Phương pháp nghiên cứu khoa học Thể dục thể thao (Phần 1)

I. Khoa học:

1. Khoa học là gì?

Định nghĩa: Khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy, về

những quy luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức

này được hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã

hội (Đại bách khoa toàn thư Liên xô).

Tri thức thông thường: Là những tri thức do con người thu được qua quan sát

thông thường. Mặc dù tri thức thông thường có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp nhiều

lợi ích cho cuộc sống hằng ngày của con người nhưng không thể gọi là khoa học vì

nó chưa chỉ ra được bản chất bên trong, chưa phát hiện được các quy luật của sự vật,

hiện tượng và chưa thành một hệ thống vững chắc.

Tri thức khoa học: Là kết quả của quá trình nhận thức có mục đích, có kế

hoạch, có phương pháp và phương tiện đặc biệt, do đội ngũ các nhà khoa học thực

hiện. Tri thức khoa học là sản phẩm cao cấp của trí tuệ loài người, vì:

- Tri thức KH được xác lập trên các căn cứ xác đáng, có thể kiểm tra được và

có tính ứng dụng.

- Mỗi kết luận của KH đều được dựa vào thực tiễn hay lý thuyết, được gạt bỏ

những cái ngẫu nhiên, đi vào những mối quan hệ sâu xa bên trong của các sự vật hiện

tượng, từ đó mà phát hiện ra những quy luật khách quan về thế giới.

Tri thức khoa học và tri thức thông thường tuy khác nhau nhưng có mối quan

hệ mật thiết với nhau. Tri thức khoa học có thể xuất phát từ tri thức thông thường,

theo gợi ý của những hiểu biết thông thường để tiến hành nghiên cứu một cách sâu

sắc. Tuy nhiên, tri thức khoa học không phải là tri thức thông thường được hệ thống

hoá lại hay những tri thức khoa học được hoàn thiện. Tri thức khoa học là kết quả của

những hoạt động nghiên cứu khoa học đặc biệt.

pdf 35 trang yennguyen 1940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Phương pháp nghiên cứu khoa học Thể dục thể thao (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp nghiên cứu khoa học Thể dục thể thao (Phần 1)

