Vai trò của người cao tuổi trong xã hội Việt Nam - Một số vấn đề cần quan tâm hiện nay

ABSTRACT

Old people have important role to the

development of nation, community and family.

The purpose of this paper is presenting role

of old peoplein the traditional societyand

modern society. This paper also determines

some issues needed to be cared for old

peoplein period of innovation. Thereby, author

suggestsome recommendations to raisingthe

status and role of old people in Vietnam today

pdf 10 trang yennguyen 4180
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của người cao tuổi trong xã hội Việt Nam - Một số vấn đề cần quan tâm hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của người cao tuổi trong xã hội Việt Nam - Một số vấn đề cần quan tâm hiện nay

Vai trò của người cao tuổi trong xã hội Việt Nam - Một số vấn đề cần quan tâm hiện nay
94
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
*TÓM TẮT
Người cao tuổi có vai trò rất lớn đ́i với 
ṣ ph́t trỉn c̉a đất nước, c̣ng đồng v̀ gia 
đình. Mục đ́ch c̉a b̀i vít ǹy l̀ nêu lên vai 
trò c̉a người cao tuổi trong xã ḥi cổ truỳn 
v̀ hịn nay. B̀i vít cũng x́c đ̣nh ṃt ś vấn 
đ̀ c̀n quan tâm đ́i với người cao tuổi khi đất 
nước đổi mới đ́n nay. Qua đó t́c gỉ đưa ra 
ṃt ś kín ngḥ góp ph̀n nâng cao ṿ th́, vai 
trò c̉a người cao tuổi ở Vịt Nam hịn nay.
Từ khóa: Vai trò người cao tủi, người 
cao tủi, Chính sách người cao tủi.
Nghiên cứu - Trao đ̉i
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM - 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ C̀N QUAN TÂM HIỆN NAY
 Bùi Nghĩa* 
* ThS., NCS. Gỉng viên Ḥc vịn Ch́nh tṛ khu ṿc II. Email:buinghia72@gmail.com
ROLE OF OLD PEOPLE IN VIETNAMESE SOCIETY – CURRENT ISSUES 
OF CONCERN
ABSTRACT
Old people have important role to the 
development of nation, community and family. 
The purpose of this paper is presenting role 
of old peoplein the traditional societyand 
modern society. This paper also determines 
some issues needed to be cared for old 
peoplein period of innovation. Thereby, author 
suggestsome recommendations to raisingthe 
status and role of old people in Vietnam today.
Keywords: Role of old people, Old 
people, Policy aboutold people
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở nước ta, thế hệ người cao tuổi ngày nay, 
đa số là những người đã tham gia trong chiến 
tranh Việt Nam, dù trên nhiều lĩnh ṿc khác 
nhau, họ đều có đóng góp xứng đáng làm rạng 
danh non sông đất nước. Họ đã tích lũy được 
một kho báu kinh nghiệm lý luận và tḥc tiễn 
bảo vệ, xây ḍng và phát triển đất nước. Đặc 
biệt người cao tuổi có vai trò rất quan trọng 
đối với việc giữ gìn, truyền đạt những giá trị 
truyền thống tốt đẹp, kinh nghiệm sống trong 
quan hệ gia đình, cộng đồng, xã hội. Tuy 
nhiên, Việt Nam đang tḥc hiện công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa gắn với hội nhập quốc tế, 
đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam cũng đang 
có nhiều biến đổi. So với trước đây, ṣ giao 
lưu hợp tác về kinh tế rộng rãi giữa các gia 
đình ở đô thị và nông thôn, kể cả với nước 
ngoài được mở rộng. Thu nhập, tiêu dùng của 
các gia đình tĕng lên không ch̉ các nhu cầu 
vật chất mà cả các nhu cầu giải trí, vĕn hóa. 
Ảnh hưởng của vĕn hóa thế giới thâm nhập 
95
Vai trò của người cao tuổi trong ...
vào Việt Nam cùng với ṣ tĕng cường giao 
lưu quốc tế, ṣ phát triển của các phương tiện 
truyền thông đại chúng đa quốc gia, hơn nữa, 
ṣ ṭ do dân chủ, lợi ích cá nhân, lối sống cá 
nhân cũng được đề cao, dẫn đến lối sống, 
nếp sống trong cộng đồng, gia đình hiện nay ở 
nước ta có những biến đổi sâu sắc, trong đó có 
vai trò người cao tuổi.
2. VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TRONG 
XÃ HỘI CỔ TRUYỀN
Trong xã hội cổ truyền Việt Nam, tuổi tác 
và kinh nghiệm có vai trò đặc biệt quan trọng, 
được xem là duy nhất đúng trong sản xuất, 
hoạt động xã hội. Người cao tuổi có ṣ hội tụ 
đầy đủ của kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm 
đấu tranh chống thiên tai, chống ngoại xâm 
và toàn bộ những kinh nghiệm sống cần thiết 
cho ṣ tồn tại của cộng đồng. Nắm giữ vốn 
vĕn hóa cổ của dân tộc, bảo lưu và truyền bá 
đến xã hội phần lớn là những người cao tuổi. 
