Tổng quan về cơ chế điều hành lãi suất tại một số quốc gia
Trong bài viết này, nhóm tác giả trình bày về kinh nghiệm
điều hành lãi suất của một số quốc gia điển hình, là ngân
hàng trung ương (NHTW) các quốc gia có cơ chế điều hành
lãi suất tiên tiến nhất trên thế giới, hoặc có quan hệ thương
mại chính với Việt Nam, hoặc trong cùng khu vực châu Á
hoặc ASEAN có điều kiện địa lý hoặc chính trị tương đồng.
Bài viết tập trung phân tích cơ chế lãi suất đặt trong khuôn
khổ chung của chính sách tiền tệ (CSTT), được phân loại
dựa trên mục tiêu của CSTT theo định nghĩa của Quĩ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) năm 2016. Cụ thể, cơ chế lãi suất của NHTW
các quốc gia Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Philippines,
Hàn Quốc, Thụy Điển và Mỹ trong khuôn khổ CSTT dựa vào
neo tỷ giá, tổng cung tiền mục tiêu, lạm phát mục tiêu hoặc
đa mục tiêu, tùy theo điều kiện phát triển để đảm bảo tối
ưu hóa được các mục đích trong bộ ba tam giác bất khả thi
(lãi suất, tỷ giá, và dòng vốn) tại NHTW các nước này. Kinh
nghiệm của các NHTW những nước này sẽ là bài học giá trị
để Việt Nam thao khảo, vận dụng trong xây dựng, điều hành
CSTT quốc gia.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan về cơ chế điều hành lãi suất tại một số quốc gia
71 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 186- Tháng 11. 2017 Tổng quan về cơ chế điều hành lãi suất tại một số quốc gia THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Bùi Quốc Dũng Phạm Vũ Thăng Long Ngày nhận: 01/11/2017 Ngày nhận bản sửa: 03/11/2017 Ngày duyệt đăng: 10/11/2017 Trong bài viết này, nhóm tác giả trình bày về kinh nghiệm điều hành lãi suất của một số quốc gia điển hình, là ngân hàng trung ương (NHTW) các quốc gia có cơ chế điều hành lãi suất tiên tiến nhất trên thế giới, hoặc có quan hệ thương mại chính với Việt Nam, hoặc trong cùng khu vực châu Á hoặc ASEAN có điều kiện địa lý hoặc chính trị tương đồng. Bài viết tập trung phân tích cơ chế lãi suất đặt trong khuôn khổ chung của chính sách tiền tệ (CSTT), được phân loại dựa trên mục tiêu của CSTT theo định nghĩa của Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 2016. Cụ thể, cơ chế lãi suất của NHTW các quốc gia Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Philippines, Hàn Quốc, Thụy Điển và Mỹ trong khuôn khổ CSTT dựa vào neo tỷ giá, tổng cung tiền mục tiêu, lạm phát mục tiêu hoặc đa mục tiêu, tùy theo điều kiện phát triển để đảm bảo tối ưu hóa được các mục đích trong bộ ba tam giác bất khả thi (lãi suất, tỷ giá, và dòng vốn) tại NHTW các nước này. Kinh nghiệm của các NHTW những nước này sẽ là bài học giá trị để Việt Nam thao khảo, vận dụng trong xây dựng, điều hành CSTT quốc gia. Từ khóa: Cơ chế điều hành lãi suất, cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ 1. Giới thiệu rong khung khổ CSTT, NHTW sử dụng các công cụ CSTT (phương tiện thanh khoản, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc) để đạt được mục tiêu hoạt động, từ đó hướng tới mục tiêu trung gian và cuối cùng là mục tiêu của CSTT là ổn định giá cả (lạm phát), tăng trưởng GDP. Cụ thể, từ mục tiêu trung gian (bao gồm ba loại hình chính theo phân loại của IMF là mục tiêu tỷ giá, mục tiêu tiền tệ và mục tiêu lạm phát), NHTW sẽ thiết lập mục tiêu hoạt động của CSTT, tương ứng với mục tiêu trung gian, thường là thông qua những công cụ/ biến số CSTT mà NHTW có thể tác động mạnh và tức thì để nhằm qua đó đạt được mục tiêu trung gian. Mục tiêu hoạt động được chia làm hai loại chính, mục tiêu dựa vào giá (thông qua công cụ lãi suất qua đêm và ngắn hạn khác), mục tiêu dựa vào khối lượng tiền tệ. Theo Andrea (2001), mục tiêu hoạt động dựa vào giá (thông qua lãi suất ngắn hạn) có thể được sử dụng cho bất cứ mục tiêu trung gian nào, tuy nhiên, mục tiêu hoạt động dựa trên khối lượng chỉ phù hợp cho mục tiêu trung gian là tiền tệ, và trong một số trường hợp, là mục tiêu tỷ giá. Nghiên cứu của Ho (2008) THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 186- Tháng 11. 