Phương pháp nghiên cứu khoa học Thể dục thể thao (Phần 1)
 1 
 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
THỂ DỤC THỂ THAO 
(Phần 1) 
BÀI 1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ KHOA HỌC 
VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
I. Khoa học: 
1. Khoa học là gì? 
 Định nghĩa: Khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy, về 
những quy luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức 
này được hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã 
hội (Đại bách khoa toàn thư Liên xô). 
Tri thức thông thường: Là những tri thức do con người thu được qua quan sát 
thông thường. Mặc dù tri thức thông thường có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp nhiều 
lợi ích cho cuộc sống hằng ngày của con người nhưng không thể gọi là khoa học vì 
nó chưa chỉ ra được bản chất bên trong, chưa phát hiện được các quy luật của sự vật, 
hiện tượng và chưa thành một hệ thống vững chắc. 
 Tri thức khoa học: Là kết quả của quá trình nhận thức có mục đích, có kế 
hoạch, có phương pháp và phương tiện đặc biệt, do đội ngũ các nhà khoa học thực 
hiện. Tri thức khoa học là sản phẩm cao cấp của trí tuệ loài người, vì: 
 - Tri thức KH được xác lập trên các căn cứ xác đáng, có thể kiểm tra được và 
có tính ứng dụng. 
 - Mỗi kết luận của KH đều được dựa vào thực tiễn hay lý thuyết, được gạt bỏ 
những cái ngẫu nhiên, đi vào những mối quan hệ sâu xa bên trong của các sự vật hiện 
tượng, từ đó mà phát hiện ra những quy luật khách quan về thế giới. 
Tri thức khoa học và tri thức thông thường tuy khác nhau nhưng có mối quan 
hệ mật thiết với nhau. Tri thức khoa học có thể xuất phát từ tri thức thông thường, 
theo gợi ý của những hiểu biết thông thường để tiến hành nghiên cứu một cách sâu 
sắc. Tuy nhiên, tri thức khoa học không phải là tri thức thông thường được hệ thống 
hoá lại hay những tri thức khoa học được hoàn thiện. Tri thức khoa học là kết quả của 
những hoạt động nghiên cứu khoa học đặc biệt. 
2. Quy luật phát triển của khoa học: 
 2 
2.1. Khoa học phát triển nhanh chóng trên các lĩnh vực: Điểm nổi bật của 
sự phát triển khoa học hiện đại là nhịp độ phát triển ngày càng gia tăng trong tất cả 
các lĩnh vực, trên tất cả các phương diện. 
Ví dụ: Lượng thông tin được khám phá ngày càng nhiều dẫn đến bùng nổ thông tin. 
Lượng thông tin khoa học từ 5 - 7 năm lại tăng gấp 2 lần. Riêng thế kỷ 20, lượng thông tin 
được khám phá chiếm 90% lượng thông tin của nhân loại khám phá trước đó. Trong khoảng 
30 năm trở lại đây, khối lượng tri thức khoa học của nhân loại đã đạt được 75 % khối lượng 
tri thức tích luỹ từ trước đó 
2.2. Khoa học phát triển phân hoá thành nhiều ngành khoa học mới. 
Tri thức khoa học là một thể thống nhất, đó là toàn bộ sự hiểu biết của con 
người, là kết quả nghiên cứu về một thế giới thống nhất. Tuy nhiên, trong quá trình 
nghiên cứu khoa học của mình, không có một nhà khoa học nào có thể bao quát toàn 
bộ các lĩnh vực. Vì vậy khoa học phải được phân hoá để nghiên cứu từng mặt, từng 
bộ phận khác nhau của chúng. Phân hoá là sự biểu hiện của phát triển khoa học và 
phân hoá làm cho khoa học phát triển mạnh mẽ hơn. 
2.3. Sự phối hợp liên ngành trong nghiên cứu khoa học. 
Một điều dễ nhận thấy là khoa học đang phân nhánh để đi vào chiều sâu, thì 
một bộ môn khoa học hẹp không thể bao quát nổi các đối tượng phức tạp có tính hệ 
thống cao. Do vậy, khi cần nhận thức được những đối tượng phức tạp đòi hỏi có sự 
phối hợp giữa các ngành và các bộ môn khoa học khác nhau tạo thành những liên 
ngành để cùng nghiên cứu. Đó chính là nguồn gốc tạo nên môn khoa học mới, những 
lĩnh vực nghiên cứu mới và cũng chính là sự biểu hiện của quy luật tích hợp của sự 
