Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh

Phát huy những tiềm năng và lợi thế của mình, TPHCM đang hướng đến việc

trở thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ, giáo dục và đào tạo, khoa học và công

nghệ của khu vực Đông Nam Á. Để đáp ứng yêu cầu đó, TPHCM xác định giáo

dục và đào tạo đóng vai trò quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Trong

khuôn khổ bài viết, tác giả phân tích làm rõ vai trò của giáo dục và đào tạo đối

với việc phát triển nguồn nhân lực, từ đó đưa ra một số giải pháp đổi mới giáo

dục và đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực ở TPHCM hiện nay.

pdf 10 trang yennguyen 4240
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh

Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh
50 
CHUYÊN MỤC 
KINH TẾ HỌC - XÃ HỘI HỌC 
VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
NGUYỄN VÕ HOÀNG MAI* 
Phát huy những tiềm năng và lợi thế của mình, TPHCM đang hướng đến việc 
trở thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ, giáo dục và đào tạo, khoa học và công 
nghệ của khu vực Đông Nam Á. Để đáp ứng yêu cầu đó, TPHCM xác định giáo 
dục và đào tạo đóng vai trò quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Trong 
khuôn khổ bài viết, tác giả phân tích làm rõ vai trò của giáo dục và đào tạo đối 
với việc phát triển nguồn nhân lực, từ đó đưa ra một số giải pháp đổi mới giáo 
dục và đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực ở TPHCM hiện nay. 
Từ khóa: Vai trò của giáo dục, giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực 
Nhận bài ngày: 14/11/2018; đưa vào biên tập: 10/12/2018; phản biện: 22/2/2019; 
duyệt đăng: 16/4/2019 
1. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ VAI 
TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN 
LỰC CON NGƯỜI 
Trong tiến trình phát triển của lịch sử 
nhân loại, một trong những yếu tố có 
vai trò quan trọng, quyết định sự tồn 
tại và phát triển xã hội đó là con người, 
là nguồn nhân lực. Ở phương Tây, 
ngay từ thời cổ đại, khi đề cao vai trò 
của con người, nhà triết học cổ Hy 
Lạp Protagras đã nói: “Con người là 
thước đo vạn vật” (I’home est la 
mesure de toutes choses) (Lê Tôn 
Nghiêm, 1970: 306). Còn ở phương 
Đông, trong Thượng thư, thiên Thái 
thệ thượng cũng viết: “Chỉ có con 
người là tối linh trong vạn vật - Vạn 
vật duy nhân chi linh”. 
Đến V.I. Lênin, khi nói về vai trò của 
con người, người lao động, Lênin 
(1977, tập 38: 430) khẳng định: “Lực 
lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể 
nhân loại là công nhân, là người lao 
*
 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân 
văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
NGUYỄN VÕ HOÀNG MAI – VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
51 
động”. Trên tinh thần đó, khi nói về vai 
trò của con người, Chủ tịch Hồ Chí 
Minh (2000, tập 10: 310) cũng đã chỉ 
rõ: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước 
hết cần có những con người xã hội 
chủ nghĩa”. Do đó, có thể nói, phát 
triển nguồn lực con người nhằm phát 
triển hoàn thiện các giá trị về trí tuệ, 
kỹ năng, đạo đức, tinh thần, thể chất, 
để trở thành người lao động có những 
năng lực và phẩm chất cần thiết, đáp 
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - 
xã hội nhanh và bền vững của mỗi 
quốc gia là một nhiệm vụ cơ bản và 
cấp thiết. Nhận thức rõ vấn đề trên, 
trong các văn bản nghị quyết của 
Đảng (1997: 9), Đảng ta cũng đã 
khẳng định: “Nguồn lực con người là 
quý báu, có vai trò quyết định, đặc biệt 
đối với nước ta, khi nguồn lực tài 
chính và nguồn lực vật chất còn hạn 
hẹp”; và vì thế Đảng ta xác định “con 
người là trung tâm chiến lược phát 
triển, đồng thời là chủ thể phát triển” 
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011: 76). 