Người cao tuổi là những người gắn kết gia 
đình, dòng họ với làng xã, là người đại diện 
cho đời sống xã hội của làng và do đó đảm bảo 
tính cố kết và bền vững của cộng đồng. Trọng 
người cao tuổi đã trở thành triết lý sống của 
người Việt Nam. Trong kho tàng vĕn hóa dân 
gian vẫn còn lưu truyền nhiều câu ca dao, tục 
ngữ, thành ngữ nói về ṣ kính trọng người cao 
tuổi như “kính lão đắc thọ”, “kính già, già để 
tuổi cho”, “yêu trẻ, trẻ đến nhà, yêu già, già để 
phúc”, “muốn may thì phải có kim, muốn hay 
thì phải đi tìm người xưa”, “một mẹ già bằng 
ba mẫu ruộng”,..v.v.
Kính trọng người cao tuổi ở trong làng xã 
được thể hiện r̃, bộc lộ qua những điều khoản 
và những quy định cụ thể trong hương ước 
(hay khoản ước) của làng. Cụ thể hương ước 
làng Quỳnh Đôi (Nghệ An) quy định: “Ai gặp 
người già cả mà không giúp sức thì bị phạt”1. 
Và trong pháp luật nhà nước cũng thể hiện khá 
r̃ quan điểm kính trọng người cao tuổi được 
đề cập trong pháp luật thời Lý, nhất là thời Lê 
sơ (thế kỷ XV). Theo Ngô Sĩ Liên (Đại Việt 
Sử Ký Toàn Thư), pháp luật thời Lý đã quy 
định: những người già từ 70 tuổi được dùng 
tiền chuộc (tr.219) thời Lê sơ, Hồng đức thiện 
chính thư ghi r̃: “Trong hương thôn có người 
già mà không kính nể, dám ṭ ngồi ĕn uống 
cùng một mâm, một chiếu, thì lấy tội khinh 
nhờn mà luận tội phạt 300 trượng”2. Hoặc 
trong Quốc triều hình luật thời Lê quy định 
cụ thể những điều khoản chiếu cố đến người 
cao tuổi khi phạm tội như: “Từ 70 tuổi trở lên 
trừ khi phạm tội thập ác còn nếu phạm tội từ 
lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền. Từ 80 
tuổi trở lên, phạm tội phản nghịch, giết người 
đáng phải tội chết thì cũng phải tâu vua để xét 
định, ĕn trộm và đánh người bị thương thì cho 
chuộc, ngoài ra thì miễn luận. Từ 90 tuổi trở 
lên dầu có bị tội chết cũng không hành hình”3. 
Hoặc Triều Lý, vào tháng 3 nĕm Kỷ Hợi 
(1179), nhà nước tiến hành chấn ch̉nh, đề bạt, 
xét công trạng quan lại cũng đã ưu tiên tuổi 
tác khi xét “nhiều loại tuổi, có đức hạnh, thông 
hiểu việc xưa nay”4. Ngoài ra, người cao tuổi 
được giảm bớt, tiến tới miễn hẳn sưu thuế, tạp 
dịch, được phân chia phần ruộng công ưu tiên 
hơn hay mãnh ruộng thuận tiện cho việc canh 
tác so với những người nông dân bình thường, 
được hưởng một số quyền lợi vật chất nho nhỏ 
trong lễ mừng thọ, được ḍ cỗ bàn, được có 
quà biếu trong những dịp làng vào đám, kể cả 
còn được hưởng nhiều ṣ ưu đãi khác bằng các 
1 Bùi Xuân Đính. 1985. Ḷ l̀ng ph́p nước, Hà Nội, tr.55,56.
2 Nguyễn Đức Nghinh.1978. Người gì trong l̀ng xã. Trong cuốn Nông thôn Vịt Nam trong ḷch sử. Tập II, tr.164
3 Qúc trìu hình lụt (Luật hình triều Lê), 1991. Nxb. Pháp lý. Tr.4
4 Viện Sử học, 1987. Biên niên ḷch sử cổ trung đ̣i Vịt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr145, 149
96
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
chính sách của nhà nước. Tháng 7 nĕm Giáp 
Dần (1194) vua Lý Cao Tông, tổ chức ban 
thưởng cho người cao tuổi nhân dịp đất nước 
có ṣ kiện vui mừng “đại xá thiên hạ nhân dịp 
Đàm Nguyên phi sinh Hoàng Thái tử Sảm. 
Các kỳ lão từ 70 tuổi trở lên mỗi người được 
một tấm lụa, mở tiệc trong triều liền 3 ngày”5. 
