Về đổi mới quản lí nhà nước đối với giáo dục đại học

TÓM TẮT

Bài viết đi sâu phân tích, lí giải nêu lên vấn đề: đổi mới quản lí nhà nước đối với

giáo dục đại học phải đổi mới từ tư duy, dổi mới phương thức quản lí, đổi mới cách trao

quyền phân cấp và trong đổi mới phải đảm bảo dân chủ.

pdf 8 trang yennguyen 2560
Bạn đang xem tài liệu "Về đổi mới quản lí nhà nước đối với giáo dục đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về đổi mới quản lí nhà nước đối với giáo dục đại học

Về đổi mới quản lí nhà nước đối với giáo dục đại học
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 19 - Thaùng 2/2014 
12 
VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC 
ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 
ĐẶNG ỨNG VẬN (*) 
TÓM TẮT 
 Bài viết đi sâu phân tích, lí giải nêu lên vấn đề: đổi mới quản lí nhà nước đối với 
giáo dục đại học phải đổi mới từ tư duy, dổi mới phương thức quản lí, đổi mới cách trao 
quyền phân cấp và trong đổi mới phải đảm bảo dân chủ. 
 Từ khoá: đổi mới quản lí nhà nước, giáo dục đại học, tư duy, phương thức quản lí, 
phân cấp, dân chủ. 
ABSTRACT 
 The article thoroughly analyses, reasons and raises the issues: the innovation of the 
state management of higher education must innovate the thinking, the modes of 
management, the methods of decentralization and there must be guaranteed democracy in 
the innovation. 
 Keywords: innovation of state management, higher education, thinking, modes of 
management, decentralization, democracy. 
1. MỞ ĐẦU 
Nghị quyết kì họp thứ 8 Ban Chấp hành 
Trung ương khoá XI (viết tắt là NQ8) mang 
một luồng gió mới và tạo cơ hội mới cho sự 
phát triển giáo dục đại học Việt Nam khởi 
đầu bằng những đổi mới về tư duy quản lí. 
Những điểm mới về tư duy quản lí này tuy 
không nhiều nhưng có tính đột phá. Ví dụ: 
đặt hàng cho giáo dục, phát huy sức mạnh 
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết 
dứt điểm các hiện tượng tiêu cực kéo dài, 
gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào 
tạo; tạo sự đồng thuận và huy động sự tham 
gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn 
xã hội đối với công cuộc đổi mới, phát triển 
giáo dục. Thực hiện cơ chế người học tham 
gia đánh giá hoạt động giáo dục, đào tạo; nhà 
giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lí; cơ sở 
giáo dục đào tạo tham gia đánh giá cơ quan 
quản lí nhà nước. 
Bên cạnh những điểm mới đó, NQ8 
cũng đã một lần nữa khẳng định lại những 
vấn đề cốt lõi của quản lí nhà nước đối với 
giáo dục đại học. Đó là: 
1. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ 
quan quản lí nhà nước về giáo dục, đào tạo 
và trách nhiệm quản lí theo ngành, lãnh thổ 
của các bộ, ngành, địa phương. 
2. Phân định công tác quản lí nhà nước với 
quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo. Đẩy 
mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động 
lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở 
giáo dục, đào tạo. giao quyền tự chủ, tự chịu 
trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; 
phát huy vai trò của hội đồng trường. 
3. Chuẩn hoá các điều kiện bảo đảm 
chất lượng và quản lí quá trình đào tạo; chú 
trọng quản lí chất lượng đầu ra. Xây dựng 
hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng 
giáo dục, đào tạo. 
Những luận điểm nêu trên thực sự đã 
tạo cơ hội cho việc đổi mới về cơ bản quản 
lí nhà nước đối với giáo dục đại học Việt 
Nam. Tuy vậy, bên cạnh đó vẫn còn những 
thách thức đã và sẽ nảy sinh mà công tác 
quản lí giáo dục đại học phải đối mặt; đòi 
hỏi phải có những giải pháp hiệu quả cả về 
tư duy và phương thức trong quá trình thực 
hiện nhằm đưa nghị quyết của Đảng vào 
cuộc sống. 
(*)
 GS.TS, Hiệu trưởng Trường Đại học Hòa Bình, Hà Nội. 
13 
Trong khuôn khổ báo cáo này chúng 
tôi không có tham vọng trình bày hết các 
thách thức và giải pháp cần thiết mà chỉ tập 
trung vào 3 nội dung chủ yếu là: i) tiếp tục 
đổi mới tư duy và phương thức quản lí nhà 
nước ii) bảo đảm dân chủ trong nhà trường 
và iii) trao quyền và phân cấp. 
2. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ 
PHƯƠNG THỨC QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC 
2.1. Đổi mới tư duy 
Đổi mới tư duy là việc đầu tiên và 
quan trọng nhất phải làm. Kết luận Hội 
nghị trung ương 6 khoá XI đã khẳng định 
Tư duy về giáo dục chậm đổi mới, không 
theo kịp sự phát triển của đất nước trong 
bối cảnh kinh tế thị trường định hướng 
XHCN và hội nhập quốc tế. Thực tiễn cho 
thấy, khó nhất đối với việc đổi mới quản lí 
không phải là các vấn đề kĩ thuật mà là tư 
duy. Chừng nào chưa thay đổi được tư duy 
mà chỉ chú trọng vào kĩ thuật quản lí thì 
việc quản lí chắc chắn không tiến bộ được 
là bao. Chương trình của Bộ GD-ĐT thực 
hiện Chỉ thị 296/CT-TTg của Thủ tướng 
Chính phủ về đổi mới quản lí giáo dục đại 
học giai đoạn 2010-2012 huy động toàn hệ 
thống đại học cao đẳng tham gia cũng chỉ 
thu được kết quả hạn chế. 
Vì vậy, muốn đổi mới quản lí nhà 
nước tốt thì phải bắt đầu bằng đổi mới tư 
duy tốt, tư duy về giáo dục nói chung và tư 
duy quản lí giáo dục nói riêng. Mặt khác, 
chỉ đổi mới tư duy quản lí cũng không đủ. 
Không đổi mới tư duy về giáo dục nhà 
quản lí cũng khó có thể thực hiện được các 
chức năng quản lí trong tiến trình đổi mới 
quản lí. 
Đổi mới tư duy trước hết là phải nhận 
dạng cho được những bất cập trong quan 
điểm, nhận thức về các vấn đề chủ yếu của 
giáo dục và xây dựng triết lí giáo dục mới. 
NQ8 đã chỉ rõ: “Mục tiêu giáo dục toàn 
diện chưa được hiểu và thực hiện đúng. 
Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng 
cấp... chậm được khắc phục, có mặt 
nghiêm trọng hơn. Tư duy bao cấp còn 
nặng, làm hạn chế khả năng huy động các 
nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, đào 
tạo. Việc phân định giữa quản lý nhà nước 
với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo 
dục, đào tạo chưa rõ”. Đối với giáo dục đại 
học chúng ta có thể cụ thể hoá thành một 
số bất cập sau đây: 
Nhận thức sai lệch về các giá trị, tư 
tưởng bằng cấp, tâm lí khoa cử, bệnh thành 
tích dẫn đến việc gia đình và xã hội xem 
việc học đại học là con đường tiến thân duy 
nhất cho thế hệ trẻ. Trẻ em phải luyện thi 
từ lớp một vào các trường điểm, lớp chọn, 
trường chuyên với hy vọng lọt qua cửa 
tuyển sinh đại học mà lãng quên việc phát 
triển nhân cách và năng lực của mỗi cá thể. 
Quan điểm về chất lượng không thích 
hợp, thiếu toàn diện dẫn đến chủ quan 
nóng vội. Ở quy mô hệ thống bài toán chất 
lượng phải được giải trên cơ sở cân bằng 
giữa yêu cầu phát triển quốc gia - năng lực 
đầu tư cho giáo dục – năng lực đào tạo của 
hệ thống – năng lực sử dụng sản phẩm giáo 
dục của xã hội. Cân bằng này đảm bảo cho 
hiệu quả đầu tư giáo dục quốc dân là cao 
nhất. Đòi hỏi quá sức làm cho hệ thống trở 
nên bất ổn và mất phương hướng phát 
triển, thậm chí còn phát sinh bệnh thành 
tích, tiêu cực học đường. 
Nhận thức sai lệch về mục tiêu giáo 
dục dẫn đến lệch lạc về chức năng của cơ 
sở giáo dục. Mục tiêu của giáo dục đại học 
lâu nay vẫn được hiểu là nhằm cung cấp 
cho người học một kĩ năng và kiến thức tối 
thiểu để có được việc làm. Thậm chí chiến 
lược giáo dục 2010-2020 còn xếp chung 
giáo dục đại học với giáo dục nghề nghiệp. 
Từ đó dẫn đến việc chúng ta chưa xây 
dựng được một hệ thống đại học lành mạnh 
trên nên tảng của nghiên cứu khoa học 
công nghệ và phát triển xã hội. Cho đến 
nay đại học Việt Nam vẫn là một nền đại 
học “teaching” hướng tới mục tiêu đào tạo 
nhân lực mà chưa phải là một nền đại học 
“research” hướng tới sáng tạo tri thức khoa 
học công nghệ và phát triển xã hội nên 
14 
không hoặc đầu tư rất ít cho nghiên cứu. 