Nói đến nguồn nhân lực là nói đến 
tổng thể các tiềm năng lao động, tức 
nguồn lao động với tổng hòa các yếu 
tố về thể chất và tinh thần, về thể lực 
và trí lực, về kỹ năng, năng lực và 
phẩm chất của con người, mà trước 
hết là người lao động đã và đang sẵn 
sàng tham gia vào quá trình lao động 
sản xuất xã hội, ở từng ngành, từng 
lĩnh vực, từng địa phương và của cả 
quốc gia. Nguồn nhân lực bao gồm 
các yếu tố như số lượng, chất lượng, 
cơ cấu và hiệu quả sử dụng nguồn 
nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực 
chính là quá trình tạo sự biến đổi, phát 
triển về số lượng, chất lượng và cơ 
cấu của nguồn nhân lực, nhằm nâng 
cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực 
cũng như mọi nguồn lực của một quốc 
gia, đáp ứng ngày càng cao sự phát 
triển bền vững của quốc gia đó. Từ 
nội dung phát triển nguồn nhân lực như 
vậy, chúng ta có thể thấy vai trò của 
giáo dục và đào tạo đối với phát triển 
nguồn nhân lực, thực chất là đảm bảo 
phát triển cơ cấu, số lượng lao động 
một cách hợp lý trong từng ngành, 
từng lĩnh vực và trong cả nền kinh tế 
của quốc dân; là làm gia tăng về chất 
lượng, hiệu quả của nguồn nhân lực 
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. 
Nếu phát triển nguồn nhân lực được 
coi là yếu tố quyết định sự phát triển 
của mỗi quốc gia, thì phát triển giáo 
dục và đào tạo là phương thức chủ 
yếu, có vai trò quyết định đối với việc 
đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng 
cao, là cơ sở của chiến lược phát triển 
con người, phát triển xã hội. Khi nói 
đến vai trò của giáo dục và đào tạo, 
các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - 
Lênin luôn đề cao vai trò của giáo dục, 
coi giáo dục là phương tiện quan 
trọng trong đào tạo con người cũng 
như trong sự nghiệp xây dựng xã hội 
mới. C. Mác viết: “Giáo dục là một bộ 
phận của kiến trúc thượng tầng, là 
công cụ truyền bá ý thức hệ tư tưởng, 
là phương tiện đào tạo con người cho 
xã hội, truyền bá sức mạnh tinh thần” 
(C. Mác và Ph. Ăngghen, 1995, tập 3: 
66). Khi khẳng định vai trò to lớn của 
nền học vấn hiện đại do giáo dục và 
đào tạo tạo nên đối với sự nghiệp cải 
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
52 
trong đó có công cuộc điện khí hóa 
nhằm xây dựng một nền đại công 
nghiệp cơ khí, V.I. Lênin (1978, tập 41: 
364-365) viết: “Công việc tiến hành 
điện khí hóa toàn quốc chỉ có thể thực 
hiện trên cơ sở một nền học vấn hiện 
đại, nền học vấn mà thiếu nó thì chủ 
nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện 
vọng mà thôi”. 
Từ lịch sử đấu tranh dựng nước và 
giữ nước của dân tộc, ông cha ta, từ 
xưa cũng rút ra bài học lịch sử, rằng: 
“... Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, 
nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh 
mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế 
nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc 
đế vương thánh minh không đời nào 
không coi việc giáo dục nhân tài, kén 
chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc 
gia làm công việc cần thiết...” (Liên 
hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Bắc 
Giang, 2013: 9). 
Với sự hiểu biết sâu sắc về con người 
và về vai trò quan trọng đặc biệt của 
giáo dục đối với việc đào tạo và phát 
triển con người, với sự đúc kết kinh 
nghiệm thực tiễn cách mạng phong 
phú, sinh động, Chủ tịch Hồ Chí Minh 
(2000, tập 3: 238) cũng đã chỉ rõ: 
“Thiện ác vốn chẳng phải là bản tính 
cố hữu. Phần lớn đều do giáo dục mà 
nên”; từ đó Người đi tới khái quát: 
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” 
(Hồ Chí Minh, 2011, tập 4: 7); và 
Người đã chỉ ra mục tiêu, sứ mệnh 
của giáo dục là: “Học để làm việc, làm 
người, làm cán bộ. Học để phụng sự 
đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ 
quốc và nhân loại” (Hồ Chí Minh, 2011, 
tập 6: 208). 
