Ứng dụng B-Learning trong công tác bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức người dân tộc thiểu số
Thế kỷ XXI là kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức với sự tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0. Trong kỷ nguyên
này, sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và truyền thông
(CNTT-TT), đã và đang tác động mạnh mẽ đến hầu hết các lĩnh
vực trong đời sống xã hội, mà giáo dục không phải là một ngoại
lệ. E-learning (Electronic Learning) là một trong những giải pháp
ứng dụng CNTT-TT trong giáo dục rất phổ biến hiện nay. Tuy nhiên,
trong khi việc ứng dụng E-learning cho các hoạt động đào tạo diễn
ra mạnh mẽ và phổ biến thì ở các hoạt động bồi dưỡng vẫn còn rất
khiêm tốn, đặc biệt là đối với bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức
(CBCCVC) người dân tộc thiểu số (DTTS).
Bài viết này tập trung tìm hiểu về Blended learning (B-learning) -
một hình thức học tập của E-learning và mạnh dạn đề xuất ứng dụng
B-learning cho công tác bồi dưỡng CBCCVC người DTTS.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng B-Learning trong công tác bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức người dân tộc thiểu số
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 111Số 24 - Tháng 12 năm 2018 ỨNG DỤNG B-LEARNING TRONG CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Nguyễn Đình Quý Học viện Hành chính Quốc gia; Email: quynd@napa.vn Thế kỷ XXI là kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức với sự tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0. Trong kỷ nguyên này, sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT), đã và đang tác động mạnh mẽ đến hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội, mà giáo dục không phải là một ngoại lệ. E-learning (Electronic Learning) là một trong những giải pháp ứng dụng CNTT-TT trong giáo dục rất phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, trong khi việc ứng dụng E-learning cho các hoạt động đào tạo diễn ra mạnh mẽ và phổ biến thì ở các hoạt động bồi dưỡng vẫn còn rất khiêm tốn, đặc biệt là đối với bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) người dân tộc thiểu số (DTTS). Bài viết này tập trung tìm hiểu về Blended learning (B-learning) - một hình thức học tập của E-learning và mạnh dạn đề xuất ứng dụng B-learning cho công tác bồi dưỡng CBCCVC người DTTS. Abstract The 21st century is the era of knowledge economy with the strong impact of the industrial revolution 4.0. In this era, the great development of information technology and communication has been making a tremendous impact on most areas of social life, with education not an exception. E-learning (Electronic Learning) is one of the solutions for the application of information technology and communication in education is very popular today. However, while the application of E-learning to training activities is strong and popular, the training activities are still very modest, especially for cadres and civil servants of ethnic minorities. This article focuses on learning Blended learning (B-learning) - a form of learning of E-learning and boldly recommends the application of B-learning for the training of cadres, civil servants of ethnic minorities. 