2017 cho 17 NHTW các quốc gia được cho là có tính đại diện cao (bao gồm các nước phát triển, mới nổi, đang phát triển và trải đều ở các châu lục) cho thấy trừ các nước có độ mở kinh tế rất lớn, không kiểm soát dòng vốn (Hong Kong, Macao, Singapore) và áp dụng CSTT theo mục tiêu tỷ giá (do đó không thể áp đặt các mục tiêu lãi suất một cách độc lập), thì ở các nước còn lại, bất kể mục tiêu hoạt động là gì, đều sử dụng mục tiêu hoạt động dựa vào giá (lãi suất). Ngay cả Trung Quốc đang kết hợp cả mục tiêu hoạt động theo giá và lượng, thì các công cụ điều hành lãi suất ngày càng trở nên quan trọng. 2. Vai trò của việc lựa chọn mục tiêu trung gian trong việc quyết định mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ Dưới khung khổ tỷ giá mục tiêu và tài khoản vốn mở (ví dụ như Singapore), lãi suất được điều chỉnh để duy trì neo tỷ giá, hoặc khi NHTW thực hiện chính sách can thiệp không trung hòa (làm thay đổi cung tiền). Dưới khung khổ mục tiêu tiền tệ, mục tiêu hoạt động dựa theo khối lượng tiền tệ là lựa chọn phù hợp đối với các quốc gia có thị trường tiền tệ còn kém phát triển và NHTW không có các công cụ lãi suất mục tiêu, và trong trường hợp lạm phát cao, sự liên kết giữa tăng trưởng cung tiền và lạm phát là gần và nhanh chóng hơn. Do nguồn tạo tiền là từ tăng trưởng tín dụng của NHTW cho chính phủ hoặc khu vực ngân hàng, việc kiểm soát lạm phát yêu cầu giảm tăng trưởng tiền cơ sở. Mục tiêu hoạt động dựa vào giá (lãi suất ngắn hạn) được lựa chọn khi hệ số nhân tiền dao động mạnh và làm suy yếu mối liên hệ giữa tiền cơ sở và tổng cung tiền. Một số quốc gia khi chuyển đổi từ cơ chế tỷ giá cố định sang cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, NHTW sử dụng đồng thời khung khổ mục tiêu tỷ giá và tiền tệ. Khi sự quan tâm của CSTT là mục tiêu tỷ giá, mục tiêu hoạt động phù hợp nhất là lãi suất ngắn hạn; khi biên độ tỷ giá được nới rộng và sự quan tâm hướng về tổng cung tiền, NHTW có thể cân nhắc sử dụng khối lượng tiền tệ mục tiêu. Tuy nhiên, nếu các công cụ CSTT có thể kiểm soát được lãi suất ngắn hạn và thị trường tiền tệ phát triển, sẽ không có lý do gì để NHTW quay trở lại sử dụng mục tiêu hoạt động dựa trên khối lượng. Dưới khung khổ mục tiêu lạm phát, mục tiêu hoạt động dựa vào giá (lãi suất ngắn hạn) là lựa chọn tối ưu. 3. Cơ chế điều hành lãi suất tại một số quốc gia điển hình 3.1. Ngân hàng trung ương Singapore (MAS) Kể từ năm 1981, CSTT của Singapore tập trung vào quản lý tỷ giá. Mục tiêu hàng đầu của CSTT của MAS là ổn định giá cả, làm nền tảng cho tăng trưởng bền vững. Theo MAS, mục tiêu tỷ giá cho thấy là một công cụ trung gian lý tưởng của CSTT, trong bối cảnh một nền kinh tế nhỏ và mở như Singapore. Mục tiêu này có thể được kiểm soát bằng cách can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối và có một mối quan hệ ổn định và dự báo được giữa mục tiêu tỷ giá với ổn định giá cả (lạm phát), là mục tiêu cuối cùng của CSTT trong trung hạn. Do MAS không kiểm soát mục tiêu lãi suất, lãi suất cho vay và tiền gửi đối với phương tiện hỗ trợ thanh khoản (Standing facility) của MAS được quyết định bởi thị trường. Cụ thể, lãi suất tham chiếu là lãi suất tiền gửi trung bình của các thành viên tạo lập thị trường chính (primary dealers) trên thị trường tiền tệ cho khoản tiền gửi 500 triệu SGD qua đêm. Để không khuyến khích các tổ chức tài chính dựa vào phương tiện hỗ trợ thanh khoản, lãi suất cho vay của phương tiện thanh khoản là lãi suất trần, cao hơn 0,5% lãi tham chiếu, trong khi đó lãi suất tiền gửi hỗ trợ thanh khoản là lãi suất sàn, thấp hơn 0,5% lãi suất tham chiếu, nhưng không thấp hơn 0%, tạo hành lang lãi suất. Các giao dịch vay bằng phương tiện thanh khoản phải có tài sản đảm bảo, thường là chứng khoán chính phủ Singapore (Singapore Government Securities). Theo MAS, cơ chế điều hành CSTT dựa vào tỷ giá đã chứng tỏ là một công cụ kiềm chế lạm phát hiệu quả cho nền kinh tế Singapore. Trong vòng vài chục năm kể từ khi áp dụng khuôn khổ này, lạm phát trong nước được duy trì ở mức khá thấp, trung bình 1,9%/năm THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 73Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 186- Tháng 11. 