Vận dụng tiếp cận kiểm toán cho mỗi lĩnh vực kiểm toán trong kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ (KTNB) trong doanh nghiệp có nhiều thay đổi để
phù hợp với môi trường kinh doanh thay đổi. Sự thay đổi của mục
đích kiểm toán dẫn tới sự mở rộng hoạt động kiểm toán sang những
lĩnh vực khác nhằm đáp ứng nhu cầu của quản lý. Để thực hiện kiểm
toán hiệu lực, KTNB phải có những cách tiếp cận mới thích hợp để
đạt được mục đích kiểm toán. Có nhiều cách tiếp cận kiểm toán khác
nhau tùy thuộc vào từng mục đích kiểm toán, nội dung kiểm toán. Bài
viết dưới góc độ lý thuyết phân tích từ mục đích của những lĩnh vực
kiểm toán, nội dung kiểm toán theo lĩnh vực để chọn lựa cách tiếp
cận kiểm toán thích hợp cho cuộc kiểm toán. Bài viết đưa ra một mô
hình kết hợp giữa kiểm toán theo rủi ro với những cách tiếp cận khác
để thực hiện mỗi lĩnh vực kiểm toán.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng tiếp cận kiểm toán cho mỗi lĩnh vực kiểm toán trong kiểm toán nội bộ
40 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 197- Tháng 10. 2018 Vận dụng tiếp cận kiểm toán cho mỗi lĩnh vực kiểm toán trong kiểm toán nội bộ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP Phan Trung Kiên Ngày nhận: 08/10/2018 Ngày nhận bản sửa: 15/10/2018 Ngày duyệt đăng: 23/10/2018 Kiểm toán nội bộ (KTNB) trong doanh nghiệp có nhiều thay đổi để phù hợp với môi trường kinh doanh thay đổi. Sự thay đổi của mục đích kiểm toán dẫn tới sự mở rộng hoạt động kiểm toán sang những lĩnh vực khác nhằm đáp ứng nhu cầu của quản lý. Để thực hiện kiểm toán hiệu lực, KTNB phải có những cách tiếp cận mới thích hợp để đạt được mục đích kiểm toán. Có nhiều cách tiếp cận kiểm toán khác nhau tùy thuộc vào từng mục đích kiểm toán, nội dung kiểm toán. Bài viết dưới góc độ lý thuyết phân tích từ mục đích của những lĩnh vực kiểm toán, nội dung kiểm toán theo lĩnh vực để chọn lựa cách tiếp cận kiểm toán thích hợp cho cuộc kiểm toán. Bài viết đưa ra một mô hình kết hợp giữa kiểm toán theo rủi ro với những cách tiếp cận khác để thực hiện mỗi lĩnh vực kiểm toán. Từ khóa: kiểm toán nội bộ, tiếp cận kiểm toán, lĩnh vực kiểm toán 1. Đặt vấn đề iểm toán nội bộ (KTNB) nói chung đang trở thành một công cụ quản lý thiết yếu trong quản trị công ty, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính (Nguyễn Thị Hồng Thúy, 2010; Phan Trung Kiên và cộng sự, 2008, 2010, 2012). Những nghiên cứu công bố đã xác định “bối cảnh” cụ thể để đánh giá và cải thiện vai trò của KTNB trong quản trị công ty. Hoạt động của KTNB được hình thành phần lớn dựa trên nền tảng quản trị, quản trị rủi ro và kiểm soát. Dưới góc độ thực hành, chức năng KTNB được hỗ trợ bằng một hệ thống chuẩn mực và hướng dẫn cụ thể. Từ đó, kiểm toán viên thể sử dụng những chỉ dẫn để xác định trọng tâm kiểm toán. Đây là một trong những thử thách lớn với tất cả các cuộc kiểm toán và là nền tảng cho một cuộc kiểm toán thành công. Chuẩn mực IIA 2100 cũng khẳng định sự thay đổi bản chất của KTNB trong bối cảnh phát triển và thay đổi chức năng KTNB trong quản trị công ty, cụ thể “hoạt động KTNB nên trợ giúp tổ chức bằng cách nhận diện và đánh giá những khả năng cao xảy ra rủi ro và góp phần vào cải thiện quản trị rủi ro và những hệ thống kiểm soát” (IIA, 2009). Phân tích và đánh giá những vấn đề trong cuộc kiểm toán, phát hiện trong những nghiên cứu QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 41Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 197- Tháng 10. 