Dưới triều Nguyễn, vua Gia Long đã từng 
buộc các làng chung nhau xây ḍng “dưỡng 
tế sở” để nuôi những người cao tuổi ốm yếu, 
tật nguyền. Và sau này thời Pháp thuộc, người 
ta vẫn thấy nhiều “dưỡng tế sở” đó hoạt động, 
như tại Vũng Liêm (t̉nh Vĩnh Long) “có một 
sở được 12 làng đóng góp giao hiếu, trong đó 
có 40 người già được nuôi nấng”6, 
Trong hoạt động chính trị - xã hội: Người 
dân nói chung, người cao tuổi nói riêng luôn 
quan tâm đến vận mệnh đất nước. Người cao 
tuổi là lớp người tích lũy được nhiều kinh 
nghiệm hơn cả trong việc chống thiên tai và 
chống ngoại xâm. Có thể nói, nhu cầu lớn 
lao của mỗi người cao tuổi được thể hiện là 
ṣ quan tâm đến những vấn đề chính trị - xã 
hội, đến vận mệnh dân tộc, nhu cầu bảo lưu, 
chuyên chở các giá trị vĕn hóa cổ truyền như 
yêu nước, bất khuất của dân tộc,... Hội nghị 
Diên Hồng vào tháng giêng nĕm 1285, vua 
Trần đã hỏi ý kiến các bô lão về việc đánh 
giặc ngoại xâm. Điều đó cho thấy người cao 
tuổi được quyền thể hiện vai trò tḥc ṣ của 
mình đối với vận mệnh đất nước và đã làm 
nên chiến thắng vang dội chống giặc Nguyên 
Mông. Ngoài ra, đối với làng xã, dù ở những 
mức độ khác nhau, đều công nhận quyền được 
có ý kiến của người cao tuổi trong mọi việc của 
làng. Những chức sắc, chức dịch, các bậc đại 
khoa đến tuổi lên lão có uy tín và địa vị tối cao 
trong làng. Vị trí xã hội được thừa nhận trong 
làng xã là một thuận lợi cơ bản cho những 
hoạt động vĕn hóa của người cao tuổi. Người 
cao tuổi có quyền tham gia soạn thảo các vĕn 
bản hương (khoán) ước, các luật lệ của làng, 
tham gia ban hành và giám sát việc thi hành 
những luật lệ đó. Người cao tuổi còn tham gia 
hòa giải những vụ kiện cáo, xét xử những vụ 
vi phạm an ninh trật ṭ và thuần phong mỹ 
tục của làng. Ngoài ra, người cao tuổi còn góp 
phần một cách tích c̣c vào việc điều tiết các 
quan hệ xã hội, điều ch̉nh hành vi của mỗi cá 
nhân theo hướng tḥc hiện đúng những quy 
tắc đạo đức, tập quán của cộng đồng. Những 
khuôn mẫu ứng xử của cộng đồng được người 
cao tuổi áp dụng triệt để trong làng xã, trong 
tộc họ và cả trong gia đình. Vì thế, tạo nên 
ṣ gắn bó của mỗi thành viên với nhau và ý 
thức cộng đồng trở nên càng sâu sắc hơn. Do 
đó, mỗi khi việc nước cần đến ṣ đóng góp 
của làng xã như chống lụt, chống ngoại xâm 
thì đều nhận được ṣ đồng lòng góp sức. Sức 
mạnh đoàn kết làng, nước của xã hội truyền 
thống phần nào được tạo ḍng từ chính những 
khuôn mẫu, chuẩn ṃc mà người cao tuổi ra 
sức xây ḍng, bảo lưu và tḥc hiện trong cộng 
đồng.
Trong sinh hoạt vĕn hóa cộng đồng: Hầu 
hết các làng xã Việt Nam cổ truyền đều có đình, 
chùa, đền, miếu và những tập tục riêng, là 
nơi diễn ra nhiều hoạt động vĕn hóa dân gian 
phong phú, đa dạng. Trong làng xã, việc thờ 
cúng, tế ṭ hầu như diễn ra quanh nĕm như Tết 
Nguyên đán, Tết Đoan ngọ, lễ thượng điền, lễ 
hạ điền, lễ tưởng niệm các anh hùng dân tộc, 
lễ hội tôn giáoTrong các hoạt động vĕn hóa 
đó, hầu hết người cao tuổi đều tham gia, đặc 
biệt người cao tuổi nắm giữ vai trò chủ chốt 
trong phần tế lễ. Người cao tuổi là người bảo 
5 Viện Sử học,1987. Biên niên ḷch sử cổ trung đ̣i Vịt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà nội, tr145, 149
6 Nguyễn Đổng Chi. 1978. V̀i ńt v̀ bịn ph́p ću t́ tương trợ trong l̀ng xã Vịt Nam trước ćch ṃng. Trong Nông 
thôn Việt Nam. Sđd. tr 220
97
Vai trò của người cao tuổi trong ...
lưu các giá trị vĕn hóa cổ xưa, vừa tham gia 
biểu diễn, lại vừa là công chúng thưởng thức. 
Điều đó khẳng định ṣ hòa nhập của người 
cao tuổi trong đời sống cộng đồng, khẳng định 
ṣ công nhận của xã hội về vị thế, vai trò trọng 
yếu của người cao tuổi trong sinh hoạt vĕn hóa 
dân gian ở làng xã cổ truyền.
Trong họ tộc và gia đình: những chuẩn 
ṃc và khuôn mẫu của cộng đồng, các thành 
viên trong gia đình ngay từ nhỏ đã được người 
cao tuổi giáo dục để trở thành một thành viên 
tốt của cộng đồng, sống theo tôn ti, trật ṭ và 
tḥc hiện theo đúng phận vị của mình. Trong 
gia đình Việt Nam cổ truyền, người cao tuổi 
vẫn giữ được cả hai vai trò của mình: vai trò 
kinh tế và vai trò là chỗ ḍa tinh thần. Về mặt 
kinh tế, do có kinh nghiệm sản xuất về thời 
vụ, giống cây trồng, chĕn nuôi, chĕm sóc sức 
khỏe cho người, cho gia súc nên người cao 
tuổi sản xuất tạo ra của cải vật chất, nuôi sống 
các thành viên trong gia đình. Hơn nữa, người 
cao tuổi được làng xã quan tâm về vật chất, do 
đó không hoàn toàn phụ thuộc vào con cái về 
kinh tế, không trở thành gánh nặng về kinh tế 
cho con cái. Về mặt tinh thần, người cao tuổi 
là trung tâm để quần tụ con cháu, người cao 
tuổi đứng ra phân định vị trí cho từng người 
trong gia đình, với tư cách là người chủ gia 
đình. Người cao tuổi thay mặt gia đình trong 
quan hệ với làng xã, tộc họ, tổ tiên.