2017 cho giai đoạn 1981-2010. Do kết quả của việc duy trì được tỷ lệ lạm phát thấp trong thời gian dài, kỳ vọng vào ổn định giá cả ngày càng trở nên vững chắc. 3.2. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) PBoC bắt đầu chức năng NHTW năm 1984, và kể từ đó, CSTT được sử dụng để cân bằng cung cầu tiền tệ. Thời điểm đó, kiểm soát tín dụng trực tiếp thông qua các biện pháp hành chính được sử dụng để điều hành CSTT, ví dụ kiểm soát tín dụng và tiền mặt để kiểm soát và điều chỉnh nền kinh tế, để ngăn ngừa lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Kể từ những năm 90, phương pháp quản lý tài chính vĩ mô đã bắt đầu thay đổi. Với việc bỏ trần tín dụng vào tháng 1/1998, và sự mở rộng hoạt động thị trường mở, CSTT cũng chuyển từ kiểm soát tín dụng trực tiếp, thiên về hành chính, sang các biện pháp gián tiếp, dựa trên thị trường. Trong giai đoạn chuyển đổi này, các mục tiêu trung gian và hoạt động cũng chuyển sang cung tiền (mục tiêu trung gian) và tiền cơ bản, với sự phối hợp của các công cụ CSTT như nghiệp vụ thị trường mở, yêu cầu về dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu và cho vay, lãi suất cơ bản của NHTW. Đồng thời cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, cơ chế truyền dẫn từ “NHTW sang thị trường tiền tệ, tổ chức tài chính, doanh nghiệp (cá nhân)” dần được định hình, và nhiều tiến bộ đã đạt được trong việc phát triển cơ chế truyền tải gián tiếp, sử dụng các công cụ tiền tệ để ảnh hưởng mục tiêu hoạt động, từ đó ảnh hưởng các mục tiêu trung gian và cuối cùng là đạt được mục tiêu cuối cùng- ổn định giá trị đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Kết quả là, hệ thống quản lý CSTT được cải thiện. Các CSTT kể từ những năm 90 đến nay của PBOC có thể xem là sự kết hợp các công cụ điều hành theo khối lượng (quantity-based) và theo giá (price-based). Các công cụ chính sách chính mà thị trường theo dõi bao gồm tỷ lệ dự trữ bắt buộc (RRR), lãi suất cho vay và tiền gửi, các công cụ trên thị trường mở (OMO), và chỉ tiêu cho vay (loan quotas), cũng như các công cụ khác ít được theo dõi hơn bao gồm can thiệp trên thị trường ngoại hối, và các biện pháp hành chính khác Cũng như các NHTW khác, PBoC thay đổi lãi suất mục tiêu, nhưng không giống các NHTW ở các nước phát triển chỉ quản lý lãi suất ngắn hạn của đường cong lãi suất (ví dụ như lãi suất Fed fund rates), PBoC có xu hướng kiểm soát hầu hết các kỳ hạn lãi suất và loại lãi suất (cả cho vay và huy động). Sự kiểm soát hoàn toàn này được nới lỏng khi sàn lãi suất cho vay được gỡ bỏ vào tháng 7/2013. Trước đó, vào tháng 10/2004, PBoC đã bỏ trần lãi suất cho vay và sàn lãi suất huy động. Lãi suất huy động là khâu trọng yếu nhất của cơ chế lãi suất, do vậy tự do hóa lãi suất huy động sẽ được thực hiện cuối cùng khi điều kiện chín muồi để giảm thiểu rủi ro, tháng 10/2015 trần lãi suất huy động là sự hạn chế cuối cùng cũng đã được dỡ bỏ, tạo điều kiện cho việc hình thành một hành lang lãi suất, là cốt lõi cho việc định hình một khuôn khổ CSTT mới tại PBoC. Việc chính thức hình thành được hành lang lãi suất sẽ hoàn tất quá trình PBoC chuyển đổi khuôn khổ CSTT từ dựa theo khối lượng sang theo giá (lãi suất). Mặc dù vậy, Trung quốc vẫn tiếp tục thiếu vắng lãi suất chuẩn trong giai đoạn đầu của tự do hóa lãi suất, chưa thiết lập được đường cong lãi suất đáng tin cậy để làm tham chiếu cho thanh khoản, rủi ro và lãi suất. Việc thiếu vắng lãi suất chuẩn sẽ làm cho sự hình thành