Điều này ảnh hưởng đến chất lượng đội 
ngũ giảng viên. Giảng viên đại học không 
chỉ là người thầy mà còn phải là một nhà 
khoa học biết cách tổ chức thực hiện và 
trực tiếp thực hiện công việc nghiên cứu 
khoa học. 
Tư duy hội nhập và học hỏi tinh hoa 
của chúng ta hiện nay còn nhiều khiếm 
khuyết. Học hỏi kinh nghiệm các nước mà 
không qua sàng lọc, không qua phân tích 
đầy đủ các khía cạnh liên quan đến việc 
triển khai trong điều kiện nước ta, không 
có quyết tâm chính trị, không có năng lực 
tổ chức thực hiện thì dễ dẫn đến thất bại. 
Đại học đại cương và đào tạo hai giai đoạn 
là một ví dụ. Chương trình liên thông cũng 
vậy. Hội nhập phải có điều kiện, mục tiêu 
thích hợp và duy trì bản sắc dân tộc. Thực 
tiễn chứng minh rằng có một số thách thức 
về thể chế và hệ thống trong xã hội chuyển 
đổi và/hoặc đang phát triển vượt qua bất cứ 
điều gì các nước tiên tiến đã từng phải đối 
mặt. 
Tư duy về giáo dục và thị trường cần 
phải thay đổi. Lâu nay chúng ta thường né 
tránh bàn về thị trường và giáo dục với lí 
do không chấp nhận sự trao đổi ngang giá 
trong giáo dục. Giáo dục về cơ bản vẫn 
phải là phúc lợi xã hội và do nhà nước đảm 
nhận. Tuy vậy, như là một thực tế khách 
quan, thị trường nhân lực đã và đang điều 
khiển chương trình đào tạo của tất cả các 
cấp bậc học, đặc biệt là đào tạo nghề 
nghiệp và giáo dục đại học. Thị trường 
thúc đẩy xu hướng kinh doanh ở các cơ sở 
giáo dục, thậm chí tới từng giáo viên các 
cấp. Ở cấp học càng cao xu thế này càng 
lớn. Thị trường thúc đẩy việc tư nhân hoá 
giáo dục đại học từ việc chia sẻ chi phí 
giáo dục đào tạo thông qua học phí, lệ phí 
đến việc mở các cơ sở giáo dục kiếm lời 
đồng thời do người học tự trang trải học 
phí nên giáo dục đại học trở thành hàng 
hoá tư khác với việc đơn thuần là phúc lợi 
công cộng trong quá khứ. 
Như là hệ quả tất yếu, đổi mới tư duy 
giáo dục dẫn tới đổi mới tư duy quản lí. 
Khi đã thay đổi tư duy về giáo dục 
trong nền kinh tế thị trường thì cũng tất yếu 
phải chuyển từ tư duy quản lí nhà trường 
như là một đơn vị hành chính sự nghiệp 
theo cơ chế bao cấp đối với một trường đại 
học sang tư duy quản lí doanh nghiệp 
(không phải là doanh nghiệp hoá nhà 
trường) trong cơ chế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa. 
Khi đã thay đổi tư duy về chức năng 
của trường đại học thì việc tăng quyền tự 
chủ đặc biệt là tự chủ về học thuật và đào 
tạo cho nhà trường như là một điều tất yếu. 
Những quy định hành chính cứng nhắc 
khuôn mẫu trở nên không thích hợp với 
một tổ chức cần có sự năng động sáng tạo 
để tồn tại và phát triển. Vậy là phải trao 
quyền quyết định cho Nhà trường và Nhà 
trường là người chịu trách nhiệm cuối cùng 
về các quyết định và hành động của mình 
cũng như các hệ quả từ các quyết định và 
hành động đó đối với quyền tự chủ được 
giao. 
Đổi mới tư duy về chất lượng dẫn đến 
việc đổi mới tư duy về quản lí chất lượng 
về phân tầng hệ thống và về kiểm định chất 
lượng. 
Đổi mới tư duy về hôi nhập và học hỏi 
kinh nghệm quốc tế giúp chúng ta đổi mới 
tư duy quản lí sự thay đổi/đổi mới khi tiếp 
thu tinh hoa nhân loại trong quá trình phát 
triển giáo dục. 
2.2. Đổi mới phương thức quản lí 
nhà nước đối với giáo dục đại học 
Phương thức quản lí là cách thức thực 
hiện việc quản lí. “ Phương thức” có ý 
nghĩa như là từ “phương thức” trong 
“phương thức sản xuất”. Đổi mới phương 
thức quản lí giáo dục được thực hiện trên 
cơ sở đổi mới tư duy quản lí giáo dục. Tư 
duy thay đổi lại đòi hỏi phải thay đổi 
phương thức quản lí giáo dục. Đặc biệt là 
khi sự phát triển đã tác động đến tư duy và 
làm thay đổi nó thì thể chế cũ sẽ nhanh 
15 
chóng trở nên lạc hậu không đáp ứng nhu 
cầu phát triển. Nhưng vấn đề là làm thế nào 
để thiết lập cho được những thể chế cần 
thiết? 