phát triển khoa học, một xu hướng phát triển của khoa học hiện đại. 
2.4. Thành tựu khoa học được ứng dụng nhanh chóng trong đời sống, trở 
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. 
Khoa học và đời sống là hai phạm trù thoạt nhìn có vẻ tách rời nhau, nhưng 
thực tế chúng lại gắn bó mật thiết với nhau. Mục đích của khoa học chính là cuộc 
sống. Nhu cầu cuộc sống thúc đẩy quá trình nghiên cứu và trình độ phát triển của 
cuộc sống là diều kiện cho sự phát triển của khoa học. 
Lịch sử phát triển của khoa học công nghệ cho thấy nhịp độ ứng dụng thành tựu 
khoa học mỗi ngày một nhanh hơn. Ví dụ: 
Tên phát minh sáng chế Năm phát minh Năm sản xuất Thời gian 
Máy hơi nước 1680 1780 100 năm 
Phim ảnh 1832 1895 63 năm 
Radio 1867 1902 35 năm 
Ôtô 1868 1895 27 năm 
Máy bay 1897 1911 14 năm 
 3 
Vô tuyến điện 1922 1934 12 năm 
Tranzitor 1948 1953 5 năm 
Pin mặt trời 1953 1955 2 năm 
Laze 1954 1954 6 tháng 
3. Phân loại khoa học: 
Có nhiều cách phân loại, thông thường hiện nay được chia làm 3 loại: 
Khoa học xã hội và nhân văn là khoa học nghiên cứu về các quy luật về sự 
vận động và phát triển của xã hội và tư duy như Triết học, chính trị kinh tế học, văn 
học, tâm lý, giáo dục học... 
Khoa học tự nhiên là khoa học nghiên cứu các quy luật về sự vận động và 
phát triển của thế giới vật chất như toán học, vật lý học, hoá học, động vật học, thực 
vật học, sinh lý học... 
Khoa học kỹ thuật là khoa học nghiên cứu về sự ứng dụng các thành tựu của 
khoa học tự nhiên vào trong lĩnh vực kỹ thuật công nghệ nhằm tìm ra các máy móc 
thiết bị mới, các quy trình công nghệ mới... 
Tuy nhiên, các loại khoa học không đứng độc lập, riêng rẽ mà trên có mối quan 
hệ với nhau nhất định. 
II. Nghiên cứu khoa học: 
1. Nghiên cứu khoa học là gì? 
Định nghĩa: Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các 
hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, sáng tạo ra các giải 
pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. (Luật Khoa học và Công nghệ) 
2. Đặc điểm của nghiên cứu khoa học: 
Từ định nghĩa trên, ta thấy Nghiên cứu khoa học có một số đặc điểm sau: 
- Bản chất: Bản chất của nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo nhằm 
nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức có giá trị để sử dụng vào cải tạo thế giới. 
- Chủ thể của nghiên cứu khoa học: Là con người mà cụ thể là các nhà khoa 
học với phẩm chất trí tuệ và tài năng đặc biệt, được đào tạo chu đáo. Quá trình nghiên 
cứu được thực hiện trong một cơ quan nghiên cứu (viện, trường đại học) với một tập 
thể có tiếm lực mạnh, được tổ chức chặt chẽ, có chương trình chiến lược hoạt động 
- Mục đích của nghiên cứu khoa học: là tìm tòi, khám phá bản chất và các 
quy luật vận động của thế giới, tạo ra thông tin mới nhằm ứng dụng chúng vào đời 
sống sản xuất vật chất hay tạo ra những giá trị tinh thần, thoả mãn nhu cầu cuộc sống 
của con người. Mục đích nghiên cứu khoa học không chỉ là nhận thức thế giới mà còn 
cải tạo thế giới, khoa học đích thực luôn vì cuộc sống của con người. 
 4 
- Sản phẩm của khoa học là hệ thống thông tin mới về thế giới và những giải 
pháp cải tạo thế giới, cho nên có thể nói khoa học là hướng tới cái mới. Nhiều ý 
tưởng khoa học độc đáo đi trước thời đại và có giá trị dẫn dắt sự phát triển của thực 
tiễn. 
- Giá trị của khoa học được quyết định bởi tính thông tin, tính ứng dụng và sự 
đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Thông tin khoa học phải có tính khách quan, có độ 
tin cậy, có thể kiểm tra được bằng nhiều phương pháp khác nhau. 
3. Phân loại nghiên cứu khoa học: 
a) Nghiên cứu cơ bản: Là loại hình nghiên cứu có mục tiêu tìm tòi, sáng tạo ra 
những tri thức mới, những giá trị mới cho nhân loại. Nguyên cứu cơ bản đi sâu khám 