của cơ chế truyền dẫn lãi suất trở nên khó khăn (cơ chế truyền dẫn hiệu quả về cơ bản sẽ gồm các bước sau: lãi suất tham chiếu của PBOC sẽ ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, làm thay đổi lãi suất cho vay trên thị trường tín dụng bán lẻ, và cuối cùng ảnh hưởng tới nền kinh tế thực). Cuối cùng là vấn đề với việc PBoC phải thực hiện đa mục tiêu, thay vì chỉ tập trung vào mục tiêu duy nhất là lạm phát hoặc có nhiệm vụ rõ ràng là bình ổn giá cả và tối ưu hóa tỷ lệ việc làm. PBoC có sáu (06) mục tiêu: lạm phát thấp, tăng trưởng kinh tế hợp lý, tạo việc làm, cán cân thanh toán cân bằng, ổn định tài chính và cải tổ cấu trúc. Do đó, phương pháp tiếp cận của PBoC phải dựa trên mức độ cấp bách và THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 74 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 186- Tháng 11. 2017 quan trọng của từng mục tiêu để điều chỉnh chính sách cho phù hợp. 3.3. Ngân hàng trung ương Thái Lan (BOT) BOT đã công bố áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu vào tháng 5/2000, với mục tiêu chính là ổn định giá cả. Kèm theo đó là yêu cầu về sự cải tổ thể chế để khuôn khổ lạm phát mục tiêu có thể hoạt động thành công, BOT nhìn nhận rằng lạm phát mục tiêu sẽ giúp tái thiết sự tin tưởng và độ tin cậy của NHTW và CSTT. Sau khi Hội đồng CSTT (Monetary Policy Board- MPB) đưa ra mục tiêu lạm phát, BOT điều chỉnh lãi suất chính sách để đạt được mục tiêu này bởi các công cụ trên thị trường mở. Lãi suất chính sách thay đổi sẽ ảnh hưởng toàn bộ nền kinh tế thông qua 05 kênh truyền dẫn chính, bao gồm kênh lãi suất, tài sản, tín dụng, tỷ giá và kênh kỳ vọng, nhằm giữ lạm phát ở mức mục tiêu. Trong khuôn khổ lạm phát mục tiêu, BOT sử dụng lãi suất của hợp đồng Repo song phương (bilateral repurchase agreement- BRP) kỳ hạn 14 ngày là lãi suất chính sách giai đoạn 2000- 2006, kể từ năm 2007, BOT đã chuyển sang sử dụng kỳ hạn 01 ngày (qua đêm) là lãi suất chính sách. Sự thay đổi này nhằm giúp lãi suất chính sách có thể phản ánh tốt hơn sự quản lý thanh khoản kỳ hạn ngắn của các tổ chức tài chính trong thị trường tiền tệ và cho phép lãi suất ngắn hạn có thể dịch chuyển cùng với kỳ vọng của thị trường. MPB đưa dấu hiệu thay đổi CSTT bằng cách đưa ra thông báo về việc thay đổi lãi suất chính sách trên OMO. Với việc lạm phát kỳ vọng trong năm 2017 và 2018 được dự báo ở mức thấp (lần lượt là 0,8% và 1,6%), MPB đã biểu quyết để duy trì lãi suất chính sách ở mức 1,5% nhằm tiếp tục thực hiện CSTT nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đưa lạm phát về mức mục tiêu. BOT sử dụng nhiều công cụ CSTT để thực hiện quyết định về lãi suất của MPB, chủ yếu bao gồm: yêu cầu dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, và phương tiện hỗ trợ thanh khoản (standing facilities), trong đó nghiệp vụ thị trường mở là công cụ cơ bản được sử dụng để duy trì lãi suất chính sách. BOT có 4 loại OMO: hợp đồng mua bán lại (repo) song phương (BRP- là công cụ xác định lãi suất chính sách), phát hành trái phiếu/ tín phiếu BOT, hoán đổi tỷ giá, và mua đứt bán đoạn chứng khoán nợ (outright purchase/sale of debt securities). Lãi suất của phương tiện hỗ trợ thanh khoản qua đêm được duy trì ở biên độ ±0,5%/ năm quanh lãi suất chính sách (lending facility- lãi suất cho vay qua đêm là lãi suất trần- cap, deposit facility- lãi suất tiền gửi qua đêm là lãi suất sàn- floor). Việc áp mức lãi suất trần- sàn cho các phương tiện hỗ trợ thanh khoản này được thiết kế để đảm bảo hành lang lãi suất đủ rộng để khuyến khích các thành viên thị trường tự điều chỉnh thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng (giữa các thành viên), đồng thời đủ hẹp để lãi suất thị trường sẽ dao động trong một khoảng chấp nhận được. Tóm lại, trong lịch sử phát triển của BOT, họ đã không ngừng cải tổ các cơ chế cũng như công cụ truyền dẫn CSTT tương ứng, từ việc neo đồng THB