NQ8 đã khẳng định: “- Việc thể chế 
hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng 
và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào 
tạo, nhất là quan điểm "giáo dục là quốc 
sách hàng đầu" còn chậm và lúng túng. 
Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến 
lược, kế hoạch và chương trình phát triển 
giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu 
của xã hội. Dễ thấy rằng đây là các yếu 
kém của quản lí nhà nước. 
Nếu không đi vào chi tiết thì nội dung 
quản lí nhà nước về giáo dục được quy 
định trong Điều 99 của Luật Giáo dục bao 
gồm1: 
1. Xây dựng thể chế (mục 1, 2, 3, 11) 
2. Tổ chức thực hiện (mục 2) chỉ đạo 
(mục 1, 7), quản lí (lại quản lí) (mục 4, 8, 
9, 10), thực hiện (mục 5), tổ chức bộ máy 
(mục 6), huy động (mục 8) và thanh tra, 
kiểm tra (mục 12). 
Tư duy không nhất quán dẫn đến việc 
một văn bản Luật cấp Nhà nước trình bày 
nội dung quản lí một cách không khoa học, 
không rõ ràng và trùng lặp (huống chi khi 
thực hiện; việc quản lí thiếu nhất quán, 
phân tán, như là điều tất yếu). Rất đáng tiếc 
là 4 năm sau (2009) Luật sửa đổi bổ sung 
Luật giáo dục 2005 đã để nguyên không 
sửa điều này. Vậy là những nhược điểm cơ 
bản trong quản lí giáo dục vẫn tồn tại cho 
đến hôm nay. NQ8 cũng yêu cầu phải “Xác 
định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản 
lí nhà nước về giáo dục, đào tạo và trách 
nhiệm quản lí theo ngành, lãnh thổ của các 
bộ, ngành, địa phương. Phân định công tác 
quản lí nhà nước với quản trị của cơ sở 
giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, 
nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính 
chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, 
đào tạo. 
Vì vậy, nên đổi mới căn bản và toàn 
diện quản lí giáo dục ngay từ văn bản Luật 
Giáo dục với 3 nội dung sau đây: 
Thứ nhất là, phân biệt rõ quản lí nhà 
nước (hay nhà nước quản lí) với quản lí cơ 
sở. Trên cơ sở đó nhà nước chỉ nên tập 
trung vào 3 nhiệm vụ: 
1. Xây dựng thể chế (bao gồm cả việc 
xây dựng chiến lược, kế hoạch và chương 
trình phát triển giáo dục - đào tạo); 
2. Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc 
thực hiện thể chế 
3. Tổ chức bộ máy quản lí nhà nước 
bao gồm cả việc phân cấp, phân quyền 
trong phạm vi bộ máy quản lí nhà nước các 
cấp. 
Thứ hai là, quy định phạm vi định chế 
của nhà nước. Phát huy đầy đủ quyền tự 
chủ, sức sáng tạo và năng động của cấp 
quản lí cơ sở. Có thể trao quyền định chế 
cho các cơ sở giáo dục đại học trong một 
số nội dung quản lí cụ thể, ví dụ chương 
trình, giáo trình, kế hoạch học tập, tài chính 
Thứ ba là, cụ thể hoá quyền tự chủ và 
nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm 
cuối cùng về những quyết định và hành 
động của trường đại học và về những hậu 
quả của các quyết định và hành động này 
(đặc biệt là về đảm bảo chất lượng và tài 
chính). Chuyển mô hình quản lí hành 
chính, quan liêu bao cấp của các cơ sở giáo 
dục đại học công hiện nay sang mô hình 
quản lí mới dựa trên phương thức quản lí 
doanh nghiệp để tăng tính năng động và 
hiệu quả của hệ thống, chống tham nhũng 
tiêu cực trong nhà trường, quy định việc 
trường đại học công phải bảo toàn và phát 
triển vốn nhà nước v.v 
Con đường phát triển của giáo dục đại 
học Việt Nam đang đòi hỏi mạnh mẽ sự 
đồng hành của cải cách thể chế. Đây là 
trách nhiệm của quản lí Nhà nước.và cũng 
là công việc đầy khó khăn thách thức. Hội 
đồng trường là một ví dụ minh họa. Việc 
tái cơ cấu các trường công đã được bắt đầu 
16 
bằng việc bổ sung Hội đồng trường vào cơ 
cấu tổ chức trường từ năm 2003. Đây là 
một bước tiến đáng ghi nhận (LQ Thiệp, 
xem NTM Lộc và NH Châu, 2012). Tuy 
nhiên quá trình đưa Hội đồng trường vào 
GDĐH nước cho ta đến nay diễn ra không 
suôn sẻ. Có nhiều nguyên nhân (NTM Lôc, 
NH Châu, 2012) trong đó có việc nhà 
trường không được tăng thêm quyền tự chủ 
đi kèm với Hội đồng trường dẫn đến việc 
chia sẻ quyền lực vốn có giữa Hiệu trưởng 
và Hội đồng trường. 