Giáo dục và đào tạo có vai trò quan 
trọng đối với phát triển nguồn nhân 
lực, bởi chức năng, mục tiêu và sứ 
mệnh cao cả của nó chính là “trồng 
người”, là nhằm nâng cao trình độ 
hiểu biết của con người, cả trong lĩnh 
vực khoa học xã hội, khoa học tự nhiên 
và khoa học, kỹ thuật, công nghệ; là 
phát triển hoàn thiện kỹ năng vận dụng 
những tri thức khoa học, kỹ thuật, công 
nghệ vào sản xuất; là nâng cao tinh 
thần, ý thức, nhân cách con người; là 
rèn luyện đạo đức, trí lực, thể lực và 
mọi năng lực, phẩm chất của con 
người, đặc biệt là người lao động. Nói 
cách khác, giáo dục không chỉ đào tạo 
nên những con người có tri thức, học 
vấn và trình độ chuyên môn gi i mà 
c n r n luyện nên những con người 
có tinh thần, ý thức, phẩm chất đạo 
đức và thể chất tốt, phục vụ sự phát 
triển của xã hội. Giáo dục và đào tạo 
c n là phương thức để giữ gìn, phổ 
biến, giao lưu, phát triển văn hóa, 
khoa học, tạo ra nguồn nhân lực cho 
việc tái sản xuất ra sức lao động. Bởi 
thực chất vai trò và chức năng của 
giáo dục chính là sự truyền thụ, lĩnh 
hội và phát triển những tri thức và kinh 
nghiệm lịch sử - xã hội mà loài người 
đã sáng tạo nên, qua các thế hệ tiếp 
nối nhau trong lịch sử. 
Chính vì vậy, ngày nay, các quốc gia 
không chỉ quan niệm giáo dục và đào 
tạo là hoạt động xã hội đặc biệt, là bộ 
phận của kiến trúc thượng tầng mà 
còn là yếu tố giữ vị trí nền tảng và vai 
tr động lực quyết định sự phát triển 
của kinh tế - xã hội; đầu tư giáo dục 
và đào tạo là đầu tư cho tương lai. 
NGUYỄN VÕ HOÀNG MAI – VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
53 
2. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO 
TẠO ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN 
NGUỒN NHÂN LỰC Ở TPHCM TRONG 
NHỮNG NĂM QUA 
2.1. Nguồn nhân lực TPHCM 
TPHCM đặc biệt quan tâm và định 
hướng cụ thể việc phát triển nguồn 
nhân lực một cách toàn diện. Quy 
hoạch phát triển nguồn nhân lực của 
Thành phố giai đoạn 2011 - 2020 với 
tổng vốn đầu tư ước tính khoảng 244 
nghìn tỷ đồng, chiếm 17,7% tổng vốn 
đầu tư của Thành phố. Trong đó, thời 
kỳ 2011 - 2015 là 64 nghìn tỷ đồng, 
chiếm 18,23%; thời kỳ 2016 - 2020 là 
180 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,52% (Bộ 
Khoa học và Công nghệ, Cục Thông 
tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, 
2013: 113). 
Theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân 
lực và Thông tin thị trường TPHCM, tỷ 
lệ lực lượng lao động có trình độ 
chuyên môn kỹ thuật (có bằng cấp) 
tăng hằng năm, từ năm 2012 là 
64,30% đến năm 2015 là 72,33% và 
năm 2016 là 75%. Điều đó cho thấy, 
trình độ chuyên môn của lực lượng 
lao động qua đào tạo tại TPHCM ngày 
càng tăng (Trung tâm Dự báo nhu cầu 
nhân lực và Thông tin thị trường 
TPHCM, 2017)
(1)
. 
Tuy nhiên, nguồn nhân lực chưa đáp 
ứng mục tiêu phát triển nhanh và bền 
vững của Thành phố. TPHCM cũng 
chịu áp lực chung, tương tự như các 
thành phố khác về vấn đề nhân lực và 
việc làm. Theo số liệu thống kê, mặc 
dù lao động qua đào tạo nghề thành 
phố đạt 77,5%, song tỷ lệ lao động 
qua đào tạo chỉ chiếm 34%, thấp hơn 
nhiều so với các tỉnh thành khác trong 
cả nước (tại Hà Nội, tỷ lệ lao động 
qua đào tạo chiếm 39,9%, Đà Nẵng là 
41,6%). Lao động không có chuyên 
môn chiếm tỷ lệ đáng báo động là 
66,6% (Tổng cục Thống kê, 2016: 
150). Tỷ lệ lao động qua đào tạo chính 
quy thấp đã trở thành “nút thắt” đối với 
doanh nghiệp trong việc ứng dụng tiến 
bộ khoa học - công nghệ và tăng năng 
suất lao động trong tất cả các ngành 
của nền kinh tế. Đặc biệt, Thành phố 
đang tồn tại một nghịch lý là mặc dù 
nguồn nhân lực dồi dào, nhu cầu việc 
làm lớn nhưng nhiều doanh nghiệp 
vẫn rơi vào tình trạng khan hiếm lao 
động đặc biệt là đội ngũ giám đốc điều 
hành, quản trị, chuyên gia trên mọi 
lĩnh vực. 