trước năm 1997, đến việc thả nổi đồng THB sau năm 1997 và áp dụng CSTT theo cung tiền mục tiêu (điều khiển theo lượng) và cuối cùng là áp dụng lạm phát mục tiêu kể từ 2000 đến nay, ngay cả khi áp dụng lạm phát mục tiêu, họ cũng không ngừng thay đổi các công cụ CSTT cũng như các chỉ tiêu về lạm phát, từ lạm phát cơ bản cho đến lạm phát toàn phần. Tương tự như ở nhiều nước phát triển khác, kênh truyền dẫn lãi suất vẫn là kênh có nhiều tác động nhất đế ... ác tổ chức tài chính đối với các hợp đồng Repo (repurchase agreements) và các khoản tiền gửi và cho vay điều chỉnh thanh khoản của BOK (BOK’s liquidity adjustment deposits and loans). Lãi suất cơ bản là lãi suất đối với các hợp đồng Repo kỳ hạn 7 ngày mà BOK bán cho (vay) các tổ chức tài chính, và là lãi suất tối thiểu mà BOK mua hợp đồng Repo kỳ hạn 7 ngày. Theo đó, lãi suất tiền gửi (lãi suất sàn) và cho vay (lãi suất trần) điều chỉnh thanh khoản của BOK được đặt lần lượt ở mức 100 điểm cơ bản dưới và trên lãi suất cơ bản. Đây là hai công cụ chính của phương tiện hỗ trợ thanh khoản (lending and deposit facilities). Mức lãi suất này khuyến khích các tổ chức tài chính cho vay hoặc huy động trên thị trường liên ngân hàng trước khi tìm đến BOK, giúp tạo ra một hành lang lãi suất (interest rate corridor), đồng thời tạo ra van an toàn cho hệ thống (safety valve). Hội đồng CSTT của BOK (Monetary Policy Board- MPB) họp 08 lần trong 1 năm để quyết định lãi suất cơ bản, dựa trên các yếu tố về sự chuyển động của giá cả, tình hình thị trường tài chính và nền kinh tế trong và ngoài nước cũng như các yếu tố khác. Lãi suất cơ bản có tác động tức thì lên lãi suất qua đêm liên ngân hàng (call rate), và điều này dẫn tới sự thay đổi của lãi suất ngắn và dài hạn, lãi suất huy động và cho vay, do vậy có tác động lên các hoạt động của nền kinh tế thực. BOK sử dụng hoạt động OMO chủ yếu để điều chỉnh lãi suất qua đêm liên ngân hàng, là mục tiêu hoạt động của CSTT của BOK. Cụ thể, hoạt động OMO được sử dụng để điều chỉnh thiếu hụt hoặc dư thừa vốn tạm thời bởi các tổ chức tài chính xung quanh “lãi suất cơ bản”, thông qua 3 cách thức: giao dịch chứng khoán, phát hành và mua lại Trái phiếu ổn định tiền tệ (MSBs- Monetary Stabilization Bonds), và thông qua các khoản tiền gửi của ngân hàng thương mại tại Tài khoản ổn định tiền tệ (MSA- Monetary THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 76 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 186- Tháng 11. 2017 Stability Account). Nghiên cứu của Soyoung Kim và Yung Chul Park (2006) đã chỉ ra rằng chính sách lạm phát mục tiêu, thông qua kiểm soát lãi suất qua đêm liên ngân hàng (call rate) bằng các công cụ trên OMO, đã đạt hiệu quả trong việc duy trì ổn định giá cả. Mức độ cũng như sự biến động của lạm phát đã giảm sau khi áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu. 3.6. Ngân hàng trung ương Thụy Điển (Riksbank) Sau thời kỳ tăng trưởng nóng, lạm phát tăng mạnh, thị trường ngoại hối và tỷ giá biến động, ngày 19/11/1992, Riksbank đã từ bỏ chính sách tỷ giá cố định, chuyển sang chính sách tỷ giá thả nổi, cho phép tỷ giá đồng krona dao động và được xác định trên thị trường ngoại hối. Từ ngày 15/01/1993, Riksbank công bố điều hành CSTT nhằm đạt mục tiêu ổn định giá cả. Tuy nhiên sau khi tỷ giá được thả nổi, krona bị giảm giá so với các đồng tiền khác, đồng thời thuế gián thu có một số thay đổi đã gây áp lực lên lạm phát, do đó Riksbank tuyên bố sẽ bắt đầu áp dụng khung khổ lạm phát mục tiêu từ năm 1995. Lãi suất repo là lãi suất cho vay của các ngân hàng và lãi suất các loại chứng khoán bị tác động bởi cả lãi suất repo thực tế và lãi suất repo dự kiến. Việc điều chỉnh lãi suất repo tác động đến lạm phát và nền kinh tế theo cơ chế truyền dẫn. Cơ chế truyền dẫn thực tế không phải là một mà nhiều cơ chế tương tác với nhau. Tùy theo cơ chế truyền dẫn mà tác động đến lạm phát với mức