Như vậy, xã hội nông nghiệp cổ truyền 
Việt Nam với một môi trường thuận lợi để cho 
người cao tuổi hòa nhập với cộng đồng mà 
không cảm thấy ṣ khác biệt nào về nếp sống, 
cách sống. Hơn nữa, sống trong ṣ đùm bọc 
của tình làng nghĩa xóm, người cao tuổi phát 
huy được khả nĕng và trí tuệ của mình trong 
việc xây ḍng cộng đồng bền vững, từ đó, góp 
phần khẳng định được vị thế, vai trò của người 
cao tuổi trong đời sống xã hội làng xã ngày 
xưa ở nước ta.
3. VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TRONG 
XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ 
VẤN ĐỀ C̀N QUAN TÂM
Sau những nĕm đổi mới, kinh tế xã hội 
của nước ta liên tục phát triển, đời sống người 
dân, trong đó có nhóm người cao tuổi được cải 
thiện và nâng lên r̃ rệt. Đảng và Nhà nước ta 
đã có những chính sách phù hợp với ṣ già hóa 
dân số để đảm bảo y tế, bảo trợ xã hội và an 
sinh xã hội khác cho người cao tuổi. Bên cạnh 
đó, Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chính 
sách nhằm tận dụng ở mức cao nhất đối với bộ 
phận dân số là người cao tuổi, khuyến khích 
họ tham gia vào phát triển kinh tế, xã hội, nhất 
là đối với những người còn sức khỏe tốt, đặc 
biệt đối với các nhà khoa học, nhà quản lý, 
doanh nhân, nghệ nhân, bác sĩ, những người 
sau khi về hưu vẫn còn khả nĕng lao động 
tham gia đóng góp vào gia đình, cộng đồng, 
xã hội. Do đó, đa số người cao tuổi đều tham 
gia các hoạt động xã hội, quản lý cộng đồng 
và vẫn giữ một vai trò nhất định như Bí thư 
chi bộ, Đảng bộ; trưởng thôn bản, Chủ tịch, 
Phó Chủ tịch các đoàn thể (C̣u chiến binh), 
. Hội người cao tuổi cơ sở đã tḥc ṣ là bộ 
phận quan trọng của hệ thống chính trị ở cấp 
xã; là chỗ ḍa tin cậy của Đảng, chính quyền, 
là thành viên tích c̣c của Mặt trận Tổ quốc 
Việt Nam trong ṣ nghiệp xây ḍng khối đại 
đoàn kết toàn dân. 
Theo kết quả khảo sát của Ủy ban quốc 
gia người cao tuổi (2007), khoảng 15% người 
cao tuổi tham gia cấp ủy đảng ở địa phương. 
Họ chủ yếu là những người đang ngh̉ hưu và 
ở độ tuổi 60-74. Có 60% người cao tuổi vẫn 
tham gia các cuộc họp với cộng đồng với các 
hoạt động xây ḍng tổ chức hội; bàn bạc về 
phát triển cộng đồng, xây ḍng làng xã... Có 
nhiều người cao tuổi đang tham gia quản lý 
cộng đồng (thôn/ấp, tổ dân phố...) dưới các 
hình thức như tham gia phong trào khuyến 
học, phong trào vận động xây ḍng gia đình 
98
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
vĕn hóa, khu dân cư vĕn hóa; chính quyền các 
cấp tham khảo ý kiến xây ḍng chính sách; 
tham gia các lớp tập huấn về khuyến nông/
lâm, phổ biến kiến thức chĕm sóc sức khỏe 
cho người cao tuổi, tuyên truyền về vai trò tác 
động của vĕn hoá mới trong đời sống gia đình 
và xã hội, đĕng ký phấn đấu xây ḍng gia đình 
vĕn hoá, tham gia xây ḍng và tḥc hiện qui 
ước, hương ước; tḥc hiện nếp sống vĕn minh 
trong việc cưới, việc tang, lễ hội, các hoạt 
động vĕn hoá, thể dục thể thao, phòng chống 
tệ nạn xã hội, tham gia hoà giải mâu thuẫn, 
tranh chấp ở xóm làng, tham gia hoạt động từ 
thiện, nhân đạo, phòng/ chống tham nhũng; 
thanh tra nhân dân; giám sát các công trình xây 
ḍng/ phúc lợi. Ngoài ra, nhiều cán bộ trong 
ngành giáo dục, khoa học, y tế khi ngh̉ hưu đã 
tích c̣c tham gia công tác giáo dục, y tế ở địa 
phương. Các hoạt động này vừa phát huy được 
tiềm nĕng của người cao tuổi góp phần xây 
ḍng đời sống vĕn hoá, vừa chĕm sóc đời sống 
tinh thần, tạo cho người cao tuổi có cuộc sống 
hoà hợp với cộng đồng, có tinh thần lạc quan, 
lấy việc giúp ích cho mọi người làm niềm vui, 
khắc phục tâm lý ṭ thấy mình là người thừa 
và bản thân người cao tuổi cũng muốn thể hiện 
nhu cầu “được thấy mình là người có ích cho 
gia đình và xã hội” tḥc hiện đúng tư tưởng 
của Chủ tịch Hồ Chí Minh với người cao tuổi 
“Tuổi già chí không già, lão giả không an chi, 
lão lai không tài tận”.