Công việc quan trọng và cấp bách của 
đổi mới quản lí nhà nước đối với giáo dục 
đại học lúc này chính là tập trung bổ sung, 
hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống các 
văn bản quy phạm luật pháp và chính sách 
về giáo dục đại học. Thể hiện cho được tư 
duy đổi mới của NQ8 trong hệ thống các 
văn bản này. Đặc biệt chú trọng đến các 
nội dung cụ thể sau đây: 
Một là, thể hiện rõ bốn chức năng cơ 
bản của trường đại học: giáo dục nghề 
nghiệp, phát triển và hoàn thiện nhân cách, 
nghiên cứu khoa học công nghệ, dịch vụ xã 
hội và phát triển và truyền bá tri thức văn 
hoá nhân loại . 
Hai là, thể chế hoá quyền được học 
tập và học tâp suốt đời của công dân; bảo 
đảm tính dân chủ, công bằng, bình đẳng về 
cơ hội giáo dục đại học cho mọi người 
Ba là, đổi mới thể chế tài chính trong 
giáo dục. Thể chế hoá việc chuyển cơ chế 
cấp phát kinh phí bình quân sang đặt hàng 
trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế - kĩ 
thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn của từng loại 
hình dịch vụ giáo dục như NQ8 đã chỉ rõ; 
đảm bảo suất đầu tư trên mỗi người học 
tương ứng với chất lượng, phù hợp ngành 
nghề và trình độ đào tạo. Nhà nước hỗ trợ 
hoặc bao cấp cho những ngành nghề đặc 
biệt quan trọng; đối tượng chính sách và 
vùng khó khăn. Chuyển đầu tư nhà nước 
qua cơ sở giáo dục và đào tạo sang trực 
tiếp người được thụ hưởng. Thể chế hoá 
trách nhiệm của các doanh nghiệp, cá nhân 
sử dụng lao động tham gia đầu tư cho giáo 
dục. 
Bốn là, thể chế hoá quyền tự chủ, 
nghĩa vụ báo cáo, giải trình và chịu trách 
nhiệm của các cơ sở giáo dục về các quyết 
định và hành động của họ khi thực hiện 
quyền tự chủ, thể chế hoá phương thức 
quản lí kiểu doanh nghiệp công khai, minh 
bạch và được kiểm định về chất lượng và 
kiểm toán. 
Năm là, thể chế hoá trách nhiệm công 
khai, tạo sự đồng thuận trong xã hội của 
các cấp quản lí trước khi triển khai các cơ 
chế, chính sách mới. Thể chế hoá trách 
nhiệm giáo dục của gia đình và xã hội 
Cùng với nhà nước, các tổ chức xã hội 
cũng cần phải phát triển, định hướng, điều 
chỉnh các thể chế bất thành văn theo hướng 
phù hợp với sự đổi mới về thể chế giáo 
dục, truyền bá ý thức sống và làm việc theo 
pháp luật. Làm sống lại tinh thần “nhân 
nghĩa trí tín” của những giảng viên và cán 
bộ quản lí đại học – những người mà thời 
trước được liệt vào hàng ngũ các sĩ phu – 
hết lòng vì sự nghiệp trồng người. 
3. TRAO QUYỀN VÀ PHÂN CẤP 
Như đã phân tích ở trên để việc cơ cấu 
lại các trường đại học đáp ứng thể chế giáo 
dục đại học mới thì nhà nước phải giao 
thêm quyền cho các trường đại học so với 
những gì họ có được hiện nay. Thách thức 
lớn nhất đối với cấp quản lí nhà nước chính 
là ở điểm này vì kèm theo quyền quyết 
định là quyền giám sát và khả năng giám 
sát. Khi khả năng giám sát hạn chế thì 
người ta, để đảm bảo an toàn, thường giữ 
lại quyền quyết định. Vậy khi đã trao 
quyền quyết định thì đòi hỏi năng lực giám 
sát phải tăng lên. Bởi vì dù có trao quyền 
thì cấp quản lí nhà nước vẫn chịu trách 
nhiệm liên đới về những việc mà trường 
làm sai. NQ8 cũng đã chỉ ra cần phải “tăng 
cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ 
quan quản lí các cấp”; Bên cạnh đó là việc 
“thực hiện giám sát của các chủ thể trong 
17 
nhà trường và xã hội; bảo đảm dân chủ, 
công khai, minh bạch”. 