độ và thời gian hiệu lực nhất định. Về cơ bản, việc điều chỉnh lãi suất repo có ảnh hưởng lớn nhất đến lạm phát sau một đến hai năm. Ngay khi Riksbank thay đổi lãi suất repo, lãi suất qua đêm các ngân hàng vay mượn nhau trong ngày cũng thay đổi theo. Với mục đích làm cho CSTT có thể dự đoán được, Riksbank thường xuyên xuất bản dự báo lãi suất repo để tác động đến kỳ vọng về CSTT trong tương lai. Lãi suất cho vay của các ngân hàng và lãi suất các loại chứng khoán bị tác động bởi cả lãi suất repo thực tế và lãi suất repo dự kiến. Nếu dự kiến lãi suất repo sẽ tăng, lãi suất thị trường có thể tăng trước khi lãi suất repo chính thức được điều chỉnh. Sau đó, khi lãi suất repo được nâng lên sẽ không nhất thiết có bất cứ tác động nào lên lãi suất thị trường nếu mà chỉ đơn thuần là xác nhận kỳ vọng của thị trường 3.7. Khuôn khổ chính sách tiền tệ đa mục tiêu: Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) Tại Mỹ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED)- với vai trò là NHTW, thực hiện điều hành CSTT nhằm đạt được 3 mục tiêu theo Luật định là “tối đa hóa việc làm, ổn định giá cả, lãi suất dài hạn ở mức vừa phải”. Điều này yêu cầu CSTT hướng tới mục tiêu rộng hơn đó là thúc đẩy nền kinh tế Mỹ phát triển và ổn định. Trong khi các mục tiêu CSTT của Mỹ được giữ nguyên trong nhiều năm thì các công cụ và cách thức điều hành đã có sự thay đổi và phát triển theo thời gian. Trước những năm 1990s, FED điều hành CSTT thông qua các công cụ truyền thống, bao gồm mua bán trái phiếu chính phủ trên OMO, tái cấp vốn cho các ngân hàng thông qua kênh chiết khấu, điều chỉnh dự trữ bắt buộc nhằm tác động lên mục tiêu trung gian là cung tiền. Từ năm 1993, FED chính thức công bố chuyển mục tiêu điều hành CSTT từ cung tiền sang mục tiêu lãi suất mà cụ thể là lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng (Federal Funds Target Rate). Trên thị trường liên ngân hàng, khi bị thiếu hụt tạm thời tiền gửi dự trữ bắt buộc tại Fed, các TCTD thường vay lẫn nhau từ phần vốn dự trữ bắt buộc dư thừa với mức lãi suất qua đêm (FFR- federal fund rate). Mức lãi suất cho vay qua đêm giữa TCTD đi vay và TCTD cho vay được hai bên thỏa thuận và xác định. Bình quân gia quyền mức lãi suất các ngân hàng giao dịch với nhau được gọi là lãi suất cho vay qua đêm hiệu lực (The effective federal funds rate). Lãi suất cho vay qua đêm về cơ bản do thị trường quyết định nhưng chịu tác động của Fed thông qua các hoạt động nghiệp vụ thị trường mở để hướng mức lãi suất này về mức lãi suất mục tiêu. Trên thị trường tài chính Mỹ, FFR là mức lãi suất trung tâm, nó tác động đến các loại lãi suất khác như lãi suất cơ bản (là lãi suất các TCTD áp dụng đối với các khách hàng có xếp hạng tín nhiệm cao). Ngoài ra, FFR còn THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 77Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 186- Tháng 11. 2017 gián tiếp tác động đến các mức lãi suất dài hạn như lãi suất thế chấp, lãi suất tiết kiệm và cho vay. Việc điều chỉnh mức lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng và kỳ vọng của các nhà đầu tư về việc Fed nâng hoặc hạ mức lãi suất định hướng trong tương lai tạo ra sự thay đổi của hàng loạt các mức lãi suất thị trường. Để hỗ trợ nền kinh tế trong cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu vào năm 2007 và trong thời kỳ suy thoái kinh tế tiếp theo, FED đã giảm mức lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng xuống gần bằng 0 vào cuối năm 2008. Sau đó FED bắt đầu sử dụng những công cụ phi truyền thống bao gồm mua khối lượng lớn chứng khoán dài hạn của chính phủ để giảm áp lực lên lãi suất dài hạn. Ngoài ra, việc công bố Báo cáo của FED về đánh giá triển vọng nền kinh tế và các dự định liên quan đến lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng đã trở thành một công cụ chính sách quan trọng. Vào cuối năm 2014, khi nền kinh tế có