Ngoài ra, người cao tuổi còn tham gia hoạt 
động kinh tế ở hầu hết các lĩnh ṿc: nông, 
lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công 
nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, chế biến, xuất 
khẩu... với các mô hình kinh tế hộ, kinh tế  ... anh niên được ṭ do phát triển nhân cách, 
ṭ do phát huy khả nĕng sáng tạo của mình 
mà không cần phải e ngại về kiến thức của 
người cao tuổi, làm cho lớp thanh niên mất 
đi ṣ kính trọng đối với ông bà, cha mẹ. Mỗi 
cá nhân được xác định trong mối quan hệ với 
các cá nhân khác bằng các thông số như nghề 
nghiệp, trình độ, vị trí xã hội, thu nhập, sở 
thích,..chứ không cĕn cứ vào tuổi tác hay vai 
trò đảm nhận trong gia đình, dòng họ. Trong 
xã hội nông thôn hiện nay, một bộ phận người 
cao tuổi vốn đã hết sức lao động không thể làm 
được những công việc cày bừa nặng nhọc, còn 
phải tṛc tiếp sản xuất, lại thiếu vốn, lại làm 
không đủ ĕn. Nhà ở và nhiều phương tiện sinh 
hoạt vĕn hóa rất đơn sơ và thiếu thốn. Ở đây 
đã xuất hiện nhiều người cao tuổi cô đơn, bệnh 
tật, đời sống vật chất, tinh thần của họ vẫn còn 
rất khó khĕn. Khả nĕng và xu hướng “gia đình 
lớn” ở nông thôn giảm nhanh nên người cao 
tuổi không còn được là trung tâm nuôi dưỡng 
tṛc tiếp của tất cả con cháu. Còn trong xã hội 
đô thị, một bộ phận người cao tuổi không có 
chế độ bảo hiểm tuổi già, họ phải tiếp tục lao 
động trong khung cảnh khắc nghiệt của môi 
trường công nghiệp và buôn bán đô thị, một 
ṣ khác hẳn với môi trường nông thôn. Và khi 
không còn khả nĕng lao động nữa thì họ phải 
sống nhờ hoàn toàn vào con cái. Một vài công 
trình nghiên cứu xã hội học về người về cao 
tuổi cho thấy, một phần không nhỏ người cao 
tuổi vẫn phải chu cấp kinh tế cho con cái, điều 
này cho thấy rằng họ vẫn phải tiếp tục lĕn lộn 
trong thị trường lao động đô thị mặc dù tuổi 
tác đã cao. Những biến đổi đáng ngại trong 
đời sống đô thị hiện nay tác động nặng nề đến 
người cao tuổi, vì hiện nay cho thấy “ có 70% 
người cao tuổi đang sống cùng con cháu, 8,3% 
sống độc thân, 13,1% người cao tuổi sống với 
nhau (không cùng con cháu) (Ủy ban quốc gia 
về người cao tuổi Việt Nam, 2007). Thu nhập 
của lớp người cao tuổi này phần lớn ở mức 
trung bình hoặc thấp, trình trạng kém phát 
triển của các loại dịch vụ đô thị (cơm nước, 
giặt giũ, dọn dẹp), nhà ở chật chội, những 
cơn lốc giá trị vật chất tĕng lên, tất cả những 
điều đó góp phần làm xung đột gia đình tĕng 
lên và ở đây người cao tuổi bị ảnh hưởng nặng 
nề nhất. số người không có việc làm rất cao và 
ngày càng tĕng, mạng lưới y tế chưa đáp ứng 
kịp, các định hướng giá trị như ṣ tôn trọng 
100
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
người cao tuổi với tính cách là một chuẩn ṃc 
xã hội từng bước bị xóa mòn, môi trường bị 
tàn phá nặng nề, ô nhiễm môi trường tĕng 
lên cũng như nhiều vùng nông thôn. Không 
những thế, một trong những vấn đề của người 
cao tuổi là đời sống tinh thần của họ, là vị 
thế của người cao tuổi đối với xã hội và gia 
đình đã thay đổi cĕn bản. Ṣ giảm sút về vai 
trò kinh tế cũng như vai trò là chỗ ḍa tinh 
thần của người cao tuổi đối với con cháu đã 
đưa đến ṣ phá hoại những cơ sở của đạo đức 
truyền thống lấy chữ “hiếu” làm đầu. Cha mẹ 
già không còn là cây cổ thụ che mát cho các 
con nữa mà đã trở thành vật chướng ngại vật 
trong cuộc sống làm ĕn còn quá khốn khổ của 
chúng, nhất là những người cao tuổi sức yếu, 
không còn khả nĕng lao động hoặc ṭ chĕm 
sóc bản thân. Trong gia đình, quan hệ “phụ 
từ, hiếu tử” cũng đang dần bị thay thế bằng 
quan hệ sòng phẳng. Ṣ phân công lao động 
giữa cha mẹ và con cái diễn ra dưới hình thức 
đổi công. Mặc dù ở riêng, hằng ngày người 
cao tuổi vẫn thường xuyên đến nhà con cái để 
trông nom nhà cửa, nấu cơm, trông cháu trong 
khi các con ra đồng làm ruộng hoặc đi lao 
động ở nhà máy, xí nghiệp. Trước đây, những 
công việc này thể hiện một mặt là ṣ giúp đỡ 
con cái, mặt khác là thỏa mãn nhu cầu tình 
cảm của người cao tuổi. Ngày nay, ṣ nảy sinh 
các quan hệ đổi công sòng phẳng đã gây nên 
gánh nặng về mặt tâm lý đối với người cao 
tuổi. Nhiều người cao tuổi rơi vào trạng thái 
hẫng hụt về tinh thần, cảm thấy cuộc sống rất 
cô đơn và buồn tẻ.