phá bản chất và quy luật vận động và phát triển của thể giới ở cả vĩ mô và vi mô. Tri 
thức cơ bản là tri thức nền tảng cho mọi quá trình nghiên cứu và ứng dụng tiếp theo. 
b) Nghiên cứu ứng dụng: Là loại hình nghiên cứu có mục tiêu là tìm cách vận 
động những tri thức cơ bản để tạo ra những quy trình công nghệ mới, những nguyên 
lý mới trong quản lý kinh tế và xã hội. Đây là loại hình nghiên cứu phù hợp với quy 
luật phát triển của khoa học hiện đại (nhất là ở Việt Nam), nó làm rút ngắn thời gian 
từ khi phát minh đến khi ứng dụng. Chính nghiên cứu ứng dụng đã làm cho khoa học 
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tạo ra động lực phát triển cả khoa học lẫn sản 
xuất. 
c) Nghiên cứu triển khai. Là loại hình nghiên cứu có mục tiêu là tìm khả năng 
áp dụng đại trà các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tế sản xuất và đời sống xã 
hội, là loại hình nghiên cứu nối liền khoa học với đời sống, là con đường đưa khoa 
học tới nơi cần sử dụng, chính nó làm cho ý tưởng khoa học trở thành hiện thực, làm 
phát triển nền kinh tế xã hội, làm tăng chất lượng cuộc sống của con người. 
d) Nghiên cứu dự báo: Loại hình nghiên cứu dự báo có mục tiêu phát hiện 
những triển vọng, những khả năng, xu hướng mới của sự phát triển khoa học và thực 
tiễn. Dự báo có 3 cấp: 15-20 năm (cấp 1), 40-50 năm (cấp 2), 100 năm (cấp 3). 
4. Kỹ năng nghiên cứu khoa học: 
Kỹ năng nghiên cứu khoa học là khả năng thực hiện thành công các công trình 
khoa học trên cơ sở nắm vững các nhóm kỹ năng nghiên cứu sau: 
- Nhóm kỹ năng nắm vững lý luận khoa học và phương pháp luận nghiên cứu. 
- Nhóm kỹ năng sử dụng thành thạo các phương pháp nghiên cứu cụ thể (các 
phương pháp nghiên cứu khoa học) 
- Nhóm kỹ năng sử dụng thành thạo các phương tiện, máy móc, công cụ nghiên 
cứu (hỗ trợ cho phương pháp nghiên cứu). 
III. Nghiên cứu khoa học trong TDTT : 
 1. Khái niệm: 
 5 
Khoa học TDTT: là hệ thống tri thức chuyên ngành (lĩnh vực) văn hoá thể 
chất, về những quy luật phát triển khách quan của thể chất và phẩm chất của con 
người. Hệ thống tri thức này được hình thành và phát triển trong quá trình phát triển 
của xã hội. 
Nghiên cứu khoa học TDTT: là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, 
sự vật, quy luật của văn hóa, thể chất và các hoạt động liên quan; sáng tạo ra các giải 
pháp nhằm ứng dụng phát triển năng lực thể chất cao nhất cuả con người và thoã mãn 
nhu cầu tinh thần, vật chất trong thực tiễn xã hội. 
Mục tiêu của NCKH trong GDTC: là nhằm điều khiển sự phát triển toàn 
diện thể chất và tinh thần con người theo một định hướng giá trị và có chủ định. 
2. Đặc điểm nghiên cứu khoa học trong TDTT: 
Khoa học TDTT là lĩnh vực khoa học mới có bước phát triển mạnh mẽ trong 
những thập kỷ cuối thế kỷ 20. Đặc biệt là từ thập kỷ 70 trở lại đây, các lĩnh vực khoa 
học nói chung và khoa học TDTT nói riêng phát triển với tốc độ chưa từng thấy. 
Những thành tích khoa học TDTT đã góp phần vào các thành tích thể thao đỉnh cao 
và tạo nên những nhịp độ phát triển nhằm kéo dài tuổi thọ của con người. Những tiến 
bộ này thể hiện ở một số đặc điểm cơ bản sau: 
2.1. NCKH TDTT chịu tác động của các quy luật khoa học khác nhau: 
Đối tượng nghiên cứu khoa học chủ yếu trong TDTT là nghiên cứu về con 
người dưới tác động của các quy luật sinh học. Tuy nhiên, hoạt động của con người ở 
đây khác với con người ở trạng thái sinh học bình thường (tĩnh) mà là trạng thái hoạt 
động có ý thức để phát triển các tố chất thể lực, nâng cao sức khoẻ và hoạt động của 
các cơ quan và hệ thống cơ thể, hình thành và hoàn thiện các kỹ năng kỹ xảo vận 
động, đồng thời rèn luyện các phẩm chất ý chí cho bản thân. Vì vậy, nghiên cứu khoa 
học trong TDTT là nghiên cứu về con người dưới tác động của 3 quy luật: quy luật 