2018 đều cho thấy những vấn đề nội dung của kiểm toán có khác nhau nhưng có điểm chung là liên quan tới quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ. Ngay cả khi kiểm toán viên nội bộ tập trung vào một dự án kiểm toán cụ thể, trong đó, kiểm toán viên phải thực hiện nhiều thử nghiệm tuân thủ và kiểm tra cơ bản thì kết quả công việc kiểm toán vẫn trở nên hữu ích với vấn đề nêu trên- quản trị rủi ro và kiểm soát, ở mức độ chi tiết; xem xét kết quả thực hiện thử nghiệm chứng minh sự phù hợp phương thức quản lý rủi ro và niềm tin vào kiểm soát nội bộ trong việc phòng tránh và giảm rủi ro trong hoạt động của đơn vị (Selim et al., 1999; Keith, J.,2005; Yass Alkafaji et al., 2010). Những tác giả nêu trên cũng phát hiện, kiểm toán viên nội bộ luôn xem xét mối liên hệ giữa một hành vi gian lận được điều tra và nguyên nhân- sự thất bại của kiểm soát nội bộ trong việc ngăn chặn và phát hiện sai phạm. Cụ thể, kết quả nghiên cứu những cuộc kiểm toán dữ liệu máy tính cùng quá trình xử lý hay kiểm tra thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hoặc những dự án đều cho thấy sự liên quan giữa nội dung kiểm toán với sự cần thiết phải nhận diện, đánh giá và xem xét rủi ro với hoạt động kinh doanh. Trên thực tế, xuất phát từ tầm quan trọng của việc xác định bản chất những công việc KTNB, Chuẩn mực IIA 2100-1 đã đưa ra những hướng dẫn bổ sung về bản chất của công việc KTNB. Chuẩn mực chỉ ra bản chất “kép” của chức năng KTNB liên quan tới cung cấp sự đảm bảo hợp lý về quản trị rủi ro, kiểm soát và những qui trình quản trị đang hiện hữu trong tổ chức; đồng thời cung cấp những đề xuất để cải thiện hoạt động của đơn vị trong quan hệ với cả hiệu quả hoạt động và hiệu lực. Với phạm vi mở rộng, công việc KTNB không chỉ liên quan tới quản trị một tổ chức mà rộng hơn có thể liên quan tới cung cấp một số yếu tố đầu vào cho tổ chức trong phạm vi của hoạt động kiểm toán đã được lên kế hoạch. Cụ thể, kiểm toán viên nội bộ không chỉ liên quan tới đánh giá những qui trình quản trị tổng thể mà còn hướng tới những hoạt động cụ thể trong quan hệ với những nội dung kiểm toán hoặc tư vấn. Chuẩn mực thực hành nghề nghiệp về hoạt động tư vấn đã chỉ rõ “Tất cả những hệ thống kinh doanh, những quy trình, những hoạt động, những chức năng và những hoạt động khác trong phạm vi tổ chức là đối tượng đánh giá của kiểm toán viên nội bộ. Phạm vi công việc phù hợp của KTNB cần cung cấp một sự đảm bảo hợp lý về hệ thống quản trị rủi ro của ban quản trị là hiệu lực; hệ thống kiểm soát nội bộ do ban quản trị xây dựng là hiệu lực và hoạt động hiệu quả; quy trình quản trị của ban quản trị là hiệu lực trên cơ sở thiết lập và duy trì những giá trị, thiết lập những mục tiêu, giám sát các hoạt động và việc thực hiện, và xác định phương pháp đo lường trách nhiệm” (IIA, 2009). Thực tiễn phát triển của chức năng KTNB trong tổ chức cho thấy mỗi lĩnh vực kiểm toán có những đóng góp cụ thể. Vì thế, việc nhấn mạnh vào phương pháp kiểm toán khác nhau trong mỗi trường hợp cụ thể có ý nghĩa quan trọng để đạt được mục đích của KTNB cũng như mở rộng ảnh hưởng của chức năng kiểm toán trong tổ chức. Cùng với giới hạn phạm vi, tính chu kỳ, thì tiếp cận kiểm toán giúp kiểm toán viên hình thành khuôn mẫu cho việc áp dụng phương pháp kiểm toán thích hợp. Mỗi cách tiếp cận kiểm toán hoặc một sự kết hợp những cách tiếp cận kiểm toán khác nhau có thể đáp ứng mục tiêu theo những lĩnh vực kiểm toán cụ thể. Thực tế, việc kết hợp giữa lĩnh vực kiểm toán và tiếp cận kiểm toán vì thế tạo ra một khung hướng dẫn cho quá trình thực hiện kiểm toán, từ đó cho phép kiểm toán viên thiết lập những bước kiểm toán đơn lẻ theo yêu cầu. Trong bài viết này, tác giả tập trung vào sự kết hợp của những tiếp cận kiểm toán phổ biến trong KTNB với những lĩnh vực kiểm toán dưới góc độ lý thuyết. Bằng cách phân tích những lĩnh vực kiểm toán dưới góc độ lý thuyết, mục tiêu kiểm toán tương ứng, tác giả mong muốn đưa ra một cách thức kết hợp mang tính khuôn mẫu để áp dụng vào các cuộc kiểm toán trong quan hệ với mỗi lĩnh vực kiểm toán cụ thể. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả về việc vận dụng những cách tiếp cận kiểm toán khác nhau trong quan hệ với lĩnh vực kiểm toán cụ thể của một cuộc KTNB. 2. Các phương pháp tiếp cận kiểm toán trong kiểm toán nội bộ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 42 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 197- Tháng 10. 