Chúng tôi xin trình bày vấn đề phân 
cấp từ một cách tiếp cận khác. Từ các 
nghiên cứu và thảo luận về các biện pháp 
phân cấp trong năm nền kinh tế Đông Á 
(Trung Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, 
Singapore và Đài Loan) Leung (Leung, 
2004) cho rằng các động cơ, bản chất và 
ảnh hưởng của các biện pháp phân cấp 
quản lí rất khác nhau; không ai trong số họ 
thực sự hướng tới một sự chuyển giao đích 
thực quyền cho các nhà giáo dục ở tuyến 
đầu (tức là ở các cơ sở giáo dục), hoặc 
nâng cao chất lượng giáo dục. 
Sự phân cấp không thành công chứng 
minh rằng ý tưởng phân cấp không thích 
hợp với văn hoá Á Đông. Đặc biệt, hai đặc 
điểm của văn hoá Á Đông được xem là lạc 
lõng (at odd) đối với ý tưởng về phân cấp 
là: tính đồng đều (uniformity) và chủ nghĩa 
thực dụng (pragmaticism). 
Ý tưởng về tính đồng đều (thống nhất), 
dayitong hoặc một "đại nhất thống", là một 
đặc điểm đặc trưng của văn hoá Trung 
Quốc, nền văn hoá có ảnh hưởng lớn trong 
khu vực Đông Á. Trong nền văn hoá Đông 
Á có một sự chú trọng hơn vào xã hội chứ 
không phải là khía cạnh cá nhân của con 
người. So với các nền văn hoá phương 
Tây nhấn mạnh sự độc lập và chủ nghĩa cá 
nhân, văn hoá Đông Á nhấn mạnh hội 
nhập và hòa hợp. 
Trong nền văn hoá này, cá nhân dự 
kiến sẽ ghép mình phù hợp với cấu trúc xã 
hội hiện có hơn là cấu trúc được thay đổi 
để phù hợp với nhu cầu của cá nhân. Nó 
không phải là khó để thấy rằng những đặc 
điểm này là phù hợp hơn với một hệ thống 
tập trung, thống nhất chứ không phải là 
một hệ thống phân cấp và phân tán. 
Văn hoá Đông Á cũng đặc trưng bởi 
bản chất thực dụng khắc nghiệt của nó. Đối 
với phương Tây, trong khi phân cấp là với 
mục đích "thúc đẩy sự linh hoạt và đổi mới 
trong hệ thống” và tập trung là để "đảm 
bảo rằng hệ thống chịu trách nhiệm cho 
thấy rằng tất cả học sinh đạt được và làm 
chủ các nội dung cốt lõi ", những điều này 
dường như không là mối quan tâm của các 
nền kinh tế Đông Á. Đối với các nền kinh 
tế Đông Á, tập trung là để kiểm soát và 
phân cấp quản lí là để có hiệu quả mà 
không bị mất kiểm soát. Vì vậy, phân cấp 
là một chủ nghĩa thực dụng chứ không phải 
là một động thái ý thức hệ. Khi nó được 
thực hiện như là một động thái ý thức hệ 
(như trong trường hợp của Đài Loan), nó 
có thể dẫn đến sự hỗn loạn2. 
Trong nền văn hoá thống nhất và thực 
dụng này phân cấp đích thực không đạt 
được và do đó, người ta không hoàn toàn 
hy vọng rằng chất lượng giáo dục sẽ được 
tự động nâng cấp hoặc hệ thống giáo dục 
trở nên hiệu quả hơn đơn giản chỉ vì các 
biện pháp phân cấp. Đây thực sự là một 
thách thức tiềm ẩn đối với quá trình đổi 
mới. Nó cũng liên quan tới quyền tự chủ và 
trách nhiệm của các cơ sở giáo dục. 
 Theo Uông Chu Lưu3 sản phẩm cuối 
cùng của quá trình phân cấp quản lí nhà 
nước là một hệ thống quy định pháp luật về 
phân định thẩm quyền quản lí nhà nước và 
cơ chế thực hiện những thẩm quyền đó. 
Cần xác định cơ chế giám sát, kiểm tra việc 
thực hiện thẩm quyền và quy định các điều 
kiện về tài chính, tổ chức, nhân sự để bảo 
đảm thực hiện thẩm quyền được phân định, 
đặc biệt là những thẩm quyền mới được 
chuyển giao. 