sinh học, quy luật giáo dục (giáo dục thể chất) và quy luật xã hội, trong đó quy luật 
giáo dục là chủ đạo. 
2.2. NCKH TDTT vận dụng kiến thức và thành tựu của nhiều lãnh vực 
khoa học khác: 
KH TDTT vận dụng kiến thức nhóm những môn KHTN nhằm nghiên cứu các 
quá trình phát triển sinh học của con người như: Những thay đổi bên trong cơ thể do 
ảnh hưởng của tập luyện TDTT gây nên (cấu trúc sợi cơ, xương, các cơ quan chức 
năng); những quy luật về sự thay đổi cơ chế sinh lý theo lứa tuổi và giới tính ảnh 
hưởng của lượng vận động; những biểu hiện của những quy luật vật lý, sinh học trong 
các động tác kỹ thuật của TDTT tác động lên cơ thể con người. 
KH TDTT vận dụng kiến thức nhóm những môn KHXH nhằm nghiên cứu 
những quy luật xã hội của sự phát triển GDTC và TDTT, những biến đổi về tâm lý 
con người do ảnh hưởng của quá trình GDTC 
 6 
2.3. Sự phát triển khoa học TDTT là vô cùng cấp thiết, nó có quan hệ mật 
thiết với những yêu cầu kinh tế - xã hội. Sự phát triển khoa học TDTT trở thành 
một trong những động lực cốt yếu nhằm góp phần tạo nên sự phát triển các tiềm năng 
vật chất và tinh thần của xã hội. 
Các lĩnh vực KHXH, khoa học chính trị xã hội, triết học, lịch sử đã tạo cho 
khoa học TDTT có thêm sức mạnh trên phương diện tăng cường sự hiểu biết giữa các 
dân tộc, các quốc gia, đảm bảo các giá trị đạo đức xã hội thông qua các hiện tượng 
thể thao quốc gia, quốc tế. Hình thành làn sóng tạo nên sự quan tâm đúng mức của 
con người trước các sự kiện thể thao và các vấn đề chính trị - xã hội. 
Nhìn chung, TDTT là một lĩnh vực hoạt động khoa học đa dạng, bao gồm 
nhiều vấn đề liên quan đến cơ chế quản lý, kết cấu hạ tầng TDTT, kinh tế (TDTT), xã 
hội (XHH TDTT), thông tin khoa học, Các thành tựu khoa học TDTT những năm 
gần đây phản ảnh sự tăng cường và phát triển mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh vực 
khoa học khác với lĩnh vực khoa học TDTT. Vì vậy, việc nghiên cứu khoa học TDTT 
phải vận dụng kiến thức và thành tựu của nhiều lĩnh vực khoa học khác như: khoa 
học xã hội (Triết học, giáo dục, tâm lý, đạo đức), khoa học tự nhiên (toán, hoá, 
sinh), khoa học kỹ thuật (công nghệ, máy móc, thiết bị, ) 
3. Thực trạng công tác NCKH ở nước ta hiện nay 
3.1. Ưu điểm: 
- Điều tra cơ bản thể chất trong TDTT quần chúng, trường học 
- Nghiên cứu đánh giá trình độ tập luyện (các lứa tuổi, các môn) 
- Nghiên cứu xây dựng chương trình huấn luyện VĐV (tuyển chọn, nội dung 
huấn luyện, lượng vận động,..) 
- Nghiên cứu một số vấn đề y – sinh học, tâm lý (các chỉ tiêu sinh lý, sinh hoá; 
hồi phục, dinh dưỡng, tâm lý v.v..) 
- Nghiên cứu một số vấn đề cơ bản trong đào tạo VĐV trình độ cao (có sử 
dụng công nghệ thông tin) 
3.2. Nhược điểm: 
- Tổ chức, quản lý TDTT (nhà nước, xã hội, quốc tế) 
- Kinh tế TDTT, sản nghiệp TDTT 
- Xã hội hoá thể dục thể thao 
- Y học thể dục thể thao 
- Kỹ thuật y – sinh học TDTT 
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong TDTT 
4. Định hướng NCKH và phát triển công nghệ TDTT giai đoạn 2010 – 
2015 (Quyết định số 1859/QĐ-BVHTT&DL ngày 20/5/2009) 
 7 
4.1. Mục tiêu: 
- Mục tiêu chung: Mục tiêu của hoạt động khoa học nói chung là góp phần xây 
dựng nền khoa học tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình 
độ quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, đẩy mạnh công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây 
dựng con người mới Việt Nam, góp phần phát triển nhanh, bền vững kinh tế xã hội, 
nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh. 
- Mục tiêu cụ thể: Nhiệm vụ NCKH về lĩnh vực văn hóa, gia đình, TDTT và 
du lịch phù hợp với chiến lược phát triển của Bộ VH-TT và DL; Chiến lược phát triển 