2018 2.1. Những phương pháp tiếp cận kiểm toán phổ biến KTNB ngày càng mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác bên cạnh những lĩnh vực mang tính truyền thống (Phan Trung Kiên và cộng sự, 2012;). Việc đặt ra mục tiêu và triển khai công việc đạt được mục tiêu một cách tối ưu đòi hỏi cuộc kiểm toán phải dựa trên nhiều yếu tố thích hợp, trong đó có tiếp cận kiểm toán. Tiếp cận kiểm toán là phương pháp để phát triển một thủ tục nhất định cho một cuộc kiểm toán cụ thể. Trên thực tế, khi xác định nội dung của mỗi cuộc kiểm toán, kiểm toán viên không chỉ xác định thông qua những lĩnh vực kiểm toán mà còn liên quan tới những phương pháp tiếp cận kiểm toán. Có 5 cách tiếp cận kiểm toán trong KTNB phổ biến gồm (Pickett, 2005; Phan Trung Kiên và cộng sự, 2012; Nguyễn Thị Hồng Thúy, 2010; Sawyer et al., 2003): i) Tiếp cận dựa trên rủi ro (risk- based approach): Hoạt động trong môi trường kinh doanh thay đổi, các công ty đối mặt với nhiều hơn những rủi ro, rủi ro đa dạng và biến động. Mục đích của cách tiếp cận kiểm toán dựa vào rủi ro là hướng công việc kiểm toán vào những khu vực có rủi ro kinh doanh cao. Việc duy trì công việc của KTNB tới tất cả những khu vực không cho phép kiểm toán viên có thể tập trung vào những khu vực có rủi ro tiềm tàng ở mức cao. Ngược lại, tiếp cận dựa trên rủi ro cho phép kiểm toán viên nội bộ đánh giá, xác định trọng tâm kiểm toán và từ đó phân bổ nguồn lực kiểm toán thích hợp. ii) Tiếp cận dựa trên hệ thống (system- based approach): Tiếp cận dựa trên hệ thống thường được sử dụng để kiểm tra hiệu lực của hoạt động kiểm soát và những hoạt động bảo vệ. Mục đích chính của cách tiếp cận này là cung cấp cho nhà quản lý (người chịu trách nhiệm tổng thể về giám sát công ty) một sự đảm bảo về hệ thống kiểm soát đã sử dụng. Theo đó, kiểm toán viên sẽ phát hiện và ngăn chặn kịp thời bất cứ yếu điểm hoặc khả năng xảy ra những yếu điểm trong kiểm soát. Nhìn chung, tiếp cận kiểm toán dựa trên hệ thống dựa vào việc phân tích rủi ro được thực hiện tại công ty, tại những quy trình và tại những nơi công ty áp dụng thủ tục. iii) Tiếp cận dựa trên nghiệp vụ (transaction- based approach): Mục tiêu của cách tiếp cận kiểm toán dựa trên nghiệp vụ là phát hiện những sai sót nghiệp vụ. Tuy nhiên, tiếp cận kiểm toán theo nghiệp vụ thường hướng KTNB thực hiện một thủ tục điều tra hơn là những thủ tục thông thường. Kiểm toán theo cách tiếp cận dựa trên nghiệp vụ thích hợp với những công việc kiểm toán cụ thể như thử nghiệm một mẫu hay kiểm toán toàn bộ nghiệp vụ trong phạm vi một công ty. Thông thường, tiếp cận kiểm toán như vậy hướng kiểm toán viên không phân tích toàn bộ quy trình chung mà tập trung vào một sự kiện, hành động cụ thể. Thủ tục kiểm toán được sử dụng trong cách tiếp cận dựa vào nghiệp vụ tập trung vào những sự kiện trong quá khứ hoặc hiện tại nhưng ít khi hướng tới tương lai (xuất phát từ những kết quả kiểm toán). iv) Tiếp cận dựa trên sự tuân thủ (compliance- based approach): Tiếp cận dựa trên sự tuân thủ đặt trọng tâm vào kiểm tra việc thực thi một đối tượng kiểm toán. Mục tiêu kiểm toán được kiểm tra để xác định khả năng mục tiêu này có phù hợp với một bộ yêu cầu cụ thể để thiết lập sự tuân thủ hay không. Những yêu cầu có thể là những chuẩn mực pháp lý hoặc những qui định thực hiện nội bộ, những chính sách và cả những hướng dẫn thực hiện của công ty. Vì cách tiếp cận kiểm toán này tập trung vào những qui định một cách chính xác hoặc sự tồn tại của kiểm soát cụ thể, hoặc những bước trong quy trình, nên phù hợp cho việc đánh giá tính tuân thủ với những chuẩn mực pháp lý hoặc những quy định (phải tuân thủ), đảm bảo chất lượng của cấu trúc quy trình hoặc kiểm tra khả năng những mục tiêu của dự án có đạt được như kế hoạch hay không. v) Tiếp cận dựa trên các kết quả (results- based approach): Khi sử dụng cách tiếp cận kiểm toán này, kết quả kiểm toán được trình bày là kết quả của một phương pháp định lượng, QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 43Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 197- Tháng 10. 