những cải thiện đáng kể về việc làm, FED đã công bố các yếu tố chính trong kế hoạch bình thường hóa CSTT khi đến thời điểm thích hợp. Vào cuối năm 2015, FED bắt đầu chu kỳ điều chỉnh tăng lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng sau khi công bố các điều kiện và triển vọng kinh tế đã đảm bảo để thực hiện quá trình bình thường hóa chính sách và nâng lãi suất từ mức 0-0,25%/năm lên mức 0,25-0,5%/năm. FED tiếp tục thực hiện tăng lãi suất thêm 2 lần vào cuối năm 2016 và tháng 3/2017. Để đạt được các mục tiêu về tối đa hóa việc làm, ổn định giá cả, lãi suất dài hạn ở mức vừa phải theo luật định, FED thực thi CSTT phù hợp với điều kiện và triển vọng kinh tế. FED thay đổi CSTT chủ yếu bằng cách nâng hoặc hạ lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng, mức lãi suất cho vay qua đêm giữa các ngân hàng. Giảm lãi suất định hướng là “nới lỏng”, còn tăng lãi suất định hướng là thắt chặt chính sách CSTT. Khi các điều kiện trong nền kinh tế thay đổi, FED thường điều chỉnh lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng, từ đó tác động trực tiếp đến lãi suất của nền kinh tế và tác động gián tiếp đến giá cổ phiếu, giá tài sản và tỷ giá hối đoái. Thông qua các kênh trực tiếp và gián tiếp, CSTT tác động đến quyết định chi tiêu của các hộ gia đình và đầu tư của doanh nghiệp, do đó tác động đến tăng trưởng kinh tế, việc làm và lạm phát 4. Kết luận Bài viết phác họa tóm tắt các nét chính về kinh nghiệm điều hành lãi suất ở một số quốc gia điển hình trên thế giới. Qua đó rút ra, thứ nhất, không có khung khổ điều hành CSTT cũng như khung khổ điều hành lãi suất nào là tối ưu cho tất cả các nước, mà tùy theo điều kiện thực tế của từng nước về đặc điểm của nền kinh tế, mức độ phát triển của thị trường tài chính, nhất là thị trường tiền tệ, mà các quốc gia tự xây dựng cho mình khung khổ CSTT và lãi suất phù hợp cho từng thời kỳ phát triển. Thứ hai, cơ chế điều hành lãi suất phụ thuộc vào sự lựa chọn của mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động của CSTT (theo giá- lãi suất, hoặc theo khối lượng), cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính, cơ chế điều hành theo khối lượng sẽ dần mất đi vai trò và cơ chế điều hành theo mục tiêu lãi suất sẽ ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Cuối cùng, Việt Nam có thể vận dụng kinh nghiệm của các nước nêu trên trong quá trình chuyển đổi CSTT sang cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, và sử dụng nhiều các công cụ về lãi suất hơn, trước mắt là trong việc thiết lập hành lang lãi suất và lãi suất tham chiếu cho thị trường. ■ Tài liệu tham khảo 1. Andrea Schaechter (2001) “Implemenation of monetary policy and the central bank’s balance sheet”, IMF working paper, WP/01/149. 2. BIS (2008) Transmission mechanisms for monetary policy in emerging market economies, Monetary and Economic Department, BIS Papers No.35. 3. BIS (2012) Foreign exchange policy and intervention under inflation targeting in Thailand, BIS Papers No.73 4. BOK (2016) Monetary Policy Report, Oct 2016. 5. BOT (2015) Monetary Policy Instruments, Monetary Operations Strategy Team, Financial Markets Operations Group, Feb 2015 6. BOT (2017) Monetary Policy Report, June 2017 7. Bank of Thailand, https://www.bot.or.th THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 78 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 186- Tháng 11. 2017 8. Fernald, Spiegel and Swanson (2014) Monetary Policy Effectiveness in China: Evidence from a FAVAR Model, Federal Reserve Bank of San Francisco. 9. Hwee Kwan CHOW (2004) A VAR analysis of Singapore’s monetary transmission mechanism, Singapore Management University 10. H.Zhou (2015), China’s Monetary Policy Regulation and Financial Risk Prevention, Springer-Verlag Berlin Heidelberg 2015. 11. IMF (2016) Annual Report on Exchange Arrangements and Exchange Restrictions. 