Vai trò của giáo dục và đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay
Abstract: After three decades of reform, Vietnam is catching up with the explosion of the
industrial revolution 4.0 and implementing industrialization in parallel with developing
knowledge-based economy. It is also an essential trend that promotes the development of
productive forces in our country. In the knowledge-based economy, knowledge is the key factor
of production, the advantage of competition and the quality of human resources and knowledge of
human is acquired through education and training. Therefore, education and training development
is a driving force, the resource of knowledge-based economy development, and is a vital issue in
the current trend of globalization and international integration.
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của giáo dục và đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của giáo dục và đào tạo trong phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 110-114 110 Email: hien062008@gmail.com VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Nguyễn Thị Hiền, Trường Đại học Kinh tế - Kĩ thuật Công nghiệp Ngày nhận bài: 25/05/2018; ngày sửa chữa: 16/06/2018; ngày duyệt đăng: 25/06/2018. Abstract: After three decades of reform, Vietnam is catching up with the explosion of the industrial revolution 4.0 and implementing industrialization in parallel with developing knowledge-based economy. It is also an essential trend that promotes the development of productive forces in our country. In the knowledge-based economy, knowledge is the key factor of production, the advantage of competition and the quality of human resources and knowledge of human is acquired through education and training. Therefore, education and training development is a driving force, the resource of knowledge-based economy development, and is a vital issue in the current trend of globalization and international integration. Keywords: Education and training, knowledge-based economy, education and training role. 1. Mở đầu Thực tiễn đã chứng minh, kinh tế tri thức (KTTT) là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất xã hội; phát triển KTTT là xu thế tất yếu trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước phải gắn với phát triển KTTT. Phát triển KTTT tạo nên bước đột phá trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và đó cũng chính là cách thức để “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, để tạo động lực cho sự phát triển KTTT, phải chú trọng đến phát triển GD-ĐT là vấn đề sống còn ở nước ta hiện nay. Vai trò của GD-ĐT được thể hiện rõ trong quan điểm của Đảng ở các kì đại hội. Tại Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) đã khẳng định: “Phát triển GD-ĐT là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay” [1]. Tiếp đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng nhấn mạnh: GD-ĐT là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: GD-ĐT có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Trong chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2011-2020 được thông qua tại Đại hội XI, vai trò của GD-ĐT lại được làm rõ: GD-ĐT cần tập trung vào việc phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đến Nghị quyết Trung ương 8 (khoá XI) tiếp tục khẳng định: GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH. Xuyên suốt các kì Đại hội, Đảng ta luôn coi GD-ĐT là yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước, là phương tiện chủ yếu để quyết định chất lượng con người, là nền tảng của chiến lược con người. Từ thực tiễn phát triển của các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới đang trong quá trình thực hiện bước chuyển tiếp trình độ phát triển từ kinh tế công nghiệp sang hậu công nghiệp và KTTT. Những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã biến tri thức thành yếu tố quan trọng bên trong quá trình sản xuất và quyết định sự phát triển của nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển KT-XH. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế tri thức Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc khóa IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, thuật ngữ “KTTT” được chính thức sử dụng và trở thành một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta. KTTT là nền kinh tế, trong đó khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố quyết định hàng đầu việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát triển. Theo OECD, KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Cho đến nay, khái niệm “KTTT” vẫn còn nhiều bàn luận, do đó có thể khái quát nội hàm của khái niệm này trên cơ sở nhận dạng các đặc trưng của KTTT, gồm: 2.1.1. Nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức mà căn bản là tri thức khoa học - công nghệ hiện đại VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 110-114 111 Công nghệ cao chủ yếu bao gồm công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới và năng lượng tái sinh, khoa học kĩ thuật không gian, khoa học kĩ thuật hải dương. Trong đó, khoa học - công nghệ cao đóng vai trò là nền tảng của KTTT [2]. Nếu trong giai đoạn kinh tế tài nguyên (kinh tế công nghiệp), các yếu tố của sản xuất chủ yếu là tài nguyên, lao động, vốn, thì ngược lại, trong giai đoạn KTTT, nhân tố tri thức được xếp ở hàng đầu của những nhân tố tăng trưởng kinh tế. Tri thức được hiểu là những hiểu biết có hệ thống về một khách thể (đối tượng) nhất định. Cụ thể, tri thức là sự hiểu biết về một cụm thông tin và biết sử dụng thông tin đó tốt nhất, trong đó quan trọng nhất là tri thức về khoa học - công nghệ, quản lí và thực hành. 2.1.2. Nhân tố sáng tạo trở thành động lực trực tiếp của sự phát triển Trong nền KTTT, tri thức, trí tuệ con người và kĩ năng lao động trở thành lợi thế phát triển lớn nhất, quyết định nhất. Khoa học - công nghệ được thừa nhận là lực lượng sản xuất thứ nhất (yếu tố quan trọng và quyết định tiến trình phát triển kinh tế). Vì tri thức và công nghệ cao đóng vai trò là lực lượng sản xuất quan trọng nhất, do tri thức, kĩ năng, nguồn phát minh và công nghệ hiện đại đã trở thành lợi thế cạnh tranh quyết định việc nâng cao năng lực sáng tạo và sử dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học - công nghệ trở thành nhiệm vụ trọng tâm của các nỗ lực phát triển. Trong nền kinh tế công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là bằng cách tối ưu hóa (hoàn thiện cái đã có) để giảm chi phí sản xuất; còn trong KTTT, cái quyết định năng lực cạnh tranh chính là sự sáng tạo ra cái mới có chất lượng cao hơn. Công nghệ đổi mới rất nhanh, “vòng đời” công nghệ rất ngắn, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm, phải tìm chọn các công nghệ mới. Có thể nói sáng tạo là linh hồn của KTTT [2]. 2.1.3. Các ngành công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin, được áp dụng trong mọi lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội Công nghệ thông tin dựa vào 2 lĩnh vực chủ lực là công nghệ tin học và công nghệ viễn thông, tạo ra mạng Internet. Hầu hết các quốc gia đều xếp các lĩnh vực sau đây vào danh mục công nghệ thông tin và viễn thông: lĩnh vực “tin học” (gồm tất cả các ngành sản xuất thiết bị và các dịch vụ đi kèm, chủ yếu là dịch vụ vận hành, khai thác, bảo trì); lĩnh vực “điện tử” cùng với hoạt động sản xuất linh kiện điện tử và một số loại máy móc; lĩnh vực “viễn thông” (các hoạt động dịch vụ và sản xuất thiết bị). Quá trình tin học hóa các khâu sản xuất, dịch vụ, và quản lí là cốt lõi của quá trình chuyển sang KTTT và tin học là ngành hạt nhân của các ngành mới nổi lên (gọi là ngành sản xuất thứ tư). Chức năng của tin học là chuyển hóa tri thức khoa học và kĩ thuật thành sức sản xuất; tỉ trọng của nó tăng lên không ngừng và sẽ phát triển thành ngành chủ đạo. Công nghệ thông tin nói chung đem lại năng suất và chất lượng lao động cao trong công tác quản lí KT-XH. Mọi người đều có nhu cầu thông tin và được truy cập vào các “kho” thông tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có sự tác động của công nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Vì vậy, nhiều người gọi giai đoạn phát triển KTTT là nền kinh tế số hay kinh tế mạng. Thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ chức ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa... được thiết lập làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh rất nhanh nhạy, linh hoạt, khoảng cách địa lí giảm dần, ý nghĩa của vị trí địa lí giảm đi. Nhiều quốc gia trên thế giới đã coi công nghệ thông tin là ngành kinh tế mũi nhọn thúc đẩy sự phát triển và đã, sẽ mang lại những biến đổi kì diệu trong cả đời sống kinh tế và đời sống xã hội. 2.1.4. Kinh tế tri thức được tổ chức quản lí theo mô hình phi tập trung, mô hình mạng Nền kinh tế thế giới hiện đại đang được cấu trúc thành một mạng lưới toàn cầu. “Mạng” là thuộc tính phân biệt chủ yếu hệ thống này với các hệ thống trước; là cơ sở để nói đến tính cách mạng/bước ngoặt lịch sử của quá trình chuyển sang KTTT đang diễn ra. Mạng lưới toàn cầu của nền KTTT đang diễn ra được kiến tạo bởi: Các “chất liệu” phát triển cơ bản khác trước (những công cụ mới, như: máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, các loại vật liệu mới, công nghệ “gen”, thương mại điện tử...) những nhân vật mới (nhà lao động trí thức, các “siêu” công ty xuyên quốc gia...) vận động theo nguyên lí mới. Mô hình này phát huy được tính năng động sáng tạo của mọi người, các doanh nghiệp; vì thế nó dễ thích nghi và đổi mới. Hiện nay, những doanh nghiệp của các nước công nghiệp phát triển được trang bị các thiết bị thông tin hiện đại, lập nên một mạng các công ty con nằm tại nhiều nơi trong nước và trên toàn thế giới; nhưng mối liên kết trong mạng lưới công ty rất chặt chẽ; công tác quản lí, thiết kế, tiêu thụ sản phẩm, việc giao nhận hàng hóa nhanh chóng và kịp thời. 2.1.5. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế học hỏi Ở bất kì trình độ phát triển nào của nền kinh tế thế giới, trong KTTT, con người vẫn là nhân tố quyết định sự phát triển, nhưng không phải con người với bất kì tri thức và năng lực nào, mà buộc phải là con người có tri thức khoa học, có năng lực sáng tạo: “Con người trong KTTT là con người sáng tạo chứ không phải là một bộ phận của hệ thống máy móc trên dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp” [3; tr 21]. Tri thức là vốn quý nhất, là nguồn lực hàng đầu của sự tăng trưởng kinh tế; quyền sở VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 110-114 112 hữu đối với tri thức trở thành quan trọng nhất; ai chiếm hữu được nhiều tài sản tri thức hơn thì người ấy sẽ thắng. Để có tri thức thì phải học tập; vì thế, nền KTTT đòi hỏi con người phải không ngừng học tập, học suốt đời và dưới mọi hình thức. 2.1.6. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa KTTT sẽ thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, hợp tác kinh tế quốc tế. Với tốc độ phát triển khoa học - công nghệ hiện nay, không một quốc gia nào có thể đi đầu trong tất cả các ngành công nghệ cao; vì thế, chuyên môn hóa sản xuất trở nên sâu sắc, đòi hỏi sự hợp tác sản xuất quốc tế; vì vậy, rất ít có sản phẩm do một nước sản xuất ra, mà là kết quả hợp tác của nhiều nước. Công nghệ thông tin, nhất là mạng Internet làm cho không gian trở nên nhỏ bé. Tri thức, công nghệ, vốn, lao động được luân chuyển trên phạm vi toàn cầu; thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu. 2.1.7. Đóng góp của tri thức Đóng góp của tri thức thông qua các ngành sản xuất, dịch vụ ứng dụng công nghệ cao và sử dụng lao động tri thức chiếm trên 2/3 giá trị sản phẩm và tổng sản phẩm quốc nội (GDP). 