Về lĩnh vực ngành nghề thì những 
ngành chủ lực phát triển của Thành 
phố như ngành cơ khí, hóa, chế biến 
thực phẩm, điện tử chỉ mới đáp ứng 
khoảng 30% nhu cầu tuyển dụng. Mặt 
khác, theo khảo sát của Trung tâm Dự 
báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị 
trường TPHCM “chỉ có 80% sinh viên, 
học viên tốt nghiệp tại TPHCM tìm 
được việc làm, 20% không tìm được 
việc. Trong số tìm được việc chỉ có 
50% là có việc làm phù hợp với năng 
lực, sở thích” (Huyền Bình, 2013). 
Doanh nghiệp không tìm được người 
lao động như mình mong muốn và 
trên 50% sinh viên ra trường khó khăn 
trong kiếm việc làm. Việc đào tạo 
nặng lý thuyết, ít thực hành như hiện 
nay khiến nhiều doanh nghiệp phải 
đào tạo lại, đào tạo thêm cho nhân 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
54 
công sau tuyển dụng. Chưa kể, với 
phương tiện thiết bị phục vụ giảng dạy 
cũ kỹ, lạc hậu ở nhiều trường như 
hiện nay thì học viên sau tốt nghiệp 
cũng không ít bỡ ngỡ với những máy 
móc trang thiết bị hiện đại trong thực 
tiễn xã hội sản xuất và quản lý hiện 
nay. 
Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, Thành 
phố tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, đồng 
thời bổ sung chính sách đủ mạnh để 
thu hút và trọng dụng nhân tài nhằm 
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, 
trong đó vừa chú trọng nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực chung, chú 
trọng xây dựng nguồn nhân lực còn 
thiếu, vừa quan tâm xây dựng nguồn 
nhân lực có chất lượng cao gắn với 
phát triển khoa học - công nghệ. Tập 
trung cho những ngành, lĩnh vực có 
hàm lượng công nghệ, giá trị tăng cao, 
có vai trò quyết định, tạo bước đột 
phá mạnh mẽ trong phát triển kinh tế, 
văn hóa, xã hội Thành phố nhanh và 
bền vững, đẩy nhanh quá trình công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối 
cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu 
rộng (Thành ủy Thành phố Hồ Chí 
Minh, 2016: 2). 
Theo định hướng đến năm 2025, 
TPHCM sẽ tiếp tục thực hiện chương 
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phấn 
đấu trở thành trung tâm công nghiệp, 
dịch vụ, giáo dục - đào tạo, khoa học - 
công nghệ của khu vực Đông Nam Á. 
Cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng 
giảm dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp 
và tăng dần tỷ trọng khu vực dịch vụ, 
nhu cầu nhân lực giữa các khu vực 
cũng có sự dịch chuyển. Đến năm 
2018, 2020 và 2025, cơ cấu kinh tế 
TPHCM lần lượt là: dịch vụ (65,19% - 
65,68% - 67,84%), công nghiệp, xây 
dựng (32,70% - 32,40% - 30,73%) và 
nông nghiệp (2,11% - 1,92% - 1,43%) 
(Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực 
và Thông tin thị trường TPHCM, 2018). 
Hiện nay, và những năm tới, thị trường 
lao động Thành phố về nhu cầu việc 
làm tiếp tục phát triển theo chiều 
hướng đổi mới công nghệ, nâng cao 
quản lý; phát triển quy mô sản xuất 
kinh doanh, quy mô doanh nghiệp tạo 
nhiều chỗ làm mới thu hút lao động 
với nhiều ngành nghề đa dạng, đặc 
biệt là nhu cầu về việc làm với chất 
lượng lao động cao. Dự báo bình 
quân mỗi năm có khoảng 300.000 chỗ 
làm việc (150.000 chỗ làm việc mới). 
Trong đó nhu cầu nhân lực qua đào 
tạo bình quân chiếm 85%, nhu cầu 
nhân lực bình quân có trình độ trung 
cấp chiếm tỷ lệ cao nhất 33%, sơ cấp 
nghề và công nhân kỹ thuật chiếm 
18%, trình độ cao đẳng chiếm 16%, 
trình độ đại học chiếm 17%, trên đại 
học chiếm 2% (Trung tâm Dự báo nhu 
cầu nhân lực và Thông tin thị trường 
TPHCM, 2018). 