2018 không phải là một dạng quyết định có- không; khi kiểm toán nhận diện sự bất tuân thủ, kết quả kiểm toán có thể trình bày dưới dạng tỷ lệ % hoặc chỉ tiêu giá trị tương đối hoặc theo số tiền. Nếu kiểm toán nội bộ không thể chi tiết kết quả được trình bày dưới hình thức một tỷ lệ % trực tiếp hoặc giá trị tiền thì kiểm toán viên có thể sử dụng tỷ lệ thay thế một cách tương đối với sai sót được đánh giá theo mức độ nghiêm trọng. Thực tế, kiểm tra trên một mẫu phù hợp với điều kiện tiếp cận theo kết quả (vì sự biến động của biến số). Tiếp cận dựa trên những kết quả cũng phù hợp trong trường hợp báo cáo kiểm toán không bị giới hạn chỉ khẳng định sự tuân thủ mà có thể mở rộng việc định lượng với những khía cạnh khác. Tiếp cận dựa trên kết quả không chỉ giúp kiểm toán viên nhận diện khả năng tồn tại những sai sót mà còn xác định liệu những sai sót có trọng yếu hay không và ảnh hưởng lan tỏa như thế nào. Ngoài ra, tiếp cận kiểm toán theo cách này cũng giúp kiểm toán viên thực hiện hoạt động tư vấn nội bộ và cho thực hiện kiểm toán dự án tại đơn vị. 2.2. Nguyên tắc lựa chọn cách tiếp cận kiểm toán trong kiểm toán nội bộ Về nguyên tắc, xác định cách tiếp cận kiểm toán nào thích hợp trong cuộc KTNB phải dựa trên những mục tiêu kiểm toán. Từ đó, việc lựa chọn sẽ ảnh hưởng tới những hoạt động kiểm toán cụ thể. Trước hết, KTNB phải xác định rõ phạm vi thực hiện kiểm toán với “toàn bộ khu vực” hay tập trung vào những vấn đề then chốt. Nếu phạm vi kiểm toán không bị giới hạn, thì tiếp cận kiểm toán dựa trên hệ thống là lựa chọn phù hợp; ngược lại, nếu tập trung vào vấn đề cụ thể thì tiếp cận kiểm toán dựa trên nghiệp vụ sẽ phù hợp hơn. Tuy nhiên, tiếp cận kiểm toán dựa trên nghiệp vụ hay dựa trên hệ thống không thực hiện hoàn toàn riêng biệt mà có thể sử dụng kết hợp với những cách tiếp cận khác. Đặc biệt, kiểm toán viên có thể sử dụng cách tiếp cận dựa trên nghiệp vụ khi thực hiện kiểm tra bổ sung trong khi sử dụng tiếp cận kiểm toán dựa trên hệ thống. Tiếp cận kiểm toán dựa trên sự tuân thủ và dựa trên các kết quả có thể được sử dụng kết hợp, ví dụ, kiểm tra sự tồn tại của những cơ chế kiểm soát cùng thời điểm có báo cáo (định lượng) về việc những thủ tục dự kiến có đầy đủ và phù hợp với quy định không. Ngoài cách kết hợp trên, tiếp cận kiểm toán có thể kết hợp theo những cách khác. Kết hợp tiếp cận kiểm toán dựa trên sự tuân thủ với kiểm toán dựa trên hệ thống và tiếp cận dựa trên nghiệp vụ. Nếu kiểm toán dựa trên sự tuân thủ kết hợp với kiểm toán dựa trên hệ thống thì kiểm toán viên có thể kiểm tra cơ chế kiểm soát hoặc những bước trong một quy trình nhất định có tồn tại trong phạm vi quy trình không. Sự kết hợp kiểm toán dựa trên sự tuân thủ với kiểm toán dựa trên nghiệp vụ, đặc biệt khi kết quả kiểm toán tích cực hoặc tiêu cực đều không được định lượng (ví dụ, kiểm toán sự tuân thủ những chuẩn mực). Tuy nhiên, nếu các kiểm toán viên nội bộ cần định lượng kết quả kiểm toán thì kiểm toán viên có thể kết hợp cách tiếp cận này với kiểm toán dựa trên các kết quả. Khi đánh giá những cơ chế kiểm soát hoặc yêu cầu liên quan tới thủ tục, kiểm toán viên có thể kết hợp kiểm toán dựa trên hệ thống với kiểm toán dựa trên các kết quả. Trong những trường hợp như vậy, kiểm toán viên không chỉ đánh giá tính hiệu lực chung mà còn đánh giá chênh lệch trọng yếu theo yêu cầu. Tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro là cách tiếp cận quan trọng. Tiếp cận dựa trên rủi ro cung cấp một “khung” cho những cách tiếp