khoa học và công nghệ Việt Nam năm 2010 và giai đoạn 2011 – 2015. 
4.2. Định hướng NCKH và phát triển công nghệ về TDTT: 
1/ Nghiên cứu về khoa học quản lý, xã hội học, kinh tế học TDTT: 
- Lý luận quản lý ngành TDTT; Kế hoạch hoá quản lý TDTT; Thể chế và các 
thiết chế chính sách quản lý ngành; Tổ chức TDTT; Quản lý đầu tư của Nhà nước, 
của xã hội cho TDTT. 
- Chức năng xã hội và chức năng ki ... ì các phiếu này phải đưa vào phần Phụ lục ở dạng nguyên bản đã dùng để điều tra, 
phỏng vấn, không được tóm tắt hoặc sửa đổi. 
2. Hình thức trình bày Luận văn cử nhân Thể dục thể thao: 
Bìa chính: 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO ĐÀ NẴNG 
BỘ MÔN.. 
LUẬN VĂN CỬ NHÂN THỂ DỤC THỂ THAO 
(TÊN ĐỀ TÀI*) 
Môn học: (Điền kinh*) 
Ngành đào tạo: Giáo dục thể chất 
(Tên sinh viên*) 
Đà Nẵng, 200 
Bìa phụ: 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO ĐÀ NẴNG 
BỘ MÔN 
LUẬN VĂN CỬ NHÂN THỂ DỤC THỂ THAO 
(TÊN ĐỀ TÀI*) 
Môn học: (*) 
 29 
Ngành đào tạo: Giáo dục thể chất 
Hướng dẫn khoa học Người thực hiện 
 (Học hàm, học vị, họ tên) (Họ tên*) 
( Khóa lớp*) 
Trang Nhận xét và đánh giá: Có phần nhận xét của người hướng dẫn khoa học 
và phần đánh giá của Hội đồng khoa học. 
Trang Mục lục: Mỗi dòng trình bày theo thứ tự: số mục (nếu có), tên đề mục, 
tiểu mục, số trang (Lưu ý số trang đánh ở bên phải trang và đúng theo trục dọc). 
Trang Danh mục các ký hiệu, các từ viết tắt: Trình bày chữ viết tắt trước, giải 
thích nghiã sau theo thứ tự A, B, C. 
Trang Danh mục các biểu bảng, biểu đồ: Trình bày số và tên các biểu bảng, 
biểu đồ có trong Luận văn khoa học 
Trang 1... trang N: Trình bày từ đặt vấn đề đến kết luận, kiến nghị. 
Trang Tài liệu tham khảo: Trình bày theo mẫu hướng dẫn ở mục 2.3. 
Trang Phụ lục. 
3. Tóm tắt Luận văn khoa học: 
Để chuyển tải một lượng thông tin nhất định, viết ngắn khó hơn nhiều so với 
viết dài. Phải nắm vấn đề rất chắc và có tư duy sáng sủa mới có thể rút một đoạn 
thành một câu. “Người đọc muốn biết những gì người viết truyền đạt, mà không phải 
tốn nhiều thời gian”. “Ngắn gọn là điều mong ước của người đọc, nhưng là điều 
khủng khiếp cho người viết”. 
3.1. Ý nghĩa: 
Tóm tắt Luận văn khoa học là trình bày lại nội dung chính của báo cáo gốc một 
cách ngắn gọn, chính xác sao cho người đọc có thể tiếp thu nội dung đó nhanh nhất. 
Tóm tắt Luận văn có thể thay thế cho luận văn gốc trong một số trường hợp (theo dõi 
tác giả thuyết trình bảo vệ đề tài, giảm dung lượng lưu trữ, không có thời gian đọc 
báo cáo chính thức, trợ giúp chọn lọc thông tin trong quá trình nghiên cứu) 
3.2. Yêu cầu: Tóm tắt Luận văn khoa học tuy được rút ngắn gọn song phải nêu 
đầy đủ các nội dung và đủ các kết luận của Luận văn khoa học. Các số bảng biểu, 
 30 
hình vẽ, đồ thị... không cần thiết có thể bỏ, tuy nhiên số thứ tự của các bảng, biểu 
không được thay đổi. Ngoài ra, như Luận văn đầy đủ, báo cáo tóm tắt phải đảm bảo 
các yêu cầu sau: 
- Cấu trúc lôgic, chặt chẽ; 
- Sử dụng ngôn ngữ và văn phong khoa học, câu văn ngắn gọn rõ ràng, cú pháp 
hạn chế và đồng nhất; 
- Đảm bảo tính ngắn gọn (mỗi câu một ý) bằng cách loại trừ hoặc thay thế các 
thành phần ít có giá trị thông tin bằng những từ hoặc mệnh đề ngắn gọn, hàm súc 
hơn. Không sử dụng những từ hoặc mệnh đề có ý trùng lặp. 
- Không có các dạng dư thừa về cú pháp, từ vựng. 
3.3. Hình thức trình bày Tóm tắt Luận văn cử nhân TDTT: 
Trang bìa 1: 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO ĐÀ NẴNG 
BỘ MÔN.. 
TÓM TẮT LUẬN VĂN CỬ NHÂN THỂ DỤC THỂ THAO 
(TÊN ĐỀ TÀI*) 
Môn học: (Điền kinh*) 
Ngành đào tạo: Giáo dục thể chất 
(Tên sinh viên*) 
Đà Nẵng, 200 
Trang bìa 2: (mặt sau bìa 1) 
Công trình được hoàn thành tại: 
 - Trường Đại học TDTT Đà Nẵng 
 31 
- (địa điểm nghiên cứu*). 