2.1.8. Kinh tế tri thức bảo đảm sự phát triển bền vững, không hủy hoại môi trường, sinh thái KTTT dựa trên cơ sở kĩ thuật - công nghệ cao sử dụng một cách khoa học, hợp lí, hiệu quả các nguồn tài nguyên, không gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Các khu công nghệ cao đã được hình thành là những khu công nghệ sạch khác xa với khu sản xuất truyền thống. Khái quát lại, theo quan điểm Triết học và Kinh tế chính trị Mác-Lênin, KTTT là khái niệm dùng để chỉ một trình độ phát triển cao hơn của lực lượng sản xuất mà trong nền tảng lực lượng sản xuất chủ yếu của nó là các ngành kĩ thuật công nghệ cao; khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và có vai trò quyết định đối với nền kinh tế. Vì vậy, để phát triển KTTT, nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho rằng, các nước cần xây dựng và củng cố bốn trụ cột; trong đó, trụ cột cơ bản nhất là GD-ĐT, đóng vai trò quyết định trong phát triển KTTT. Nội hàm của bốn trụ cột đó được tóm tắt tại bảng 1: Qua bảng 1, có thể thấy, các trụ cột môi trường kinh doanh và thể chế, hạ tầng công nghệ thông tin và đổi mới sáng tạo chỉ có thể phát huy hết chức năng của nó khi nằm trong mối quan hệ với trụ cột GD-ĐT. Theo đó, một nền KTTT chỉ có thể phát triển khi có mặt của bốn trụ cột trên. 2.2. Vai trò của giáo dục và đào tạo với tư cách là “trụ cột” phát triển kinh tế tri thức Trong phát triển KTTT, các trụ cột được xác định gồm: môi trường kinh doanh và thể chế; hạ tầng công nghệ thông tin; đổi mới sáng tạo; GD-ĐT. Trong đó, GD- ĐT không chỉ là trụ cột mà còn đóng vai trò là động lực trong phát triển KTTT, bởi: Không có tri thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ luôn lệ thuộc, bất lực trước những thế lực và sức mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước mình. Vị trí, vai trò của con người được xác định: Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về học vấn, nhận thức về thế giới để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo xã hội ngày càng văn minh. GD-ĐT góp phần nâng cao dân trí và tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong nền KTTT, tri thức là sản phẩm của GD-ĐT, đồng thời là tài sản quý giá nhất của con người và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất được các nước thừa nhận và bảo hộ. Trong các Bảng 1. Bốn trụ cột của nền KTTT Bốn trụ cột của nền KTTT Nội hàm của trụ cột GD-ĐT Người dân cần GD-ĐT kĩ năng để có khả năng sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tốt tri thức Môi trường kinh doanh và thể chế Chế độ kinh tế, thể chế cung cấp những chính sách kinh tế và thể chế đảm bảo sự huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả, khuyến khích và tạo động lực sử dụng hiệu quả những kiến thức hiện tại, sáng tạo kiến thức mới Hạ tầng công nghệ thông tin Hạ tầng thông tin năng động cần thiết để tạo điều kiện trao đổi, phổ biến và xử lí thông tin Đổi mới sáng tạo Hệ thống đổi mới, gồm: doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm tư vấn và các tổ chức khác, phải có khả năng tiếp nhận khối lượng kiến thức ngày càng lớn của nhân loại, hấp thụ và áp dụng theo nhu cầu và tạo ra kiến thức mới VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 110-114 113 nguồn lực phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, thể chế và nguồn lực con người có tri thức thì nguồn lực con người có tri thức là cơ bản nhất, quyết định nhất. Ngoài ra, GD-ĐT còn góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc. Bởi, chúng góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao, làm giàu của cải vật chất cho xã hội, đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính quá trình hội nhập quốc tế, và chính GD-ĐT bảo vệ cho nền KTTT phát triển bền vững. GD-ĐT có vai trò to lớn bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan trọng phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của KTTT. Bởi vậy, các quốc gia phát triển đều xây dựng cho mình chiến lược phát triển GD-ĐT. Trong Báo cáo giám sát toàn cầu giáo dục cho mọi người, tổ chức UNESCO cũng đã khuyến khích các nước phải chi tiêu ít nhất 6% GDP cho GD-ĐT. Hơn nữa, GD-ĐT còn cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đến nay, Việt Nam đang tiến hành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, trình độ lao động phổ thông còn thấp, ít được đào tạo nghề, vẫn còn khoảng gần 60% lao động nông nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây dựng KTTT. Chúng ta tập trung phát triển GD-ĐT nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian CNH, HĐH đất nước. Vốn tri thức có các đặc điểm khác với các nguồn vốn khác ở chỗ: vốn tri thức khi chuyển giao cho người khác thì người sở hữu tri thức không bị mất tri thức, mà tri thức được nhiều lên gấp đôi; khi truyền bá tri thức cho nhiều người thì vốn tri thức được nhân lên gấp bội và đòi hỏi ít chi phí. Rõ ràng, tri thức không những không bị hao mòn trong quá trình sử dụng mà còn được nâng cao lên. Trong nền KTTT, những hoạt động cơ bản nhất là tạo ra, truyền bá và sử dụng tri thức. Hoạt động tạo ra tri thức là mục đích của nghiên cứu sáng tạo, do những người được đào tạo bài bản thực hiện. Hoạt động truyền bá tri thức tức là nhân lên vốn tri thức, làm cho vốn tri thức xã hội tăng lên nhanh chóng, đó chính là nhiệm vụ chủ yếu của GD-ĐT. GD-ĐT góp phần tạo ra tri thức, đồng thời cũng quảng bá tri thức. Đây là lí do các nhà quản lí coi GD-ĐT là ngành sản xuất cơ bản nhất trong nền KTTT. Sử dụng tri thức là quá trình đổi mới, biến tri thức thành giá trị, đưa tri thức vào trong các hoạt động xã hội của con người; đây cũng là nhiệm vụ của GD-ĐT, nhất là giáo dục thường xuyên, “học tập suốt đời”, “học kết hợp với hành”, giáo dục kết hợp hoạt động thực tiễn... Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình tạo ra tri thức, truyền bá tri thức và sử dụng tri thức không còn là quá trình kế tiếp nhau mà trở thành đan xen nhau, tương tác với nhau; trong đó quan trọng nhất là sử dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Theo đó, vai trò của GD-ĐT phải đào tạo ra con người có tri thức và biết sử dụng tri thức trong hoạt động thực tiễn để tạo ra nhiều giá trị mới phục vụ xã hội. Ngày nay, trong nền KTTT, GD- ĐT cũng đang thay đổi, dịch chuyển tích cực, như: dịch chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống (coi đào tạo và làm việc là hai giai đoạn tách biệt nhau), sang mô hình đào tạo (học tập) suốt đời. Nếu ở mô hình “giáo dục truyền thống”, nhà trường đào tạo rèn luyện để người học có được một vốn tri thức, một kĩ năng nhất định để có thể ra làm việc suốt đời, thì trong mô hình “học tập suốt đời”, nhà trường trang bị cho người học một vốn tri thức và kĩ năng cơ bản để người học ra đời có thể sớm ra làm việc, tiếp tục giúp đỡ người lao động vừa làm vừa tiếp tục học tập, học tập suốt đời, phát triển kĩ năng liên tục. Do vậy, sự dịch chuyển là phù hợp với bối cảnh mới: học đi đôi với hành, đào tạo gắn liền với sử dụng, giáo dục gắn liền với việc làm, với thị trường lao động. Hiện nay, GD-ĐT đã trở thành bộ phận quan trọng, có tính quyết định của cấu trúc hạ tầng xã hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hoá đến quốc phòng và an ninh. Vì vậy, để thúc đẩy sự phát triển của KTTT và tạo đà cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững, GD- ĐT nước ta không có con đường nào khác là phải có chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh đất nước và bắt nhịp được xu thế của thời đại. 2.3. Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức Để phát triển KTTT, phát huy vai trò của GD-ĐT, trước mắt cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp sau: - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với đổi mới GD-ĐT, bắt nhịp với xu thế phát triển KTTT của thế giới; - Tập trung đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Căn cứ vào mục tiêu đổi mới cần xác định rõ và công khai mục tiêu, Chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo; - Tiếp tục đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả GD-ĐT, bảo đảm trung thực, khách quan; - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng “hệ thống giáo dục mở”, “học tập suốt đời” và xây dựng “xã hội học tập”. Đồng thời, nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế giới. Theo đó, thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 110-114 114 thực hành [4]; - Chủ động đổi mới căn bản công tác quản lí GD-ĐT, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục đại học; - Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD-ĐT; đặc biệt quan tâm đến lương