Do đó, trong giới hạn bài viết này, chúng 
tôi gợi ý một số định hướng về chính sách 
nhằm góp phần nâng cao vị thế, vai trò của 
người cao tuổi trong cộng đồng, gia đình ở 
nước ta hiện nay và sắp tới như sau:
Th́ nhất: Cần đánh giá đúng vị thế, vai trò 
của người cao tuổi trong xã hội như Bác Hồ đã 
khẳng định trong thư gửi phụ lão cả nước vào 
tháng 6 nĕm 1941. Bác viết: “Trách nhiệm của 
các vị phụ lão chúng ta đối với nhiệm vụ đất 
nước thật là trọng đại. Đất nước hưng thịnh do 
phụ lão gây ḍng. Đất nước hưng thịnh do phụ 
lão giúp sức. Nước bị mất, phụ lão cứu. Nước 
suy sụp, phụ lão phù trìNước nhà lo, các cụ 
cũng phải lo. Nước nhà vui, các cụ đều cùng 
được vui”17. (Nguyễn Ái Quốc - 1941). Đây 
là việc làm rất quan trọng, bởi có ṣ nhìn nhận 
đúng được vai trò của người cao tuổi thì về 
phía nhà nước mới có những chính sách quy 
định thỏa đáng để phát huy vai trò của họ, góp 
phần hạn chế những tác động tiêu c̣c; về phía 
các thành viên xã hội, gia đình (thanh, thiếu 
niên) mới giảm đi tư tưởng xem nhẹ, thậm chí 
coi thường người cao tuổi. Phải khẳng định 
rằng, người cao tuổi có vai trò rất to lớn trong 
việc bảo đảm ṣ ổn định và phát triển của gia 
đình, cộng đồng và đất nước ta.
Th́ hai: Cần tĕng cường tuyên truyền 
để nâng cao nhận thức xã hội rằng, người 
cao tuổi là một nhóm xã hội có vị trí rất quan 
trọng. Người cao tuổi nước ta vẫn luôn tồn 
tại tư tưởng nhân vĕn truyền thống của dân 
tộc, sức mạnh tinh thần trong đấu tranh giải 
phóng dân tộc. Người cao tuổi đã cống hiến 
cho ṣ phát triển của đất nước, đoàn thể, gia 
đình, cho thế hệ trẻ. Phải tuyên truyền bằng 
nhiều hình thức để giúp xã hội hiểu biết đúng 
về vị thế, vai trò của người cao tuổi; về trách 
nhiệm của các cấp chính quyền, các tổ chức, 
gia đình, cá nhân đối với người cao tuổi. Bởi 
vì, ch̉ có trên cơ sở thay đổi nhận thức theo 
hướng tích c̣c, chính quyền và các tổ chức 
cũng như bản thân người cao tuổi cùng gia 
đình họ mới có thể tạo ra những biến chuyển, 
những động ḷc mới trong việc phát huy vị 
thế, vai trò của người cao tuổi. Tḥc tế cho 
thấy với nền nông nghiệp hiện nay ở nước ta 
7 Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi phụ lão tháng 6/1941
101
Vai trò của người cao tuổi trong ...
thì chưa phải toàn bộ những kinh nghiệm sống 
và sản xuất của người cao tuổi đều lạc hậu, cũ 
kỹ. Con cháu vẫn cần đến ý kiến của ông bà, 
cha mẹ. Người cao tuổi không hoàn toàn đứng 
ngoài lề cuộc sống lao động, mà vẫn tham gia 
bằng tư duy kinh nghiệm và bằng cả sức lao 
động của mình. Vì thế họ phải được tôn trọng 
và phải được thừa nhận như một thành viên 
tích c̣c của gia đình, cộng đồng. Một chương 
trình giáo dục đạo đức trong xã hội về lòng 
kính thương yêu ông bà, cha mẹ là hết sức cần 
thiết trong xã hội hiện nay.
Th́ ba: Xây ḍng và phát triển tổ chức 
mạng lưới trợ giúp, phát huy vai trò người cao 
tuổi. Hội người cao tuổi cần tổ chức, phối hợp 
với các đoàn thể, tổ chức khác như Mặt trận 
tổ quốc, Hội c̣u chiến binh, Hội nông dân, 
Hội phụ nữ hay các tổ chức từ thiện, tổ chức 
phi chính phủ, để động viên, khuyến khích 
người cao tuổi chủ động tiếp cận với các tổ 
chức trợ giúp, tham gia với các đoàn thể để 
thiết lập, duy trì, phát triển các mối quan hệ xã 
hội, tĕng cường ṣ quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau 
trong cuộc sống, giúp nhau làm kinh tế có hiệu 
quả, chia sẻ kinh nghiệm trong chĕm sóc sức 
khỏe, đời sống tinh thần,Tổ chức mạng lưới 
này là những cá nhân, tổ chức trong cộng đồng 
bằng nhiều hình thức khác nhau tình nguyện 
tḥc hiện giúp người cao tuổi nâng cao khả 
nĕng tương tác, gắn kết gia đình, cộng đồng, 
hòa nhập với xã hội. Đối với Hội người cao 
tuổi hiện nay, cần hoạt động tḥc chất và hiệu 
quả hơn nữa, cần động viên, thu hút người cao 
tuổi thể hiện tích c̣c hơn nữa vai trò của họ 
trong phong trào “tuổi cao nêu gương sáng” 
để đạt hiệu quả cao.