cận kiểm toán khác. Thực tế, khi mục tiêu kiểm toán đã được lựa chọn thì những hoạt động kiểm toán cụ thể thường được xác định theo khuôn mẫu của cách tiếp cận dựa trên rủi ro. Theo đó, kiểm toán viên sẽ lựa chọn vấn đề kiểm toán hướng theo rủi ro liên quan, tới mục tiêu kiểm toán và những đối tượng kiểm toán trọng yếu. Trong phạm vi những bước công việc riêng rẽ hoặc phương pháp kiểm toán của cách tiếp cận dựa trên rủi ro, các kiểm toán viên nên ... c chung và hoạt động của tổ chức; Phân bổ giá trị đảm bảo IT cho những lợi ích kỳ vọng; Quản trị nguồn lực đầu tư tối ưu vào nguồn lực IT và quản trị nguồn lực IT; Quản trị rủi ro bao gồm cả sự minh bạch những rủi ro IT quan trọng và nhận thức về IT trong việc phát hiện rủi ro của tổ chức; Đo lường hoạt động lưu lại và giám sát vai trò của IT trong thực hiện chiến lược, sử dụng nguồn lực và thực hiện quy trình (Moeller, 2008). Những vấn đề nêu trên trong kiểm toán IT 1 COBIT (Control Objectives for Information Technology)- Hệ thống mục tiêu với công nghệ thông tin, được giới thiệu và phát triển bởi Viện quản trị IT (IT Gorvernance Institute), có liên hệ chặt chẽ với Hiệp hội kiểm soát và kiểm toán hệ thống thông tin (Information Systems Audit and Control Asso- ciation- ISACA) QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 47Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 197- Tháng 10. 2018 thuộc về nội dung của kiểm toán hoạt động. Tuy nhiên, những cấu trúc quy trình, rủi ro và kiểm soát nội bộ cần được kiểm tra theo cách tiếp cận của kiểm toán IT. Vì thế, những vấn đề tiềm tang về kỹ thuật, tổ chức, kể cả lập báo cáo tài chính trong một số tình huống và khía cạnh pháp lý phải được xem như một phần của mỗi quy trình trong đơn vị. Kiểm toán IT được thực hiện dựa trên sự mở rộng môi trường hệ thống IT (Moeller, 2008). Theo đó, kiểm toán viên cần phân biệt những cách tiếp cận thực hiện: (1) Hoàn toàn dựa vào những quy trình tổ chức; (2) Kết hợp quy trình tổ chức và quy trình IT; (3) Hoàn toàn dựa vào những quy trình IT vận hành trong phạm vi hệ thống. 3.2.5. Kiểm toán gian lận Những cuộc kiểm toán gian lận có thể tập trung vào ngăn chặn gian lận hoặc điều tra những tình huống có khả năng gian lận gồm ngăn chặn gian lận và điều tra gian lận. Trong bối cảnh của cuộc kiểm toán gian lận, vấn đề kiểm toán trở nên có vai trò quan trọng với đơn vị. Thông qua đó, nhà quản lý có thể xác định một hành vi gian lận có ảnh hưởng hay không tới kết quả tài chính và nếu ảnh hưởng thì đo lường trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới kết quả tài chính của công ty. Gian lận có thể được đo lường bằng những chỉ số tài chính và phải được trao đổi với những bộ phận liên quan một cách trực tiếp, kịp thời (vì những ảnh hưởng tiềm tàng tới lập báo cáo tài chính và những quy định của thị trường tài chính). Kiểm toán viên cũng không bỏ qua gian lận không tạo ra tác động tài chính hoặc được đánh giá không quan trọng. Thực tế, nếu bỏ qua gian lận như vậy có thể ảnh hưởng tới danh tiếng, gây hại môi trường hoạt động, tác động tiêu cực tới chính sách bổ nhiệm nhân viên, hạn chế việc phát hiện ra lỗi sản phẩm/ dịch vu, và những vấn đề khác liên quan tới niềm tin vào công ty. Hoạt động KTNB không chỉ dừng lại ở việc phản ứng với những trường hợp có gian lận, mà mục tiêu cuối cùng là bảo vệ công ty khỏi những “cuộc tấn công”. Do đó, KTNB phải nỗ lực ngăn chặn gian lận hoặc trang bị công cụ phát hiện sớm. Thực hiện ngăn chặn khả năng lạm dụng liên quan tới cả nhận diện những khả năng tiềm tàng dẫn tới gian lận nói chung và kiểm tra hiệu lực kiểm soát nội bộ đã được triển khai nói riêng. Quy trình KTNB phải được thiết lập tương ứng. Việc trao đổi giữa nội kiểm với ngoại kiểm phải được ưu tiên và duy trì. Tương tự, công ty nên thiết lập một hệ thống báo cáo theo những yêu cầu đặc biệt bằng văn bản (có thể sử dụng minh