Người hướng dẫn khoa học: 
(Học hàm, học vị, họ tên*) 
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp đại học 
TDTT, Khoá ....., Niên học 200...- 200.. 
Vào hồi .....giờ......, ngày........ tháng 6 năm 200... 
Có thể tìm đọc luận văn tại: 
- Thư viện trường Đại học TDTT Đà Nẵng. 
 - Bộ môn:............., trường Đại TDTT Đà Nẵng 
4. Cách trình bày luận văn: 
Các sản phẩm khoa học nói chung được trình bày ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc, 
sạch sẽ, không được tẩy xoá, có đánh số trang (ở trên chính giữa), đánh số bảng biểu, 
hình vẽ, đồ thị ... 
Luận văn khoa học in trên một mặt giấy trắng khổ A4. Tóm tắt luận văn được 
in trên 2 mặt của 1/2 khổ giấy A4 (giấy A4 gập đôi) có 20 - 24 trang (kể cả trang bìa). 
Soạn thảo văn bản: Đối với các sản phẩm khoa học trong nhà trường được sử 
dụng chữ Times New Roman cỡ 13 - 14 (unicod) của hệ soạn thảo văn bản Winword 
hoặc tương đương, mật độ chữ bình thường, không được nén hoặc kéo dãn khoảng 
cách giữa các chữ, dãn dòng đặt ở chế độ 1.3 - 1.5lines, lề trên và dưới 3.0cm, lề trái 
3.5cm, lề phải 2.0cm. Tóm tắt Luận văn khoa học cỡ chữ 12 (unicod), mật độ chữ 
bình thường, lề trên và dưới 2.0cm, lề trái 2.5cm, lề phải 1.5cm. 
Cách đánh số phân cấp các chương, mục và tiểu mục: Các chương, mục và 
tiểu mục của sản phẩm khoa học được trình bày và đánh thành chữ số, nhiều nhất là 4 
chữ số với số thứ nhất chỉ số chương, số chương viết bằng chữ số Ả rập (1, 2, 3..), 
không viết chữ số La mã (I, II, III...). Ví dụ: 3.2.1. nghĩa là Chương 3, mục 2, tiểu 
mục 1; không viết III.2.1. Tại mỗi nhóm tiểu mục phải có ít nhất là 2 tiểu mục. 
Biểu bảng, biểu đồ, đồ thị, hình ảnh: Việc đánh số biểu bảng, biểu đồ, tranh 
ảnh phải gắn với số chương. Ví dụ bảng 3.2. có nghĩa là bảng thứ 2 của Chương 3. 
Lưu ý Đề mục của bảng ghi ở phía trên bảng, đề mục của hình vẽ, biểu đồ ghi ở 
phía dưới hình. Thông thường, những bảng ngắn và biểu đồ nhỏ phải đi liền với nội 
dung đề cập tới bảng và biểu đồ này ngay lần đầu tiên. Các bảng dài có thể để ở 
 32 
những trang riêng nhưng cũng phải tiếp theo sau phần nội dung đề cập tới ở bảng này 
lần đầu tiên. Hạn chế sử dụng bảng quá rộng (hơn khổ trang giấy). 
Trong Luận văn khoa học, các hình vẽ phải được vẽ sạch sẽ bằng mực đen để 
có thể dễ dàng sao chụp lại, cỡ chữ bằng cỡ chữ sử dụng trong Luận văn. Khi đề cập 
đến các biểu bảng, biểu đồ... phải nêu rõ số của bảng biểu đó, ví dụ:”... được nêu 
trong Bảng 2.1.” hoặc “... xem hình 3.2” mà không được viết “...được nêu trong 
bảng dưới đây” hoặc “...trong biểu đồ sau”. 
Viết tắt: Không lạm dụng viết tắt trong Luận văn khoa hoc, chỉ viết tắt những 
từ, cụm từ được sử dụng nhiều lần trong luận văn. Nếu trong luận văn khoa học, chỉ 
có một vài từ viết tắt, chỉ cần viết tắt sau lần viết thứ nhất có kềm theo chữ viết tắt 
trong ngoặc đơn [ví dụ: thể dục thể thao (TDTT)]. Nếu có nhiều chữ viết tắt thì phải 
có bảng danh mục các chữ viết tắt (xếp theo thứ tự a, b, c) ở phần đầu luận văn. 
 Trích dẫn: Những câu trích dẫn nguyên văn bao giờ cũng để trong nháy kép 
“.. ..” và cần kiểm tra kỹ từng dấu chính tả. Nếu chỉ trích dẫn ý mà không trích dẫn 
nguyên văn thì không để trong dấu nháy kép. Tất cử những chỗ trích dẫn đều cần ghi 
rõ địa chỉ tài liệu trích dẫn. Có nhiều cách ghi chú chỗ trích dẫn, thông thường đối với 
luận văn, sử dụng đánh số các tài liệu trích dẫn theo từng trang tài liệu bằng ký hiệu 
[1], [2].... , các chữ số trong ngoặc [ ] tương ứng với số của tài liệu ở trang danh mục 
tài liệu tham khảo. 
 II. Bảo vệ luận văn khoa học: (Thuyết trình luận văn khoa học) 
 1. Chuẩn bị bảo vệ: 
1.1 Viết báo cáo khoa học. 
 Thế nào là một báo cáo khoa học? Đó là một bài thuyết trình (dùng để nói) 