Th́ tư: Tĕng cường chĕm sóc sức khỏe 
người cao tuổi. Hiện nay “có 67,2% người 
cao tuổi có tình trạng sức khỏe yếu, rất yếu, 
ch̉ có khoảng 5% là tốt, tỷ lệ nữ yếu cao hơn 
nam, nông thôn cao hơn thành thị. 95% người 
cao tuổi có bệnh và chủ yếu là bệnh mãn tính 
không lây nhiễm như xương khớp (40,62%); 
tim mạch và huyết áp (45,6%); tiền liệt tuyến 
(63,8%); và rối loạn tiểu tiện (35,7%). Cùng 
lúc đó, những bệnh tật phát sinh do thay đổi 
lối sống như sa sút tinh thần và trầm cảm lại có 
xu hướng tĕng và tỷ lệ người cao tuổi mắc các 
bệnh này tĕng khi tuổi thọ tĕng lên. Nguy cơ 
khuyết tật ở người cao tuổi cũng rất cao trong 
đó thường gặp nhất là khuyết tật về thính ḷc 
và thị ḷc khiến người cao tuổi cảm thấy ṭ ti 
và ngại giao tiếp với xã hội”18 (Hoàng Mộc Lan, 
2015). Vì thế, việc chĕm sóc sức khỏe người 
cao tuổi trở nên cần thiết có tính cấp bách. Tiếp 
tục tḥc hiện hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần bảo 
hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí cho nhóm 
người cao tuổi yếu thế song song với việc mở 
rộng và tĕng cường mạng lưới dịch vụ chĕm 
sóc sức khỏe tại cộng đồng, tại nhà cho những 
đối tượng có điều kiện. Những loại hình dịch 
vụ này có thể là các phòng khám chữa bệnh, 
y tế thôn bản, cửa hàng, các trung tâm giải trí 
dành cho người cao tuổi trong cộng đồng. 
Th́ nĕm: Có chính sách sử dụng người 
cao tuổi có trình độ chuyên môn cao. Kinh 
nghiệm và tài nĕng của người cao tuổi là vốn 
quý của xã hội, là một trong số những nguồn 
nhân ḷc mà một xã hội có được để phát triển 
đất nước, do đó, nhà nước cần có chính sách 
cụ thể để tận dụng nguồn nhân ḷc này, nhất là 
đối với người cao tuổi có trình độ chuyên môn 
cao và xã hội đang cần như các giảng viên đại 
học, các nhà nghiên cứu, các nhà kỹ nghệ có 
trình độ cao, người có trình độ thạc sĩ, tiến 
sĩ, phó giáo sư, giáo sư, ..v.v. Bên cạnh đó, 
cần xây ḍng cơ chế khuyến khích người cao 
tuổi có trình độ khoa học kỹ thuật thành lập 
8 PGS.TS.Hoàng Mộc Lan (chủ biên). Những vấn đề tâm 
lý – xã hội của người cao tuổi Việt Nam. Tḥc trạng – 
Giải pháp trợ giúp và phát huy vai trò người cao tuổi tại 
cộng đồng. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2015. 
Tr 82, 83.
102
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
các cơ sở đào tạo, dạy nghề, truyền thụ kiến 
thức, kỹ nĕng nghề nghiệp cho lớp trẻ; khuyến 
khích người cao tuổi có trình độ khôi phục, 
dạy nghề truyền thống hoặc thành lập các tổ 
chức tư vấn xã hội, nghề nghiệp để sử dụng 
nhiều hơn tài nĕng và kiến thức cũng như nhiệt 
huyết của họ trong việc đào tạo thế hệ trẻ, góp 
phần xây ḍng đất nước đáp ứng nhu cầu ngày 
càng tĕng về nguồn nhân ḷc chất lượng cao 
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước. Tḥc tiễn hiện nay cho thấy, nhóm 
người cao tuổi có sức khỏe, có trình độ chuyên 
môn đang muốn tiếp tục làm việc để cống hiến 
cho xã hội.
Th́ śu: Bản thân người cao tuổi cần cũng 
cố, xây ḍng niềm tin vào chính mình. Trước 
hết, niềm tin vào bản thân có một giá trị quan 
trọng đối với người cao tuổi, không ch̉ làm 
phong phú thêm cuộc sống của họ mà còn cũng 
cố lẽ sống, niềm tin, giúp họ xử lý tốt các vấn 
đề của bản thân. Việc suy giảm, buông xuôi 
niềm tin vào bản thân có thể dẫn đến những 
suy nghĩ, hành động lệch lạc, giảm nghị ḷc 
vượt qua những khó khĕn của cuộc sống mà 
người cao tuổi phải đối mặt hằng ngày. Tiếp 
đến, người cao tuổi cần tin tưởng vào cuộc 
sống tương lai. Bởi lẽ, cách thức nhìn nhận 
về cuộc sống tương lai theo hướng lạc quan 
hay bi quan cũng ảnh hưởng đến tinh thần, sức 
khỏe, vị thế, vai trò của người cao tuổi. Nên 
người cao tuổi cần thông qua giao tiếp xã hội 
để nhận biết về bản thân, về những người cao 
tuổi xung quanh, về cuộc sống hiện tại, về ṣ 
quan tâm của các cấp chính quyền, đoàn thể 
để góp phần ṭ tin hơn vào cuộc sống, để sống 
khỏe, sống vui, sống có ích cho xã hội.