Trong thời gian qua, Chính phủ đã 
phân cấp cho địa phương quản lí các 
trường đại học tư nhưng chưa quy định các 
điều kiện đảm bảo việc thực hiện có hiệu 
quả thẩm quyền được giao đặc biệt là về 
nhân sự và tổ chức nên đã nảy sinh một số 
vấn đề cần phải giải quyết về trình độ và 
năng lực quản lí của cán bộ các cấp được 
phân cấp. Ngoài ra, thủ tục hành chính và 
lề thói quan liêu vẫn rất nặng nề nên tuy là 
phân cấp để mọi việc có thể được giải 
18 
quyết nhanh hơn nhưng thực tế đã không 
diễn ra như mong muốn. 
4. ĐẢM BẢO DÂN CHỦ 
Việc trao quyền tự chủ cho nhà trường 
không chỉ đi kèm với nghĩa vụ giải trình và 
chịu trách nhiêm mà còn phải phát huy cao 
độ dân chủ trong nhà trường. Khì bàn về 
dân chủ trong quản lí giáo dục cũng nên 
nhắc lại tư tưởng Hồ Chí Minh về việc 
thực hiện dân chủ trong nhà trường4. 
Người yêu cầu phải xem “giáo dục là sự 
nghiệp của quần chúng” có mục tiêu cao 
nhất là "đào tạo các em nên những người 
công dân hữu ích cho nước Việt Nam ... 
làm phát triển hoàn toàn những năng lực 
sẵn có của các em" (Hồ Chí Minh 2002), 
để "biến một nước dốt nát, cực khổ thành 
một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui 
hạnh phúc" (Hồ Chí Minh 2002). Để làm 
được điều đó, Người yêu cầu “phải phát 
huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa” vì 
theo Người, chỉ có phát huy dân chủ đến 
cao độ thì mới động viên được tất cả sinh 
viên, học sinh đề ra sáng kiến. Theo đó, 
nhà trường “phải thật sự mở rộng dân chủ 
trong cơ quan” (Hồ Chí Minh 1954). 
Dễ dàng nhận thấy rằng tư tưởng 
HCM đã được quán triệt trong văn bản 
NQ8. “Xây dựng nền giáo dục mở  hiện 
đại hoá , dân chủ hoá ; “đổi mới căn bản 
công tác quản lí giáo dục, đào tạo, bảo đảm 
dân chủ, thống nhất”; “lãnh đạo nhà trường 
phát huy dân chủ”, 
Thách thức lớn nhất khi triển khai dân 
chủ trong giáo dục ở nhà trường chính là ở 
chỗ xem dân chủ là một phương thức quản 
lí hay là mục tiêu của tổ chức. Hồ Chí 
Minh đã khẳng định chỉ có phát huy dân 
chủ đến cao độ thì mới động viên được tất 
cả sinh viên, học sinh đề ra sáng kiến để 
trường học có thể thực sự trở thành một 
trường tốt ở nơi đó có thể phát huy tài năng 
tiềm ẩn của mỗi cá thể. Suy nghĩ như vậy 
thì dân chủ phải là mục tiêu và điều này 
chưa được nhấn mạnh trong NQ8. 
Một xu thế mới theo hướng bảo đảm 
dân chủ trong nhà trường và hoàn toàn phù 
hợp với tư tưởng HCM đó là xây dựng các 
tập thể sư phạm trở thành tổ chức biết học 
hỏi là một tổ chức học và khuyến khích 
học tập cho giảng viên và cán bộ quản lí. 
Nó thúc đẩy trao đổi thông tin giữa các 
giảng viên và lãnh đạo trường, giữa giảng 
viên và giảng viên, giữa giảng viên và sinh 
viên, giữa giảng viên và những người tuyển 
dụng, giữa nhà trường và xã hội. Do đó tạo 
ra một lực lượng cán bộ, giảng viên không 
chỉ kiến thức hàn lâm mà cả kiến thức thực 
tiễn ngày càng được nâng cao. Điều này 
tạo ra một tổ chức rất linh hoạt, ở nơi đó 
mọi người sẽ chấp nhận và thích nghi với 
những ý tưởng mới và những thay đổi 
thông qua một tầm nhìn chung của tổ chức 
đó trước những biến động của xã hội và 
đặc biệt là thị trường lao động. 
Chuyển từ việc đảm bảo dân chủ là 
phương thức nâng cao hiệu quả quản lí 
sang mục tiêu xây dựng nhà trường dân 
chủ sẽ tạo nên một chuyển biến mạnh mẽ 
và tích cực trong việc thực hiên quyền tự 
chủ và nghĩa vụ giải trình và chịu trách 
nhiệm của nhà trường. Thể chế hoá việc 
xây dựng nhà trường dân chủ cũng là việc 
mà quản lí nhà nước nên làm. 