1. Học tập kết hợp - Blended learning 1.1. Khái niệm Học tập kết hợp (Blended learning - B-learning) là hình thức học tập, triển khai một khóa học với sự kết hợp của hai hình thức học tập trực tuyến (online learning) và dạy học giáp mặt (face to face - F2F). Theo cách này, E-learning được thiết kế với mục đích hỗ trợ quá trình dạy học và chỉ quan tâm tới những nội dung, chủ điểm phù hợp nhất với thế mạnh của loại hình này. Còn lại, với những nội dung khác vẫn được thực hiện thông qua hình thức dạy học F2F với việc khai thác tối đa ưu điểm của nó. Hai hình thức này cần được thiết kế phù hợp, có mối liên hệ mật thiết, bổ sung cho nhau hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng cho khóa học1. Hiện nay, vẫn còn một số khái niệm khác nhau về B-learning, cụ thể: Theo Alvarez (2005) đã định nghĩa, B-learning là “Sự kết hợp của các phương tiện truyền thông trong đào tạo như công nghệ, các hoạt động, và các loại sự kiện nhằm tạo ra một chương trình đào tạo 1. Lê Huy Hoàng, Lê Xuân Quang, (2011), E-learning và ứng dụng trong dạy học, Đại học Sư phạm Hà Nội Thông tin chung Ngày nhận bài: 3/10/2018 Ngày phản biện: 5/11/2018 Ngày duyệt đăng: 10/11/2018 Title B-LEARNING APPLICATIONS IN THE TRAINING OF CADRES AND CIVIL SERVANTS OF ETHNIC MINORITIES Từ khóa Công nghệ thông tin và truyền thông; E-learning; B-learning; Bồi dưỡng; Cán bộ, công chức, viên chức; Dân tộc thiểu số. Keywords Information and communications technology; E-learning; B-learning; Training; Cadres and civil servants; Ethnic minorities. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 112 Số 24 - Tháng 12 năm 2018 tối ưu cho một đối tượng cụ thể”. Tác giả Victoria L. Tinio cho rằng “Học tích hợp (Blended Learning) để chỉ các mô hình học kết hợp giữa hình thức lớp học truyền thống và các giải pháp E–learning”2. Theo Bonk và Graham (2006), B-learning là: Kết hợp các phương thức giảng dạy (hoặc cung cấp các phương tiện truyền thông); Kết hợp các phương pháp giảng dạy; Kết hợp học tập trực tuyến và F2F3. Tại Việt Nam, một số tác giả đưa ra khái niệm B-learning như sau. Tác giả Nguyễn Văn Hiền có đưa ra khái niệm “Học tập hỗn hợp” là để chỉ hình thức kết hợp giữa cách học trên lớp với học tập có sự hỗ trợ của công nghệ, học tập qua mạng4. Tác giả Nguyễn Danh Nam nhận định rằng: Sự kết hợp giữa E-learning với lớp học truyền thống trở thành một giải pháp tốt, nó tạo thành một mô hình đào tạo gọi là “Blended learning”5. Từ những cách định nghĩa trên, có thể hiểu một cách đơn giản, B-learning là sự phối hợp nội dung, phương pháp và cách thức tổ chức dạy - học giữa các hình thức học khác nhau nhằm tối ưu hóa thế mạnh mỗi hình thức, đảm bảo hiệu quả giáo dục đạt được là cao nhất. B-learning là sự kết hợp “hữu cơ” bổ sung lẫn nhau giữa hình thức F2F dưới sự hướng dẫn của giảng viên và hình thức E-learning với tính tự giác của người học thành một thể thống nhất, mà trong đó các phương pháp dạy học được vận dụng một cách linh hoạt để tận dụng tối đa các thế mạnh của CNTT-TT nhằm mang lại hiệu quả dạy - học tốt nhất6. 1.2. Đặc điểm Nghiên cứu của Osguthope & Graham (2003) đã chỉ ra sáu lí do để chọn thiết kế hoặc sử dụng một hệ thống học kết hợp là: (i) tính phong phú của sư phạm (ii) tiếp cận với sự hiểu biết (iii) sự tương tác xã hội (iv) hướng tới cá nhân (v) chi phí hiệu quả (vi) dễ dàng sửa đổi. Kết quả nghiên cứu của Graham, Allen & Ure (2003) cũng cho thấy, đa số người dân chọn B-learning vì ba lí do chính (i) hoàn thiện tính sư phạm (ii) tăng tính truy cập và sự linh hoạt (iii) tăng hiệu quả chi phí7. Tác giả Victoria L. Tinio nhận định: “Không 2. Victoria L. Tinio (Nhóm công tác e-ASEAN UNDP-APDIP dịch) (2003), “Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong giáo dục”, unapcict.org, 30/09/2005. 3. Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press). Handbook of blended learning: Global Perspectives, local designs, chapter 11. San Francisco, CA: Pfeiffer Publishing 4. Nguyễn Văn Hiền, (2008), Tổ chức “Học tập hỗn hợp” biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng CNTT cho sinh viên trong dạy học sinh học, Tạp chí giáo dục số 192 năm 2008, trang 34; 43; 44 5. Nguyễn Danh Nam, (2007), Các mức độ ứng dụng E - learning ở trường ĐHSP, Tạp chí giáo dục số 175, trang 41; 42; 43 6. Trần Huy Hoàng, Nguyễn Kim Đào (2014), Tổ chức hoạt động dạy học theo B-learning đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo sau 2015, Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Văn Hiến, số 5 (11/2014) 7. Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press). Handbook of blended learning: Global Perspectives, local designs, chapter 11. San Francisco, CA: Pfeiffer Publishing phải tất cả các chương trình học đều có thể được thực hiện tốt nhất trong môi trường trang thiết bị điện tử...; căn cứ để lựa chọn hình thức đào tạo là đặc điểm của môn học, mục tiêu và kết quả học tập, tính cách của học viên và bối cảnh học tập để lựa chọn hình thức, phương pháp và phương tiện giảng dạy thích hợp nhất”8. Như vậy, trong học tập kết hợp vai trò của CNTT-TT là tất yếu. Tuy nhiên, đó không phải là hình thức tích hợp CNTT-TT đơn thuần vào quá trình dạy và học mà quan trọng là cách sử dụng như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất và đem lại sự tiện lợi nhất cho cả người dạy và người học. 1.3. Cấu trúc B-learning là sự tiến hoá hợp lý và tự nhiên trong tiến trình học tập. Nó chỉ ra một giải pháp để khắc phục hạn chế của dạy học E-learning và dạy học F2F. Nó là một cơ hội để tích hợp các sáng tạo và tiến bộ công nghệ, cụ thể là học tập trực tuyến E-learning, với sự kết hợp và tương tác tốt nhất với học tập F2F. Bằng cách áp dụng lý thuyết học tập của Keller, Gagne, Bloom, Merrill, Clark và Géry, M. Carman (2005) đưa ra năm thành phần chính là những yếu tố quan trọng của một quá trình B-learning như hình sau: Hình 1. Các thành phần chính của B-learning Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu khoa học Đại học Văn Hiến, số 5 (11/2014) + Live Event - Hoạt động đồng bộ: Các sự kiện đồng bộ là một “thành phần” chính của B-learning. Trong hoạt động đồng bộ, giảng viên hướng dẫn các sự kiện học tập trong đó tất cả học viên tham gia cùng một lúc. + Self-Paced Learning - Tự học tập: Các sự kiện học tập không đồng bộ, người học tự hoàn thành các quá trình thu nhận kiến thức với tốc độ và thời gian học của mình, chẳng hạn như đào tạo dựa trên sự tương tác internet hoặc các thiết bị lưu trữ nội dung như CD, VCD, DVD, USB + Collaboration - Cộng tác: Môi trường trong đó người học giao tiếp với người khác, ví dụ, e-mail, các cuộc thảo luận hoặc trò chuyện trực tuyến. Hiệu quả của hoạt động đồng bộ hoặc quá trình tự học sẽ được tăng cường khi tạo ra cơ hội cho sự hợp tác. Khi tạo ra một chương trình B-learning, nhà thiết kế nên tạo ra môi trường mà học viên và giảng viên có thể hợp tác đồng bộ trong các phòng trò chuyện 8. Victoria L. Tinio (Nhóm công tác e-ASEAN UNDP-APDIP dịch) (2003), “Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong giáo dục”, unapcict.org, 30/09/2005. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 113Số 24 - Tháng 12 năm 2018 trực tuyến, hoặc không đồng bộ bằng cách sử dụng e-mail và các cuộc trao đổi thảo luận. + Assessment - Đánh giá: Một thước đo kiến thức của người học. Đánh giá là một trong những thành phần quan trọng nhất của B-learning, vì hai lý do: Nó cho phép người học dễ dàng “kiểm tra” nội dung mà họ đã biết, để điều chỉnh quá trình B-learning của họ và thể hiện hiệu quả của tất cả các phương pháp, hoạt động học tập. + Performance Support Materials - Tài liệu hỗ trợ: là các thành phần quan trọng nhất của B-learning. Nó thúc đẩy sự “duy trì và chuyển giao học tập” với môi trường làm việc. 1.4. Mô hình Trong E-learning, Internet vừa là môi trường phân phối tài nguyên học, vừa là nơi diễn ra các hoạt động dạy - học. Việc triển khai học qua mạng hiện nay còn gặp nhiều khó khăn do yếu tố khách quan như điều kiện cơ sở vật chất và chủ quan như trình độ và kỹ năng khai thác, sử dụng. Vì vậy B-learning là một giải pháp hiệu quả hiện nay. Mô hình học kết hợp được thể hiện như hình dưới: Hình 2. Mô hình B-learning Nguồn: Trần Huy Hoàng, Nguyễn Kim Đào (2014), Tổ chức hoạt động dạy học theo B-learning đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo sau 2015, Tạp chí Nghiên cứu khoa học Đại học Văn Hiến, số 5 (11/2014) Theo hình 2, người học tham gia vào quá trình học tập bằng cách học giáp mặt trên lớp (nhóm, cá nhân, seminar, hội thảo); học hợp tác qua mạng máy tính (chat, blog, online, forum) và tự học (trực tuyến/ngoại tuyến, độc lập về không gian). Với mỗi nội dung, người học được học bằng phương pháp tốt nhất, phương tiện tốt nhất, hình thức phù hợp nhất và khả năng đạt hiệu quả cao nhất. 2. Đặc điểm công tác bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số và các phương án học kết hợp ứng dụng công tác này 2.1. Đặc điểm công tác bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số - Trong các lớp bồi dưỡng CBCCVC người DTTS, các học viên là người DTTS của nhiều dân tộc khác nhau ở nhiều vùng miền, tính đa dạng về văn hóa trong các lớp bồi dưỡng này rất cao. Việc này đòi hỏi người giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy các lớp này phải có nhiều hiểu biết và trải nghiệm thực tiễn về văn hóa các dân tộc. - CBCCVC người DTTS đa phần ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, xa các trung tâm huyện lỵ, tỉnh lỵ. CBCCVC người DTTS thường có tâm lý tự ti, ngại đi học xa9, do vậy công tác bồi dưỡng cho đội ngũ này thường gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển sinh đủ số lượng học viên để tổ chức lớp học. Ngoài ra, với tâm lý tự ti, việc học viên tham gia đóng góp ý kiến trực tiếp trên lớp học cũng ít, làm cho chất lượng các buổi học giảm đi khá nhiều. - CBCCVC người DTTS do đa phần ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, điều kiện tiếp xúc với các thiết bị hiện đại và internet ít, do vậy kỹ năng ứng dụng CNTT còn rất yếu. Đây là trở ngại lớn nhất khi áp dụng các chương trình học trực tuyến hoàn toàn (online learning). - Đối với cơ sở giáo dục tổ chức các lớp bồi dưỡng CBCCVC người DTTS, thường phải tổ chức các lớp tại địa phương, xa với trụ sở chính của cơ sở. Do vậy, chi phí cho công tác khảo sát và thuê cơ sở vật chất cộng với chi phí giảng viên đi lại, ăn ở sẽ làm cho tổng kinh phí để tổ chức một lớp bồi dưỡng như vậy nâng lên rất nhiều. Chưa kể việc tổ chức lớp sẽ bị kéo dài thời gian, dẫn đến số lượng lớp bồi dưỡng đối tượng này trong một năm không nhiều. 2.2. Các phương án học kết hợp ứng dụng cho bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số Có nhiều phương án học kết hợp được đưa ra dựa trên nội dung, phương pháp tiến hành và đặc điểm của từng môn học, chuyên đề. Việc học kết hợp được thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau. Một số nghiên cứu đưa ra bốn mức độ của sự kết hợp là: Kết hợp ở mức hoạt động (Activity level); kết hợp ở mức độ khóa học (Courrse level); kết hợp ở mức độ chương trình (Program level); kết hợp ở mức độ thể chế (Institutional level)10. Cách phân chia này chủ yếu dựa trên nội dung học được kết hợp. Dựa vào đó, tôi xin đề xuất những kiểu kết hợp áp dụng cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS như sau: (i) Kết hợp về mặt phương pháp giữa các phương pháp dạy học khác nhau đối với từng nội dung học 9. Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ 10. Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press). Handbook of blended learning: Global Perspectives, local designs, chapter 11. San Francisco, CA: Pfeiffer Publishing Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 114 Số 24 - Tháng 12 năm 2018 và chuyên đề cụ thể; (ii) Kết hợp trong một khâu hoặc trong các khâu của quá trình dạy học; (iii) Kết hợp về mặt nội dung (trong một hoạt động, trong một bài, trong một phần, chuyên đề hoặc các chuyên đề có liên quan mật thiết về nội dung với nhau). Hình 3. Các hình thức kết hợp cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS 3. Lợi ích khi áp dụng B-learning cho các chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách xây dựng đội ngũ CBCCVC người DTTS, tuy nhiên, đội ngũ này vẫn còn mỏng cả về số lượng lẫn năng lực chuyên môn chưa ngang tầm nhiệm vụ11 và muốn tăng đội ngũ CBCCVC người DTTS cả về số lượng lẫn chất lượng, khâu đột phá đó chính là giáo dục - đào tạo12, mà trong đó bồi dưỡng là một thành phần không thể thiếu. Tuy nhiên, như đã phân tích tại phần đặc điểm của các lớp bồi dưỡng CBCCVC người DTTS ở trên, khi tổ chức các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ này theo cách tổ chức dạy học truyền thống trên thực tế thường có những khó khăn như sau: - Về khoảng cách địa lý: Các lớp bồi dưỡng, thông thường phải tổ chức ở trung tâm huyện lỵ hoặc tỉnh lỵ. Việc này sẽ làm tăng chi phí cho cán bộ tham gia lớp học. - Về thời gian: Các lớp bồi dưỡng theo phương thức tổ chức dạy học truyền thống bắt buộc học viên phải học đầy đủ chương trình bằng hình thức tập trung. Việc này dẫn đến việc cán bộ phải tạm gác công việc để tham gia các chương trình này. Trong 11. Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ 12. can-bo-nguoi-dan-toc-thieu-so-tiep-theo-va-het.html khi đó, đội ngũ CBCCVC người DTTS phải bám địa bàn thì công tác quản lý mới đạt hiệu quả, rất khó sắp xếp thời gian để tham gia các chương trình bồi dưỡng mang tính tập trung cao như vậy được. - Về chuyên môn: Đối với các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS, việc giảng dạy và học tập đòi hỏi rất lớn đối với việc trải nghiệm thực tiễn; kỹ năng tự cập nhật kiến thức và các văn bản pháp luật; kỹ năng nhận xét, phân tích, đánh giá và so sánh các kinh nghiệm thực tiễn. Những chương trình có các chuyên đề liên quan đến các kỹ năng như giao tiếp, làm việc nhóm, thu thập và xử lý thông tin, quản lý thời gian người dạy cần phải dạy trực tiếp và cầm tay chỉ việc đối với đối tượng này. Mặt khác, so với người Kinh, năng lực đội ngũ CBCCVC người DTTS còn nhiều hạn chế, nhận thức hạn hẹp. Cộng thêm tâm lý tự ti, ngại đi học xa, ngại đi học dài hạn13, sẽ làm cho các lớp bồi dưỡng này đạt hiệu quả không cao. Đặc biệt đối với các lớp bồi dưỡng chung, thành phần lớp có cả cán bộ người Kinh lẫn người DTTS. Vì vậy, việc tổ chức dạy-học các chương trình bồi dưỡng cho đối tượng CBCCVC người DTTS sẽ phát huy hiệu quả tốt khi áp dụng B-learning với những lý do sau đây: - Giảm chi phí đi lại, giảm thời gian tập trung: Việc ứng dụng CNTT-TT sẽ giúp cho người học tiếp cận các kiến thức lý thuyết chủ động hơn, các tài liệu dưới dạng