4. KẾT LUẬN
Dù xét trên khía cạnh gia đình hay cộng 
đồng, xã hội, người cao tuổi hiện nay vẫn giữ 
một vai trò nhất định. Trong gia đình, người 
cao tuổi góp phần tạo ra thu nhập cho gia đình, 
hỗ trợ con cháu trong công việc sản xuất kinh 
doanh bằng các hình thức khác nhau (tṛc tiếp 
lao động sản xuất, cấp vốn, truyền thụ kinh 
nghiệm...). Người cao tuổi còn tham gia các 
quyết định quan trọng, giúp đỡ con cháu trong 
công việc gia đình. Với cộng đồng xã hội, 
người cao tuổi vẫn được coi như một nguồn 
ḷc, một phần “vốn xã hội” quan trọng. Nhiều 
người cao tuổi đã phát huy được khả nĕng, 
kinh nghiệm của mình vào các lĩnh ṿc của 
đời sống chính trị, xã hội địa phương. Họ tham 
gia các cấp quản lý cộng đồng, tham gia các 
đoàn thể chính trị -xã hội và các tổ chức dân 
ṣ khác. Tùy từng vị trí, họ đã thể hiện vai trò 
của mình thông qua hàng loạt hoạt động xã 
hội khác nhau. Những hoạt động này, vừa là 
nhu cầu, vừa là những đóng góp thiết tḥc góp 
phần vào phát triển xã hội, giữ gìn trật ṭ an 
ninh, xây ḍng đời sống vĕn hóa ở cơ sở. Cần 
lưu ý rằng, việc người cao tuổi tham gia các 
hoạt động công đồng, tham gia quản lý cộng 
đồng hoàn toàn ḍa trên tinh thần ṭ nguyện, 
vì cộng đồng mà không phải vì mục tiêu kinh 
tế. Tuy nhiên, trong ṣ biến đổi kinh tế-xã hội 
của đất nước, Đảng, nhà nước ta cần có những 
chủ trương, chính sách hiệu quả hơn nữa, thiết 
tḥc hơn nữa để giúp người cao tuổi khẳng 
định vị thế để phát huy vai trò của mình, đóng 
góp chung vào ṣ phát triển của đất nước, vì 
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công 
bằng, vĕn minh”./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Vĕn hóa - Thể thao và Du lịch, 
Viện Gia đình và Giới, Tổng cục Thống kê, 
Unicef. 2008. Ḱt qủ đìu tra gia đình Vịt 
Nam nĕm 2006.
[2]. Nguyễn Đổng Chi. 1978. V̀i ńt v̀ bịn 
ph́p ću t́ tương trợ trong l̀ng xã Vịt Nam 
trước ćch ṃng. Trong, Nông thôn Vịt 
Nam. Tr. 220
103
Vai trò của người cao tuổi trong ...
[3]. Bùi Xuân Đính. 1985. Ḷ l̀ng ph́p 
nước. Hà Nội, tr.55,56
[4]. Đặng Cảnh Khanh, and Lê Thị Quý. 
2007. Gia đình ḥc. Nxb Lý luận Chính trị.
[5]. John Knodel, and Truong Sy Anh.2002. 
Vietnam’s Older Population: the View from 
cencus. Asia-Paciic Population Journal 
17:5-22
[6]. PGS.TS.Hoàng Mộc Lan (chủ biên). 
Những vấn đ̀ tâm lý – xã ḥi c̉a người cao 
tuổi Vịt Nam. Tḥc tṛng – Gỉi ph́p trợ 
giúp v̀ ph́t huy vai trò người cao tuổi ṭi 
c̣ng đồng. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà 
Nội, 2015. Tr 82, 83
[7]. Giang Thanh Long và Wade Donald Pfau 
(2007). Tổng quan dân ś cao tuổi ở Vịt 
Nam giai đọn chuỷn đổi kinh t́. Trong, 
Ćc vấn đ̀ xã ḥi trong qú trình chuỷn đổi 
v̀ ḥi nḥp kinh t́ ở Vịt Nam, Chủ biên: 
Giang Thanh Long – Dương Kim Hồng, Hà 
Nội, Nxb Lao động Xã hội.
[8]. Lê Ngọc Lân, Trần Quý Long. 2009. B́o 
ćo phân t́ch ś lịu đìu tra gia đình 2006: 
Quan ḥ giữa người cao tuổi v̀ ćc th́ ḥ 
trong gia đình. Viện Gia đình và Giới.
[9]. Nguyễn Đức Nghinh. 1978. Người gì 
trong l̀ng xã. Trong, Nông thôn Vịt Nam 
trong ḷch sử. Tập II, tr.164
[11]. Qúc trìu hình lụt (Lụt hình trìu 
Lê). 1991. Nxb Pháp lý. Tr4
[12]. Thư c̉a Nguyễn Ái Qúc gửi phụ lão 
th́ng 6/1941
[13]. Ủy ban quốc gia về người cao tuổi. 
2007. B́o ćo ḱt qủ kh̉o śt thu tḥp, xử 
lý thông tin v̀ người cao tuổi ở Vịt Nam. Hà 
Nội
[14]. Viện Sử học. 1987. Biên niên ḷch sử cổ 
trung đ̣i Vịt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, 
Hà Nội, tr145, 149.

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_nguoi_cao_tuoi_trong_xa_hoi_viet_nam_mot_so_van.pdf