chứng trước tòa). Cuối cùng, bằng chứng kiểm toán cần được kiểm toán viên thu thập, đặc biệt là những bằng chứng theo yêu cầu bên ngoài. Do đó, để điều tra gian lận, mỗi cuộc kiểm toán liên quan tới thực hiện những thủ tục đơn lẻ theo các bước kiểm toán, nội dung kiểm toán, theo vấn đề liên quan tới bên thứ 3, theo báo cáo và theo sự cần thiết của những hoạt động kiểm tra sau cùng. Mối quan hệ với những bên khác trong nội bộ và bên ngoài có vai trò quan trọng với việc kiểm toán gian lận của KTNB. Trước hết là bộ phận pháp lý/pháp chế, bảo vệ và quản lý nhân sự. Ủy ban kiểm toán (nếu có) và nhân viên thanh tra/giám sát sự tuân thủ (nếu có) cần tham gia vào quy trình. Ngoài ra, KTNB nên hợp tác với ngoại kiểm theo những vấn đề liên quan. Để thu thập được kết quả kiểm toán gian lận tốt nhất, kiểm toán cần thực hiện những thủ tục kiểm toán trên phạm vi đủ rộng cần thiết, từ cách tiếp cận quy trình dựa trên hiểu biết tích lũy, bao gồm quy mô và chương trình làm việc tới kiểm toán, đặc biệt kiểm toán theo vấn đề được nhà quản lý đề xuất. 3.2.6. Kiểm toán kinh doanh Quá trình phát triển của KTNB cho thấy chức năng KTNB thường tập trung vào kiểm toán những quy trình nội bộ và những đơn vị trong tổ chức. Từ đó, KTNB xem xét những bộ phận và nhân viên đã thực hiện hoạt động tương tác một cách hiệu lực như thế nào với khách hàng và với nhân viên hoặc bộ phận khác. Thực tế, xu hướng này vẫn được duy trì trong các cuộc kiểm toán thì tiếp cận kiểm toán cần thay đổi. Việc gia tăng mối quan hệ liên kết, hợp tác trên cơ sở những chuỗi cung ứng và dịch vụ giữa công ty với những đơn vị khác, những ngành kinh doanh, giữa các quốc gia đã góp phần mở rộng phạm vi các yếu tố xác định thành công của một tổ chức. Bên cạnh đó, mạng lưới nhà QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 197- Tháng 10. 2018 cung cấp, khách hàng, đối tác và lợi ích tài chính cũng như là những mối quan hệ với đơn vị công ích, tổ chức và cơ quan của chính phủ có ảnh hưởng đáng kể tới những quy trình nội bộ của một công ty. Vì thế, đây vẫn là điểm KTNB tập trung kiểm toán. Theo đó, những lĩnh vực kiểm toán chủ yếu của KTNB được xác định dựa trên cả vấn đề liên quan trong nội bộ và bên ngoài. Tầm quan trọng của những vấn đề liên quan với bên ngoài sẽ tăng lên khi sự liên kết của công ty với những đối tác bên ngoài tăng lên. Hội đồng quản trị và ban giám đốc có thể yêu cầu KTNB kiểm tra những mối quan hệ hoặc dự án vì nhiều lý do khác nhau, ví dụ, lợi ích, giảm rủi ro của việc thúc đẩy cam kết thực hiện, yêu cầu pháp lý, dự án... KTNB có thể thực hiện một cuộc kiểm toán đặc biệt với những đối tượng kinh doanh trong liên hệ với kiểm toán kinh doanh (business audit) hoặc soát xét hoạt động kinh doanh (business review). Khi thực hiện kiểm toán kinh doanh, KTNB kiểm tra tập trung vào toàn bộ môi trường kiểm toán trong quan hệ với những yếu tố khác của kiểm toán liên quan. Kiểm toán viên thực hiện tất cả những bước công việc kiểm toán riêng, bao gồm tìm kiếm minh chứng tài liệu cần thiết. Trong khi đó, soát xét hoạt động kinh doanh tập trung vào những khía cạnh cụ thể của mối quan hệ ghi nhận và phân tích; kiểm toán viên đưa ra kết luận dựa trên cơ sở thông tin có sẵn. Kiểm toán kinh doanh được xem là một cuộc kiểm toán mang tính chất ngăn chặn được thực hiện cùng với chiến lược giảm rủi ro của việc thúc đẩy thực thi cam kết. Mục đích chính là đảm bảo những quy trình, phương pháp và hướng dẫn tuân thủ và hoạt động như dự tính. Đồng thời, những rủi ro liên quan tới dự án hoặc đối tác được kiểm tra và nếu cần thiết sẽ đưa ra những biện pháp làm giảm rủi ro của việc thúc đẩy cam kết thực hiện. Kiểm toán kinh doanh sẽ tập trung vào những vấn đề pháp lý, hợp đồng hoặc tổ chức. Khi kiểm tra những mối quan hệ, dự án với đối tác bên ngoài, kiểm toán viên nên thực hiện hoạt động kiểm toán ngoài những cam kết kinh