2.2. Vai trò của giáo dục đối với 
phát triển nhân lực Thành phố 
Với vai tr là đầu tàu của vùng kinh tế 
trọng điểm phía Nam, bằng sự tiếp thu, 
kế thừa, phát triển lý luận về giáo dục, 
cùng với việc tổng kết kinh nghiệm 
thực tiễn giáo dục ở nước ta và các 
nước trên thế giới, lãnh đạo TPHCM 
tiếp nối qua các thế hệ đã nhận thức 
NGUYỄN VÕ HOÀNG MAI – VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
55 
khá rõ vai trò to lớn của giáo dục và 
đào tạo đối với việc đào tạo nguồn 
nhân lực, vì sự phát triển kinh tế - xã 
hội của Thành phố. Trên cơ sở đó, 
Thành phố đã có những chủ trương, 
cơ chế, chính sách và giải pháp phát 
triển giáo dục và đào tạo, nhằm đào 
tạo nguồn nhân lực phục vụ cho mục 
tiêu, nhiệm vụ chiến lược phát triển 
kinh tế - xã hội của Thành phố, không 
chỉ về quy mô, mà còn cả về nâng cao 
chất lượng giáo dục và đào tạo ở tất 
cả các cấp học. 
Giáo dục và đào tạo Thành phố trong 
những năm qua đã có bước phát triển 
nhanh. Hạ tầng cơ sở giáo dục được 
qui hoạch mới, nhiều trường học cho 
các cấp học được xây dựng mới đạt 
chuẩn quốc gia khang trang, hiện đại. 
Quy mô đào tạo ở các cấp học tăng 
dần qua từng năm. Thành phố đã cố 
gắng hoàn thành phổ cập trung học 
cơ sở, mặt bằng dân trí và học vấn 
của người dân được nâng lên một 
bước, khoảng cách chênh lệch về 
giáo dục giữa nội thành và ngoại 
thành giảm dần. Chương trình xã hội 
hóa giáo dục phát triển nhanh, đóng 
góp đáng kể vào sự nghiệp giáo dục 
của Thành phố. Thành phố đã thu hút 
các trường, cơ sở giáo dục quốc tế có 
uy tín, thương hiệu thành lập chi 
nhánh tại TPHCM, trở thành một trong 
những địa phương đã triển khai các 
hoạt động xã hội hóa giáo dục sôi 
động nhất trong cả nước (Ủy ban 
Nhân dân TPHCM, 2017). Nguồn nhân 
lực Thành phố được nâng cao hơn cả 
về lượng và chất thông qua chương 
trình đào tạo sau đại học trong nước 
và nước ngoài. Đội ngũ nguồn nhân 
lực chất lượng cao được quan tâm đầu 
tư phát triển đã thúc đẩy khoa học - 
công nghệ phát triển nhanh và mạnh. 
Thành phố đã có những chủ trương 
phát triển giáo dục và đào tạo gắn với 
nhu cầu thị trường lao động và chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế, chủ động liên kết 
hợp tác quốc tế để tiếp cận với giáo 
dục tiên tiến của thế giới; có sự liên 
kết giữa các cơ sở đào tạo với các 
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất. 
Thực tế những năm qua, các doanh 
nghiệp trên địa bàn Thành phố đã tiến 
hành nghiên cứu và sáng tạo ra hàng 
ngàn sáng kiến cải tiến kỹ thuật nhằm 
tăng năng suất, chất lượng sản phẩm 
từ đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật 
trình độ gi i làm việc trong các doanh 
nghiệp này. 
Riêng tổng kinh phí thực hiện Chương 
trình nâng cao chất lượng nguồn nhân 
lực TPHCM từ năm 2011 - 2013 
khoảng 936.776 triệu đồng (Thành ủy 
Thành phố Hồ Chí Minh, 2015: 21); 
vai trò của giáo dục và đào tạo đã 
thúc đẩy Thành phố phát triển các 
ngành kỹ thuật cao và dịch vụ hiện đại, 
công tác xã hội hóa giáo dục đạt hiệu 
quả tốt, được sự đồng tình và hưởng 
ứng của xã hội. Các doanh nghiệp 
luôn tích cực phát triển năng động, 
quan tâm các chính sách thu hút 
nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân 
lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật, 
nguồn nhân lực chất lượng cao. Tính 
đến năm 2016 có 44 viện, trung tâm 
nghiên cứu khoa học; 56 trường đại 
học, 26 trường cao đẳng chuyên 
nghiệp, 19 trường cao đẳng nghề, 41 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
56 
trường trung cấp và 27 trường trung 
cấp nghề (Trung tâm Dự báo nhu cầu 
nhân lực và Thông tin thị trường 
TPHCM, 2017)
(2)
, Thành phố đã trở 
thành trung tâm đào tạo và cung cấp 
nguồn nhân lực cho cả nước. Hệ 
thống đào tạo của Thành phố phát 
triển nhanh, quy mô đa ngành nghề, 
nhân lực luôn được đào tạo bổ sung, 
đào tạo lại để thay thế các vị trí không 
còn phù hợp hoặc chỗ làm việc mới 
theo yêu cầu trình độ, chất lượng lao 
động, ngành nghề chuyên môn với 
các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực. 
