc 
phân cấp quản lý công tác quan hệ quốc tế 
một cách rõ rằng: Hợp tác từ Bộ đến các 
ngành và cơ sở. Mặc dù từ tháng 3/1994, 
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quy 
định về việc quản lý công tác quan hệ quốc 
tế trong toàn ngành nhưng trên thực tế việc 
thực hiện còn nhiều chồng chéo 
Trước xu thế toàn cầu hoá, sự phát 
triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ 
đang diễn ra như vũ bão, để có thể hội nhập 
với thế giới, Việt Nam phải xây dựng cả xã 
hội thành xã hội học tập. Toàn cầu hoá yêu 
cầu phải thay đổi nền giáo dục của Việt Nam. 
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào 
tạo có ý nghĩa hết sức quan trọng, sẽ là thời 
cơ để Việt Nam nắm bắt cơ hội hòa mình vào 
dòng chảy tri thức chung của thế giới, cũng 
sẽ là thách thức mà nếu kiên định sẽ vượt 
qua để thành công hơn, góp phần không nhỏ 
vào quá trình xây dựng đất nước theo hướng 
CNH, HĐH. Bên cạnh đó, từ những thành 
công và hạn chế trong sự nghiệp giáo dục và 
đào tạo trong suốt 30 năm đổi mới càng 
khẳng định rằng: Hợp tác quốc tế trong lĩnh 
vực giáo dục - đào tạo là vấn đề cấp bách và 
sống còn đối với Việt Nam cả ở hiện tại và 
tương lai. Để phát triển giáo dục - đào tạo 
Việt Nam có thể hội nhập tốt với thế giới và 
khu vực, cùng với việc tăng thêm đầu tư của 
Nhà nước, phải xã hội hóa giáo dục một cách 
sâu rộng và hội nhập quốc tế kịp thời, nhanh 
chóng và chủ động 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Báo cáo quốc gia giáo dục cho Việt Nam 2015 của Việt Nam, 
Hà Nội. 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương 
khóa X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Đảng về phát triển kinh tế - xã hội từ đổi mới 
(năm 1986) đến nay, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
[5] Trần Việt Hưng (1990), Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Tạp chí cộng sản, (20), tr.25-30. 
[6] Nguyễn Đình Hương (2007), Việt Nam hướng tới nền giáo dục hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà 
Nội. 

File đính kèm:

  • pdftinh_tat_yeu_hop_tac_quoc_te_trong_linh_vuc_giao_duc_dao_tao.pdf