multimedia cũng sẽ sinh động hơn làm cho người học dễ tiếp thu. Việc này sẽ giúp cho việc tổ chức dạy - học được rút ngắn thời gian phải tập trung ở lớp học. Có thể áp dụng cách thức tổ chức dạy - học không đồng bộ để áp dụng đối với các chuyên đề mang tính lý thuyết cao. Giảng viên đưa bài giảng, các tài liệu tham khảo, các câu hỏi, bài tập liên quan đến chuyên đề lên hệ thống. Học viên tham gia vào hệ thống để học các chuyên đề, trả lời các câu hỏi và bài tập trên hệ thống, đặt các câu hỏi thắc mắc đến chuyên đề để giảng viên phản hồi. Buổi học F2F, giảng viên chỉ cần giải thích cụ thể hơn các thắc mắc của học viên và đưa thêm các kinh nghiệm thực tiễn. Điều này sẽ giúp người học chủ động thời gian của mình trong công việc, không tốn quá nhiều thời gian tập trung tại một địa điểm để học tập. - Đảm bảo chất lượng về mặt chuyên môn: Việc trao đổi kiến thức qua không gian mạng, không tiếp xúc trực tiếp có thể hạn chế được nhược điểm tâm lý tự ti, ngại giao tiếp, ngại thể hiện ý kiến trực tiếp của cán bộ người DTTS. Đối với các chuyên đề mang tính thực tiễn, các chuyên đề kỹ năng (cần hướng dẫn cầm tay chỉ việc), B-learning vẫn có hình thức tổ chức dạy học F2F như đã đề xuất ở 13. Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 115Số 24 - Tháng 12 năm 2018 trên. Việc này sẽ khắc phục được nhược điểm của E-learning đối với những chuyên đề này. - Đối với cơ sở giáo dục áp dụng B-learning cho đối tượng này: Có thể việc ứng dụng CNTT-TT vào thời gian đầu sẽ tốn rất nhiều kinh phí (đầu tư máy móc, phương tiện, đào tạo giảng viên, chi phí xây dựng hệ thống website ), nhưng chỉ cần đầu tư một lần và có thể sử dụng được nhiều cho các lớp về sau. Nếu tổ chức theo hình thức dạy-học truyền thống, mỗi lần tổ chức lớp tại các địa phương ở xa trụ sở chính, cơ sở giáo dục sẽ tốn một lần kinh phí khảo sát, thuê cơ sở vật chất với kinh phí mỗi lần không hề nhỏ. Mặt khác, kinh phí đi lại, ăn ở cho giảng viên giảng dạy mà cơ sở giáo dục phải bỏ ra sẽ ít hơn rất nhiều. Việc này có thể giúp cơ sở giáo dục hạ kinh phí các lớp bồi dưỡng theo hình thức xã hội hóa, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước. 4. Khó khăn khi áp dụng B-learning cho các chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức người DTTS và giải pháp khắc phục Khi áp dụng B-learning cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS trong thực tiễn, chúng ta sẽ gặp phải một số khó khăn nhất định như sau: (i) Xây dựng nguồn tài nguyên bài giảng: Để soạn bài giảng E-learning có chất lượng đòi hỏi tốn nhiều thời gian và công sức của giảng viên. Trong khi đó, hiện nay chưa có chế độ hỗ trợ cho giảng viên khi soạn giảng các bài giảng E-learning dành cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS. Mặt khác, như đã phân tích ở phần E-learning, có nhiều giảng viên có năng lực tốt về chuyên môn và sư phạm nhưng năng lực ứng dụng CNTT-TT còn hạn chế nên không thể phát huy hết được năng lực đội ngũ này. (ii) Về phía người học: Như đã nêu ở các phần trên, cán bộ người DTTS vẫn còn bị ảnh hưởng của cách học thụ động truyền thống, thái độ học tập chưa cao, tâm lý tự ti, ngại đi học xa. Mặt khác, đối với đội ngũ này, kỹ năng ứng dụng CNTT-TT còn rất yếu, đặc biệt là các học viên người DTTS ở các vùng núi, vùng xâu vùng xa. (iii) Về cơ sở vật chất: Đòi hỏi phải có hạ tầng CNTT đủ mạnh, có đường truyền cáp quang, xây dựng Website trường học và Website E-Learning hoàn chỉnh chi phí cao, nếu không tận dụng hết khả năng của Web sẽ gây lãng phí. Đối với những lớp bồi dưỡng đặt tại địa phương, đặc biệt là địa phương ở vùng xâu vùng xa như đã đề cập ở trên, việc học viên tiếp cận với Internet và máy tính còn gặp nhiều khó khăn, cũng sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình dạy-học qua môi trường Internet. (iv) Về nhân lực phục vụ E–learning: Cần có cán bộ chuyên trách phục vụ sự hoạt động của hệ thống E-Learning. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các trường có tổ chức bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức không có cơ chế, chính sách đãi ngộ cho các cán bộ chuyên trách này. Với những khó khăn nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp khắc phục như sau: Thứ nhất, các trường đại học, học viện (gọi tắt là các trường) cần xác định E-learning là một chiến lược trong giáo dục mới hướng tới xã hội học tập. Trong đó, đối với các trường được giao nhiệm vụ bồi dưỡng đội ngũ CBCCVC người DTTS, cần xem B-learning là một giải pháp hiệu quả khi áp dụng cho các chương trình bồi dưỡng nhằm nâng cao chấp lượng đội ngũ này. Thứ hai, tăng cường tập huấn về phương pháp, kĩ năng, sử dụng tổng hợp nhiều hợp phần để tạo bài giảng E-Learning cho các giảng viên tham gia chương trình bồi dưỡng có ứng dụng B-learning. Thứ ba, các trường phải đầu tư trang thiết bị, hỗ trợ kinh phí cho giảng viên trong việc tạo bài giảng. Chi phí ban đầu có thể lớn đối với các trường, tuy nhiên những trang thiết bị này sẽ được sử dụng nhiều lần và tính chi phí so với tổng chi phí để khảo sát và thuê cơ sở vật chất của các lớp bồi dưỡng sẽ tiết kiệm hơn nhiều. Thứ tư, các trường cần trực tuyến hóa trường học bao gồm trực tuyến hóa về quản lí, điều hành, tác nghiệp và trực tuyến hóa về dạy học. Website trường học phải trở thành địa chỉ thân thiện với cán bộ, giảng viên, học viên. Hướng dẫn phương pháp tự học, học tập và trao đổi qua mạng cho người học. Đây là kĩ năng cần thiết để học tập các chương trình bồi dưỡng có áp dụng B-learning. Thứ năm, vai trò của giảng viên là rất quan trọng trong việc triển khai B-Learning. Vì vậy, giảng viên không chỉ nắm bắt được phương pháp học tập mà còn là người tạo ra bài giảng phục vụ cho giảng dạy, các bài giảng E-Learning phục vụ cho tự học của người học. Phải có hình thức đào tạo đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu dạy học hiện đại nhất: như có khả năng ứng dụng CNTT vào dạy học, có khả năng sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại, và quan trọng hơn cả là năng lực tự học, tự nghiên cứu khoa học. Vì đó là nền tảng quan trọng để người giảng viên không bị tụt hậu so với thời đại. Thứ sáu, áp dụng B-learning có lộ trình đối với các lớp bồi dưỡng CBCCVC người DTTS đặt tại địa phương xa trụ sở chính của cơ sở giáo dục. Trước tiên, chỉ nên ứng dụng với các lớp đặt tại các trung tâm tỉnh lỵ như thành phố, thị xã hoặc tại các trung tâm huyện lỵ có điều kiện phát triển kinh tế-xã hội tốt. Áp dụng cho các lớp bồi dưỡng cán bộ cấp cao trước (bồi dưỡng nhóm đối tượng 1 và 2 theo quyết định số 771/QĐ-TTg ngày 26/6/2018 Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 116 Số 24 - Tháng 12 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án “Bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với CBCCVC giai đoạn 2018-2025”), thực hiện và điều chỉnh nhiều lần để tích lũy kinh nghiệm tổ chức rồi mới áp dụng đối với các lớp bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch, bậc, vị trí việc làm khác (như chuyên viên chính, chuyên viên, bồi dưỡng cấp phòng, bồi dưỡng cấp xã, bồi dưỡng nhóm đối tượng 3 và 4 theo quyết định 771/QĐ-TTg nói trên). Thứ bảy, trước khi thực hiện thí điểm, các trường