doanh của công ty. Cụ thể, kiểm toán viên cần làm rõ việc mở rộng cái gì trước khi điều này có thể dẫn tới khía cạnh pháp lý. Thông thường, mệnh đề “phải kiểm toán” bao gồm xem xét cả mối quan hệ giữa đơn vị và đối tác. Mối quan hệ với đối tác bên ngoài sẽ hiệu quả nếu đối tác có thể hợp tác và phối hợp với kiểm toán mà không phát sinh xung đột. 4. Kết luận về việc vận dụng phương pháp tiếp cận theo lĩnh vực kiểm toán Từ phân tích về cách kết hợp những cách tiếp cận kiểm toán khác nhau với đặc thù của những lĩnh vực kiểm toán khác nhau, bao gồm cả việc triển khai những mục tiêu, hướng kiểm tra và phương pháp kiểm toán tương ứng, hướng vận dụng cách tiếp cận thích hợp cho mỗi lĩnh vực kiểm toán như sau: Với kiểm toán quản lý: Khi kiểm tra cấu trúc tổ chức, các cuộc kiểm toán quản lý có thể sử dụng cách tiếp cận kiểm toán dựa trên hệ thống. Tuy nhiên, kiểm toán viên có thể sử dụng cách tiếp cận kiểm toán dựa trên nghiệp vụ để thực hiện các mục tiêu kiểm toán. Trong lĩnh vực kiểm toán này, sự tập trung kiểm toán dựa vào các kết quả thường đem lại hiệu lực với việc đánh giá sự tuân thủ “thuần túy”. Với kiểm toán hoạt động và kiểm toán tài chính: Vì cả kiểm toán hoạt động và kiểm toán tài chính cùng có trọng tâm là những quy trình và những nghiệp vụ kinh doanh nên tiếp cận kiểm toán dựa trên hệ thống thường được kiểm toán viên lựa chọn. Trong cả 2 lĩnh vực kiểm toán, cách tiếp cận kiểm toán dựa trên các nghiệp vụ sẽ chỉ được sử dụng với những trường hợp đơn lẻ để khẳng định các kết quả. Sự phù hợp của việc vận dụng cách tiếp cận dựa trên sự tuân thủ hoặc dựa trên các kết quả phụ thuộc vào mục tiêu kiểm toán cho dù tiếp cận kiểm toán dựa trên các kết quả sẽ được sử dụng phổ biến hơn. Kiểm toán IT và kiểm toán gian lận: Chúng ta có thể tạo ra những mối liên hệ giữa mục tiêu của kiểm toán với cách tiếp cận kiểm toán áp dụng. Với nhiều mục đích, nhiệm vụ kiểm toán viên có thể tạo ra mối liên hệ nêu trên một cách tương đối rõ ràng. Với kiểm toán IT, tiếp cận kiểm toán dựa trên hệ thống với những yếu tố QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 49Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 197- Tháng 10. 2018 của cách tiếp cận dựa trên các kết quả sẽ là lựa chọn tốt nhất. Tuy nhiên, một cuộc kiểm toán gian lận sẽ luôn sử dụng cách kết hợp giữa tiếp cận dựa trên nghiệp vụ với tiếp cận dựa trên sự tuân thủ trừ phi điều tra hiệu lực chung của một hệ thống ngăn ngừa áp dụng trong công ty. Kiểm toán kinh doanh: Những dự án khách hàng sẽ có xu hướng được xác định bởi cách tiếp cận dựa trên nghiệp vụ. Tuy nhiên với mục đích cải thiện quy trình thì cách tiếp cận dựa trên hệ thống lại đem lại nhiều lợi thế hơn. Trong hầu hết các trường hợp, cách tiếp cận kiểm toán dựa trên các kết quả sẽ phổ biến hơn so với tiếp cận dựa trên sự tuân thủ vì tác động lượng hóa của những phát hiện kiểm toán thường quan trọng trong hoạt động tư vấn nội bộ. Với nhiệm vụ của cách tiếp cận kiểm toán có thể đối với những khu vực mục đích, cách tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro đóng vai trò như một khung. Dựa trên cơ sở xem xét rủi ro, những quyết định được đưa ra về nội dung tương ứng với mục tiêu kiểm toán có thể thuộc về một mục đích chính hoặc tới những hoạt động chung của một lĩnh vực kiểm toán. Một khi mục tiêu kiểm toán đã được xác định và chiến lược kiểm toán cơ bản lựa chọn thì cách tiếp cận kiểm toán có thể được lựa chọn. Tổng hợp việc sử dụng cách tiếp cận kiểm toán theo các lĩnh vực kiểm toán được trình bày trong Bảng 1. Trong bối cảnh hoạt động KTNB ở nước ta còn hạn chế, việc xác định những phương pháp luận nhằm định hướng và hoàn thiện cơ sở cho thực hành kiểm toán là vô cùng cần thiết. Do đó, việc xác định những lĩnh vực kiểm toán theo mục đích quản trị của mỗi công ty tác động vào việc sử dụng những công cụ quản lý cụ thể trong đó có KTNB. Trong