5. KẾT LUẬN 
Để có thể đổi mới quản lí nhà nước đối 
với giáo dục đại học theo tinh thần của 
NQ8 thì trước hết cần tiếp tục đổi mới tư 
duy giáo dục và tư duy quản lí giáo dục đại 
học. Cần thay đổi nhận thức sai lệch về các 
giá trị, tư tưởng bằng cấp, tâm lí khoa cử, 
bệnh thành tích; các quan niệm thiếu toàn 
diện về chất lượng; về chức năng của các 
trường đại học; về hội nhập và học hỏi tinh 
hoa; về giáo dục và thị trường v.v Khi sự 
phát triển đã tác động đến tư duy và làm 
thay đổi nó thì phương thức cũ sẽ nhanh 
chóng trở nên lạc hậu không đáp ứng nhu 
cầu phát triển. Việc đổi mới phương thức 
quản lí nên bắt đầu từ việc: 
19 
1. Quy định ba chức năng cơ bản của 
quản lí nhà nước: i) xây dựng thể chế (bao 
gồm cả việc xây dựng chiến lược, kế hoạch 
và chương trình phát triển giáo dục - đào 
tạo; ii) hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc 
thực hiên thể chế; iii) tô chức bộ máy quản 
lí nhà nước bao gồm cả việc phân cấp, 
phân quyền trong phạm vi bộ máy quản lí 
nhà nước các cấp. 
2. Quy định phạm vi định chế của nhà 
nước; 
3. Quy định cụ thể nội dung tự chủ và 
nghĩa vụ báo cáo, giải trình và chịu trách 
nhiệm cuối cùng của cơ sở giáo dục đaị 
học. 
Để có thể thực hiện tốt các giải pháp 
nêu trên thì vấn đề cốt lõi vẫn là việc trao 
quyền và phân cấp quản lí nhà nước. Để 
cho việc phân cấp có hiệu quả đích thực thì 
không thể xem phân cấp như là một giải 
pháp của cấp quản lí nhằm kiểm soát được 
tốt hơn mà là một giải pháp trao thực 
quyền cho các nhà giáo dục ở cơ sở để 
nâng cao chất lượng giáo dục. Trong việc 
thực hiện quyền tự chủ và nghĩa vụ giải 
trình và chịu trách nhiệm của nhà 
trường.cần phát huy đến cao độ dân chủ 
trong nhà trường bằng cách chuyển từ việc 
xem đảm bảo dân chủ là phương thức nâng 
cao hiệu quả quản lí sang mục tiêu xây 
dựng nhà trường dân chủ./. 
Công trình nhận được sự tài trợ từ Đề tài 
cấp Nhà nước mã số KX04.11.28. Các tác 
giả xin chân thành cảm ơn. 
Chú thích: 
1
 Xem Điều 14 và Điều 99 Luật Giáo dục 
2005. 
2Trong tháng 11 năm 1994, Hội đồng Giáo 
dục cải cách được thành lập theo đề nghị 
của Y. Z. Lee (Nobel Hoá học). Hội đồng 
trình một loạt các báo cáo, trong đó có một 
số gợi ý chính sách đã được thực hiện. 
Theo Hội đồng, cách duy nhất để hiện đại 
hoá hệ thống giáo dục tại Đài Loan là bãi 
bỏ kiểm soát nó, và có bốn khu vực việc 
bãi bỏ quy định là cần thiết: (1) chịu trách 
nhiệm về việc sử dụng các nguồn tài 
nguyên giáo dục, (2) cơ cấu giáo dục, (3) 
nội dung giáo dục, và (4) quản lí giáo dục 
(Hội đồng Cải cách giáo dục của Yuan, 
1995, trang 25) 
3
 Uông Chu Lưu, Một số vấn đề lí luận về 
phân cấp quản lí nhà nước 
u/View_Detail.aspx?ItemID=16 
4
 Nguyễn Hoài Đông, Tư tưởng Hồ Chí 
Minh về việc thực hiện dân chủ trong giáo 
dục ở nhà trường. 
x.php?option=com_content&view=article
&id=3421:s-kcb-
nckh&Itemid=357#_ftnref4 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t4, tr 32. 
2. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t8, tr 494. 
3. Hồ Chí Minh (1954), “Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan”, Báo Nhân Dân, Số 176, từ 
ngày 6 đến 19/4/1954. 
4. Leung F.K.S. (2004) “Educational Centralization and Decentralization in East Asia” 
Paper presented at the APEC Educational Reform Summit January 2004, Beijing, 
China. 
* Nhận bài ngày: 15/1/2014. Biên tập xong: 20/2/2014. Duyệt đăng: 24/2/2014.

File đính kèm:

  • pdfve_doi_moi_quan_li_nha_nuoc_doi_voi_giao_duc_dai_hoc.pdf