12. Jianguang Shen and Michael Luk (2014) China’s new monetary policy framework: Status, outstanding issues & outlook, Mizuho Economics Update. 13. Jianguang Shen (2015) Economics Weekly (48): Interest-rate corridor and the PBoC’s new monetary policy framework, Mizuho. 14. Jianguang Shen (2017) China Economics Weekly (105): Revisiting China’s new monetary policy framework, Mizuho. 15. Ji Min and Niu Muhong (2014), “Establish expectation anchor of the central bank’s policy rate,” China Finance, No.9 2014. 16. Lixin Sun (2010) Monetary Transmission Mechanisms and the Macroeconomy in China- VAR/VECM Approach and Bayesian DSGE Model Simulation, Phd Thesis, University of Birmingham. 17. Marcelo Sánchez (2009) Characterising the Inflation targeting regime in South Korea, ECB Working Paper Series, Feb 2009. 18. PBOC (2016) China Monetary Policy Report, Monetary Policy Analysis Group of the People’s Bank of China, Quarter Four, 2016. 19. Reza Yamora Siregara and Siwei Goob (2009) Effectiveness and commitment to inflation targeting policy: Evidence from Indonesia and Thailand, Staff Paper No. 73, The SEACEN Centre. 20. Soyoung Kim and Yung Chul Park (2006) Inflation targeting in Korea: a model of success?, BIS Papers No.35 21. BIS (2009) Monetary policy frameworks and central bank market operations, BIS March 2009. 22. IMF (2015) Involving monetary policy frameworks in low-income and other developing countries, IMF (October 2015). 23. Bangko Sentral ng Pilipinas, 24. IMF (2016) 2016 article IV consultation- Press release; staff report; and statement by the excutive director for the Philippines, IMF country report No 16/309 25. Sveriges Riksbank, 26. Sveriges Riksbank (2017) Monetary policy report, April 2017. 27. Claes Berg and Richard Grottheim, Monetary in Sweden since 1992. 28. Marvin Goodfriend and Mervyn King (2015), Review of the Risbank’s Monetary policy 2010-2015. 29. Board of Government of the Federal Reserve System, https://www.federalreserve.gov/monetarypolicy.htm 30. FED (2017) Monetary policy report, July 2017. 31. Carlos Caceres, Yan Carriere -Swallow, Ishak Demir, and Bertrand Gruss (2016) US Monetary policy nomarlization and global interest rates, IMF working paper, WP/16/195. 32. Manmohan Singh (2015), Managing the Fed’s Liftoff and Transmission of Monetary Policy, IMF working paper, WP/15/202. Thông tin tác giả Bùi Quốc Dũng, Thạc sỹ Ban Kinh tế Trung ương Email: bqdung@yahoo.com Phạm Vũ Thăng Long, Tiến sỹ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Email: long.pham@sbv.gov.vn Summary Interest rate policies in selected countries In this article, the authors present the experience of interest rate policies in selected countries, including the central banks of advanced economies, central banks in countries which have a significant trade relationship with Vietnam, and central banks of countries with similar geographical or political conditions. The paper focuses on analyzing the interest rate mechanism within the general framework of monetary policy, categorized based on the objectives of the monetary policy as defined by the International Monetary Fund (IMF) in 2016. In particularly, interest rate policies of central bank of Singapore, China, Thailand, Philippines, Korea, Sweden and the US under different general frameworks of monetary policy based on exchange rate anchor, total money supply targeting, inflation targeting or multi-targeting are examined. The experience of these central banks will be valuable lessons for Vietnam to investigate and apply in enhancing the current monetary policy of State Bank of Vietnam. Key word: Interest rate, monetary transmission mechanism, central bank. Dung Quoc Bui, MEc. Central Economic Committee Long Vu Thang Pham, PhD. State Bank of Vietnam
File đính kèm:
- tong_quan_ve_co_che_dieu_hanh_lai_suat_tai_mot_so_quoc_gia.pdf