Sự thay đổi tích cực về nhận thức và 
đầu tư nâng cao đào tạo gắn với sử 
dụng lao động, cân đối theo trình độ 
nghề; nhu cầu ngành nghề để thực 
hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa, thúc đẩy nguồn nhân lực 
đặc biệt đối với thanh niên về tự học 
tập, nâng cao trình độ nghề và các kỹ 
năng nghề. 
Qua phân tích trên cho thấy, thời gian 
qua công tác đào tạo nguồn nhân lực 
nhằm phục vụ cho quá trình công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thành 
phố đã phát triển theo chiều hướng 
ngày càng gia tăng về quy mô, số 
lượng đào tạo hàng năm, loại hình 
đào tạo đa dạng. Điều đó khẳng định 
chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào 
tạo có nhiều chuyển biến tích cực 
trong việc nâng cao dân trí, đào tạo 
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ 
cho công cuộc xây dựng và phát triển 
kinh tế - xã hội và quá trình công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thành 
phố. 
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu 
kể trên, do những điều kiện và nguyên 
nhân khác nhau, giáo dục và đào tạo 
ở TPHCM thực sự chưa đáp ứng 
được yêu cầu phát triển nguồn nhân 
lực ngày càng cao cho sự phát triển 
của Thành phố. 
Theo Trung tâm Dự báo Nhu cầu 
nhân lực và Thông tin Thị trường lao 
động TPHCM, tồn tại lớn nhất trong 
vấn đề đào tạo hiện nay là cơ cấu đại 
học, cơ cấu trung cấp đang có khập 
khiễng giữa đào tạo và nhu cầu: bậc 
đại học đào tạo số lượng nhiều hơn 
so với nhu cầu, lực lượng công nhân 
gi i cần nhiều thì lại đào tạo ít hơn. 
Sở dĩ c n những hạn chế trên là do 
Thành phố chưa làm tốt chức năng 
quản lý, chưa điều tiết thị trường lao 
động hiệu quả, trong khi thị trường lao 
động tại TPHCM luôn biến động mạnh; 
đào tạo chưa gắn với thực tiễn và xu 
thế phát triển của Thành phố; đặc biệt, 
cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa 
các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo. 
Đại hội Đảng bộ TPHCM đã nhìn nhận 
những yếu kém của ngành giáo dục, 
đó là: “chất lượng giáo dục - đào tạo 
và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu 
cầu phát triển và hội nhập quốc tế” 
(Ðảng bộ TPHCM, 2015: 102). 
Quá trình xã hội hóa giáo dục và đào 
tạo ở TPHCM đã phát huy tiềm năng 
to lớn của xã hội có thể tham gia vào 
sự nghiệp giáo dục có nhiều cách 
thức khác nhau để th a mãn nhu cầu 
của nhiều đối tượng khác nhau trong 
xã hội, song hệ thống văn bản pháp 
quy về thực hiện công tác xã hội hóa 
NGUYỄN VÕ HOÀNG MAI – VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
57 
giáo dục vẫn còn những mặt chưa 
được cụ thể hóa, tính pháp chế còn ít, 
tính động viên khuyến khích là chủ 
yếu. Chưa xây dựng được một chiến 
lược và một cơ chế để tạo ra sự đồng 
thuận xã hội cao trong công tác xã hội 
hóa giáo dục, do đó giáo dục và đào 
tạo ở TPHCM chưa phát huy hết tính 
tích cực và năng lực sáng tạo của cơ 
sở đào tạo, của giáo viên ở các 
trường công lập và các trường có yếu 
tố nước ngoài. 
3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM PHÁT 
HUY VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ 
ĐÀO TẠO ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN 
NGUỒN NHÂN LỰC Ở TPHCM HIỆN 
NAY 
Để phát triển nguồn lực con người, 
Thành phố đã xác định nhiệm vụ bao 
trùm trong phát triển giáo dục, nhằm 
phát huy tốt vai trò giáo dục và đào 
tạo đối với phát triển nguồn lực ở 
TPHCM hiện nay là: “Đổi mới căn bản, 
toàn diện giáo dục và đào tạo gắn với 
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 
nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ chất 
lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo 
trên địa bàn Thành phố; xác định giáo 
dục và đào tạo là động lực quan trọng 
để Thành phố phát triển bền vững; 
phấn đấu đến năm 2020, hệ thống 
giáo dục - đào tạo Thành phố được 
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, 
dân chủ hóa, hội nhập với các nền 
giáo dục tiên tiến trong khu vực và 
trên thế giới, giữ vững định hướng xã 
hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc” (Ủy 
ban Nhân dân TPHCM, 2015). 