phải ban hành các quy định bằng văn bản đối với tất cả các hoạt động liên quan đến việc dạy-học trên môi trường Internet. Sau khi thực hiện thí điểm, các trường phải tổng kết, rà soát các quy định để điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Hằng năm, các trường phải thực hiện công việc này nhằm đảm bảo quyền lợi của người dạy và người học. Ngoài ra, các trường phải giao cho các Khoa chuyên môn, hàng năm đều phải có rà soát, đánh giá các bài giảng E-learning của các giảng viên để có điều chỉnh cho phù hợp thực tiễn cũng như phù hợp với các quy định trong việc tổ chức các chương trình bồi dưỡng nếu có thay đổi. 5. Kết luận E-learning là xu hướng tất yếu trong giai đoạn hiện nay, nhờ công nghệ này mọi người có ở bất kỳ nơi đâu, thời điểm nào đều có thể tham gia những khóa học tốt nhất được hướng dẫn bởi những giảng viên giỏi. Tuy nhiên, việc tổ chức hình thức dạy học truyền thống vẫn có những lợi thế nhất định đối với các lớp bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức. Chính vì vậy, đối với các lớp bồi dưỡng này, việc tận dụng tất cả các ưu điểm của dạy học truyền thống (F2F) và dạy học qua mạng bằng cách áp dụng hình thức B-learning sẽ đem lại hiệu quả tối ưu cho chất lượng bồi dưỡng nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC người DTTS, từ đó nâng cao chất lượng nền công vụ nói chung. Tuy vậy, khi ứng dụng CNTT-TT cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS, các trường cần phải vạch ra cho đơn vị mình một lộ trình ứng dụng cụ thể, đồng thời ban hành các văn bản quy định liên quan đến các hoạt động này chứ không nên vội vàng triển khai đại trà, điều này có thể làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các khóa bồi dưỡng. Tài liệu tham khảo Cao Đức Hạnh, (2007), Tổng quan đào tạo trực tuyến với E-learning, Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng Hải - Đại học Hàng Hải, số 10 (6/2007). Nguyễn Văn Hiền, (2008), Tổ chức “Học tập hỗn hợp” biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng CNTT cho sinh viên trong dạy học sinh học, Tạp chí Giáo dục, số 192, trang 34; 43; 44. Lê Huy Hoàng, Lê Xuân Quang, (2011), E-learning và ứng dụng trong dạy học, Đại học Sư phạm Hà Nội. Trần Huy Hoàng, Nguyễn Kim Đào, (2014), Tổ chức hoạt động dạy học theo B-learning đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo sau 2015, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học - Đại học Văn Hiến, số 5 (11/2014). Nguyễn Danh Nam, (2007), Các mức độ ứng dụng E - learning ở trường ĐHSP, Tạp chí Giáo dục, số 175, trang 41; 42; 43. Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press). Handbook of blended learning: Global Perspectives, local designs, chapter 11. San Francisco, CA: Pfeiffer Publishing. William Horton, (2011), E-learning by Design (Second Edition), San Francisco: Pfeiffer. Victoria L. Tinio (Nhóm công tác e-ASEAN UNDP-APDIP dịch), (2003), “Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong giáo dục”, 30/09/2005. UNESCO, (2010), ICT Transforming Education - A Regional Guide. https://masie.com. https://vi.wikipedia.org/wiki/ Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_ tr%E1%BB%B1c_tuy%E1%BA%BFn. News/125/0/1010070/0/40357/Xay_dung_ doi_ngu_can_bo_cong_chuc_nguoi_dan_ toc_thieu_so_Giai_phap_quan_trong_bao_ dam_quyen_binh_dang (Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ). item/33180602-xay-dung-doi-ngu-can-bo- nguoi-dan-toc-thieu-so-tiep-theo-va-het. html (Lê Mậu Lâm và các cộng sự).
File đính kèm:
- ung_dung_b_learning_trong_cong_tac_boi_duong_can_bo_cong_chu.pdf