trường hợp như vậy, những gợi ý nêu trên có thể trở nên hữu ích nếu được đặt trong bối cảnh phát triển hoạt động KTNB mở rộng sang những lĩnh vực “mới” và tiến tới hoạt động mang tính chuyên nghiệp. ■ Bảng 1. Mối liên hệ giữa lĩnh vực kiểm toán và cách tiếp cận kiểm toán Tiếp cận Lĩnh vực Quản lý Hoạt động Tài chính IT Gian lận Kinh doanh Dựa vào rủi ro X X X X X X D ự a và o rủ i ro k ết h ợ p vớ i Dựa vào hệ thống X X X X x X Dựa vào nghiệp vụ X x x x X X Dựa vào sự tuân thủ X X X x X x Dựa vào các kết quả X X X X X X Giải thích: X- quan trọng; x- ít quan trọng Nguồn: Đề xuất của tác giả Tài liệu tham khảo 1. Institute of Internal Auditors (2009), International Professional Practices Framework, No. 2100. Altamonte Springs, FL: The Institute of Internal Auditors Research Foundation. 2. K.H. Spencer Pickett (2005), Auditing the risk management process, John Wiley & Sons, Inc. 3. K.H. Spencer Pickett, Jennifer M. Pickett (2005), Auditing for Managers: The Ultimate Risk Management Tool, John Wiley & Sons, Inc. 4. Keith, J. (2005), Killing the Spider. Internal Auditor (April 2005): 25–27. 5. Phan Trung Kiên (2008), “Perfecting the Internal Audit Organization in Vietnamese Construction Companies”, Ph.D. Thesis, National Economics University, 2008. 6. Phan Trung Kien, Nguyễn Thị Thanh Diệp, Nguyễn Thị Lan Anh, Tạ Thu Trang (2012), “Appraising Performance of the IA Function in Vietnamese Commercial Banks”, Research Project, National Economics University, 2012. 7. Robert R. Moeller (2008), Sarbanes Oxley – Internal controls: Effective Auditing with AS5, CoBiT, and ITIL, John Wiley&Son, Inc. 8. Sawyer, L., M. Dittenhofer and J. Scheiner (2003), Sawyer’s Internal Audit- ing. 5th ed. Altamonte Springs, Fl: he Institute of QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 50 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 197- Tháng 10. 2018 Internal Auditors. 9. Sears, B (2002), Internal Auditing Manual. New York, NY: Warren, Gorham & Lamont. 10. Selim, G. and McNamee, D. (1999) “The Risk Management and Internal Auditing Relationship: Developing and Validating a Model”, International Journal of Auditing, Vol. 3, pp. 159-174. 11. Nguyễn Thị Hồng Thúy (2010), “Organizing the Internal Audit in Vietnamese Economics Group”, Ph.D. Thesis, National Economics University, 2010. 12. Yass Alkafaji, Shakir Hussain, Ashraf Khallaf, Munir A. Majdalawieh (2010), Characteristics of an Internal Audit Activity Report I, The IIA’s Global Internal Audit Survey: A Component of the CBOK Study, IIA’s Research Foundation. Thông tin tác giả Phan Trung Kiên, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Viện Kế toán- Kiểm toán, Đại học Kinh tế Quốc dân Email: phankien76@gmail.com Summary The application of auditing approaches for audit fields in an internal audit The development of the internal audit function in enterprises exhibits itself in a changing business environment. Its goals added impact on the extension of the function’s activities that pertain to management’s strategy. It is necessary for this function that internal audit should change to get appropriate auditing approach in accordance with non-traditional audit fields. Actually, internal auditors have been choices of different auditing perspectives related to traditional audit fields within an internal audit. This study analyzes internal audit function’s targets and auditing contents, or audit fields concerned in which a given auditing approach or a combination between risk- based approach and one of remaining approaches recommended is suitable for a particular audit field in an audit. Keywords: internal audit, auditing approach, audit field. Kien Trung Phan, Assoc.Prof. PhD. School of Acounting- Auditing, Nation Economic University
File đính kèm:
- van_dung_tiep_can_kiem_toan_cho_moi_linh_vuc_kiem_toan_trong.pdf