của nhà giáo, phải được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng, miền; - Tiếp tục đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư, chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách; từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở GD-ĐT công lập...; - Phải có chính sách trọng dụng nhân tài, coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, tạo điều kiện làm việc thuận lợi, phát huy năng lực của “cán bộ giỏi đầu đàn” trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ; - Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lí. Tích cực, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong GD-ĐT; Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng mạng Internet trong GD-ĐT, trong dạy học, phát triển các hình thức tự học; nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cả người dạy và người học; thực hiện xã hội hóa học tập và xã hội hóa thông tin là tiền đề cho nền KTTT. 3. Kết luận Phát triển KTTT là đòi hỏi mà tất cả các nước tiên tiến trên thế giới đã và đang vươn tới. Đối với Việt Nam, phát triển KTTT là một tất yếu, trong đó GD-ĐT là trụ cột quan trọng nhất. Trong thời gian tới, cần tạo động lực và huy động mọi nguồn lực để nâng cao hiệu quả GD- ĐT. Việc thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp nêu trên và sự vào cuộc của tất cả các lực lượng sẽ tạo ra bức tranh KT-XH toàn diện hơn. Tài liệu tham khảo [1] Ban Chấp hành Trung ương (2000). Nghị quyết số 02- NQ/HNTW ngày 24/12/1996 về định hướng chiến lược khoa học và công nghệ trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. [2] Viện Nghiên cứu Quản lí kinh tế Trung ương (2000). Nền kinh tế tri thức, nhận thức và hành động. NXB Thống kê. [3] Ban Chấp hành Trung ương (2002). C. Mác - Ph. Ăngghen toàn tập (tập 64). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [4] Lê Thị Hồng Diệp (2012). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội. [5] Nguyễn Văn Hòa (2009). Phát triển giáo dục và đào tạo - một động lực để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay. Tạp chí Triết học, số 4 (215), tr 26-30. [6] Tần Ngôn Trước (2014). Thời đại kinh tế tri thức. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [7] Phạm Văn Đức - Josef Sayer - Đặng Hữu Toàn - Nguyễn Đình Hòa - Ulrich Dornberg (2010). Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. NXB Khoa học xã hội. KHAI THÁC PHẦN MỀM GEOGEBRA... (Tiếp theo trang 167) Tài liệu tham khảo [1] Bùi Minh Đức (2017). Sử dụng phần mềm GeoGebra hỗ trợ dạy học giải bài toán Hình học không gian bằng thủ pháp trải hình. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 3, tr 122-125. [2] Trần Trung (2014). Sử dụng phần mềm GeoGerba hỗ trợ dạy học quỹ tích ở trường phổ thông. Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 100, tr 23-26. [3] Lê Minh Cường (2017). Rèn luyện cho sinh viên đại học Sư phạm ngành Toán kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường phổ thông. Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [4] Markus Hohenwarter - Judith Hohenwater - Yves Kreis - Zsolt Lavicza (2008). Teaching and calculus with free dynamic mathematics software GeoGebra. ICME 11, Mexico. [5] Hélia Jacinto - Susana Carreira (2017). Mathematical Problem Solving with Technology: the Techno-Mathematical Fluency of a Student - with - GeoGebra. International Journal of Science and Mathematics Education, Springer, Vol. 15, issue 6. [6] Nguyễn Bá Kim (2015). Phương pháp dạy học môn Toán. NXB Đại học Sư phạm. [7] Phan Đức Chính (tổng chủ biên) (2012). Toán 9 (tập 2). NXB Giáo dục Việt Nam. [8] Trịnh Thanh Hải - Trần Việt Cường - Trịnh Thị Phương Thảo (2013). Ứng dụng tin học trong dạy học Toán (Giáo trình đại học). NXB Giáo dục Việt Nam. [9] Kin Keung Poon (2018). Learning fraction comparison by using a dynamic mathematics software - GeoGebra, International Journal of Mathematical Education in Science and Technology. Taylor & Francis, Vol. 49, issue 3.
File đính kèm:
- vai_tro_cua_giao_duc_va_dao_tao_trong_phat_trien_kinh_te_tri.pdf