Từ thực tiễn đóng góp của giáo dục 
đối với sự phát triển nguồn nhân lực 
trong thời gian qua của TPHCM, bài 
viết đề xuất một số giải pháp phát 
triển giáo dục của Thành phố nhằm 
nâng cao nguồn nhân lực Thành phố 
như sau: 
Thứ nhất, cần quát triệt, nhận thức 
một cách đầy đủ và sâu sắc hơn vai 
tr “quốc sách hàng đầu”, vai tr nền 
tảng và động lực của giáo dục và đào 
tạo đối với phát triển nguồn nhân lực 
nói riêng, đối với chiến lược phát triển 
kinh tế - xã hội nói chung trong Đảng 
bộ, chính quyền và các cơ quan ban 
ngành, các tổ chức xã hội và nhân 
dân Thành phố. Từ đó tạo nên sự 
thống nhất về nhận thức và hành 
động trong hệ thống chính trị của 
Thành phố, hướng đến mục tiêu phát 
triển vì con người, cho con người nói 
chung và phát triển nguồn nhân lực 
nói riêng, xây dựng và phát triển 
Thành phố trở thành thành phố “văn 
minh, hiện đại, nghĩa tình”. Giải pháp 
này phải được tiến hành thống nhất, 
xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống 
chính trị - xã hội của Thành phố và 
càng trở nên cấp thiết trong điều kiện 
hiện nay, khi tỷ lệ lao động trí tuệ ngày 
càng gia tăng; khi lợi thế so sánh dựa 
trên số lượng lao động và giá nhân 
công rẻ cũng ngày một giảm do 
những thành tựu mà cuộc cách mạng 
khoa học - công nghệ mang lại. Giáo 
dục và đào tạo đóng vai tr quyết định 
trong phát triển con người, qua đó 
phát triển nguồn lực con người chất 
lượng cao, do chính chúng ta tạo nên 
chứ không thể chuyển giao từ bên 
ngoài như chuyển giao công nghệ, 
như thu hút vốn đầu tư. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
58 
Thứ hai, làm tốt công tác xây dựng 
quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo 
dục - đào tạo Thành phố, xác định 
đúng đắn chiến lược phát triển nguồn 
nhân lực, trên cơ sở thực hiện tốt 
công tác dự báo nhu cầu và thị trường 
lao động, cùng với việc làm tốt công 
tác quy hoạch mạng lưới trường đại 
học, cao đẳng và dạy nghề, nhằm đào 
tạo nguồn nhân lực theo lĩnh vực và 
bậc đào tạo, phù hợp với nhu cầu 
thực tiễn, phục vụ hiệu quả cho chiến 
lược phát triển kinh tế - xã hội, cũng 
như cho công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa, hội nhập quốc tế của Thành phố. 
Thứ ba, đổi mới nội dung, chương 
trình, phương pháp dạy và học ở các 
cấp học, bậc học và phương thức 
đánh giá chất lượng. Tập trung giáo 
dục phổ thông với mục tiêu phát triển 
trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, 
năng lực lao động, phát hiện và bồi 
dưỡng năng khiếu, định hướng nghề 
nghiệp cho học sinh phù hợp với tính 
đặc thù của Thành phố. Cần sử dụng 
các phương pháp giáo dục tiên tiến, 
theo hướng kết hợp hiện đại với 
truyền thống, sao cho kích thích và 
phát huy được tốt nhất tính tích cực, 
chủ động, sáng tạo của người học. 
Làm tốt công tác hướng nghiệp, tạo 
sự gắn kết chặt chẽ giữa các trường 
phổ thông với các trường đại học, cao 
đẳng, trung cấp và các trường dạy 
nghề trên địa bàn Thành phố. Khuyến 
khích các hoạt động khuyến học, 
khuyến tài. Đẩy mạnh thực hiện xã hội 
hóa giáo dục, có cơ chế khuyến khích 
người dân đầu tư cho giáo dục bằng 
nhiều hình thức. Thực hiện đào tạo 
cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho 
các khu công nghiệp; nâng cao trình 
độ học vấn, trình độ tay nghề, tính kỷ 
luật, phẩm chất đạo đức của người lao 
động, trước hết tại các khu công 
nghiệp, khu chế xuất, các doanh 
nghiệp có nhiều lao động của Thành 
phố. Chú trọng đào tạo lao động có 
trình độ phù hợp với quá trình chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế, trong đó, tập trung 
nguồn nhân lực cho những ngành có 
hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng 
cao, đảm bảo nhu cầu lao động có 
chất lượng cao cho 9 ngành dịch vụ, 4 
ngành công nghiệp vốn là thế mạnh 
của Thành phố; từng bước chủ động 
tham gia tích cực và hiệu quả thị 
trường lao động kỹ thuật cao trong 
khu vực và quốc tế, trước hết là 8 
ngành nghề (gồm nha khoa, điều 
dưỡng, kỹ thuật, xây dựng, kế toán, 
kiến trúc, khảo sát và du lịch). 
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế, chính sách 
nhằm tạo sự liên kết chặt chẽ giữa 
các doanh nghiệp sử dụng lao động, 
cơ sở đào tạo và ngành giáo dục - đào 
tạo TPHCM để phát triển nguồn nhân 
lực theo nhu cầu xã hội; tăng cường 
quản lý có hiệu quả các trường quốc 
tế, các cơ sở giáo dục có yếu tố nước 
ngoài. Xây dựng và khuyến khích các 
mô hình giáo dục tiên tiến, hiện đại, 
hiệu quả đang là xu hướng phát triển 
đáp ứng yêu cầu ở Thành phố.  
CHÚ THÍCH 
(1)
 Thị trường lao động TPHCM - dự báo nhu cầu nhân lực năm 2017 (23/3/2017), biểu 14: 
NGUYỄN VÕ HOÀNG MAI – VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
59 
Cơ cấu của lực lượng lao động đang làm việc trên địa bàn TPHCM chia theo trình độ. 
(2) 
Thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh - dự báo nhu cầu nhân lực năm 2017 
(23/3/2017), biểu 4: So sánh hệ thống đào tạo trên địa bàn TPHCM. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. 2013. 
Khoa học và công nghệ - động lực duy nhất quyết định sự thích ứng trong nền kinh tế 
hội nhập toàn cầu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XXI. Bản tin chọn lọc 
phục vụ lãnh đạo. 
2. Ðảng bộ TPHCM. 2015. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X. Lưu hành nội bộ. 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1997. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung 
ương khóa VIII. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2011. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà 
Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
5. Hồ Chí Minh. 2000. Toàn tập, tập 3, 8, 10. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
6. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập, tập 4, 6. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
7. Huyền Bình. 2013. “Vì sao nhiều sinh viên ra trường khó tìm việc làm?”, 
 truy cập ngày 22/11/2018. 
8. Lênin, V.I. 1977. Toàn tập, tập 38. Mátxcơva: Nxb. Tiến bộ. 
9. Lênin, V.I. 1978. Toàn tập, tập 41. Mátxcơva: Nxb. Tiến bộ. 
10. Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Bắc Giang. 2013. Thân Nhân Trung - “Hiền 
tài là nguyên khí quốc gia”. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
11. Mác, C. và Ph. Ăngghen. 1995. Toàn tập, tập 3, 21. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
12. Thành ủy TPHCM. 2015. Kỷ yếu Hội thảo 40 năm TPHCM. Tài liệu hội thảo. 
13. Tổng cục Thống kê. 2016. Niên giám thống kê Việt Nam năm 2015. Hà Nội: Nxb. 
Thống kê. 
14. Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TPHCM. 
2017. Thị trường lao động TPHCM - dự báo nhu cầu nhân lực năm 2017 (23/3/2017). 
15. Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TPHCM. 
2018. Thị trường lao động hội nhập tiến đến cách mạng công nghiệp lần 4 - dự báo nhu 
cầu nhân lực các ngành trọng điểm giai đoạn 2018 - 2020 đến năm 2025 (02/3/2018). 
16. Ủy ban Nhân dân TPHCM. 2015. Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của 
Thành ủy về thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị Trung ương 8 - Khóa XI về 
“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập 
quốc tế” trên địa bàn TPHCM, Số 4887/QĐ-UBNDTPHCM, ngày 2/10/2015. 
17. Ủy ban Nhân dân TPHCM. 2016. Chương trình hành động của Thành ủy về thực 
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X về “Chương trình nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2016 - 2020”, Số 19-CTrHĐ/TU, ngày 31/10/2016. 
18. Ủy ban Nhân dân TPHCM. 2017. Đề án “Xã hội hóa ngành giáo dục và đào tạo 
TPHCM giai đoạn 2017 - 2020 – tầm nhìn đến năm 2030”. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_giao_duc_va_dao_tao_doi_voi_phat_trien_nguon_nha.pdf