khoảng 12 - 20 phút, trước các nhà khoa học hoặc một số người có trình độ, am hiểu 
hoặc có khả năng tiếp cận nhanh một vấn đề mới, tuy nhiên họ có thể chưa biết thật 
rõ ràng, tường tận về vấn đề mà báo cáo đề cập đến. Bài thuyết trình dùng để báo cáo 
không phải là bản Tóm tắt luận văn khoa học. Tóm tắt luận văn có số lượng khoảng 
20-24 trang A4 gấp đôi, nội dung báo cáo tóm tắt là rút gọn, cô đọng của từng phần, 
chương mục của báo cáo toàn văn. Còn báo cáo dùng để thuyết trình chỉ cần từ 5-7 
trang, nêu tóm lược những vấn dề cụ thể để diễn giải, thuyết trình, trên cơ sở đó, tác 
giả dùng để nói chứ không phải để đọc. Thông thường nội dung chuẩn bị báo cáo có 
3 phần sau: 
 33 
 - Giải thích ngắn gọn lý do chọn đề tài, mục đích và các nhiệm vụ nghiên cứu, 
các phương pháp nghiên cứu (trình bày ngắn gọn). 
 - Trình bày các kết quả của công trình nghiên cứu, phần này cần sử dụng tối đa 
các phương tiện hỗ trợ như Projecter, bảng, biểu đồ... 
 - Kết luận - kiến nghị. 
 Trong thời gian ngắn đó, tác giả phải chuẩn bị sao cho báo cáo được ngắn gọn 
và đầy đủ, phần trước liên hệ, dẫn dắt phần sau. Phân tích kết quả và kết luận có dẫn 
liệu thực tế đồng thời có cơ sở lý luận. Không đánh giá đầy dủ vai trò của thực 
nghiệm khoa học và thổi phồng vai trò của tư duy trừu tượng sẽ dẫn tới tự biện đơn 
thuần và duy tâm. Ngược lại nếu đánh giá thấp vai trò của tư duy trong nhận thức 
khoa học sẽ mất khả năng đi sâu vào những mối liên hệ hợp với quy luật và hiện 
tương. Vì vậy, có thể nói báo cáo khoa học chính là thước đo để đánh giá quá trình 
tìm tòi, nghiên cứu của tác giả. Tuy nhiên, đây không phải là lúc để tác giả thể hiện 
sự uyên thâm hay trình độ của mình, mà điều cần thiết là phải thuyết phục người nghe 
về những vấn đề mới do mình đưa ra, xác nhận những vấn đề đó có tính khoa học, 
tính thực tiễn và tính khả thi. Vì vậy khi báo cáo cần lưu ý mấy vấn đề. 
1.2. Chuẩn bị các biểu bảng, biểu đồ: Đây là một phần quan trọng quyết định 
sự thành công của kết quả báo cáo. Thông thường trong một công trình nghiên cứu có 
nhiều biểu bảng, biểu đồ (có thể có hơn 30), được trình bày đầy đủ, chi tiết trong 
Luận văn khoa học. Ở đây, chúng ta chỉ cần lụa chọn những biểu bảng biểu đồ quan 
trọng nhất để phục vụ cho thuyết trình, thông thường không quá 10 bảng. Các biểu 
bảng được đánh số đúng quy định, xếp theo thứ tự tương ứng với việc trình bày các 
vấn đề của báo cáo, và được bố trí hợp lý để Hội đồng và người nghe nhìn rõ, đồng 
thời không làm mất thời gian, ảnh hưởng tiến trình báo cáo. Khi trình bày một biểu 
bảng, biểu đồ, cần ghi chính xác các con số, công thức, nhấn mạnh những kết quả nỗi 
bật cần đặc biệt quan tâm... để giúp người nghe có thể xem, đối chiếu và tiếp nhận rõ 
ràng hơn các vấn đề chúng ta đang trình bày. Cần lưu ý các ký hiệu toán học phải 
chính xác, rõ ràng. Thực tế cho thấy nhiều báo cáo đã thất bại vì lý do các biểu bảng, 
biểu đồ trình bày không rõ ràng, chính xác. 
 1.3. Chuẩn bị phương tiện trình chiếu (projecter): Đây là vấn đề thể hiện tính 
trực quan của một báo cáo, tạo hiệu ứng tích cực góp phần thành công của việc báo 
cáo. Khi chuẩn bị các slides (các trang trình chiếu bằng phần mềm power point), cần 
lưu ý rằng thông tin mà người nghe thu nhận được từ chúng là rất ít, vì vậy chỉ cần 6 - 
7 mục trên một slide là quá đủ. Mặt khác, các slide không nên lập lại những gì mà 
 34 
chúng ta sẽ nói, nó chỉ có tác dụng nhấn mạnh những vấn đề cốt lõi. Vì vậy khi trình 
bày, tuyệt đối không đọc nguyên văn những gì viết trên slide mà chỉ nên nói về chúng 
mà thôi. Các slide nên tập trung cho các biểu bảng, biểu đồ. Thực tế cho thấy có 
báo cáo khoa học trở nên trừu tượng, rối rắm vì tác giả trình bày hết slide này đến 
slide kia nhưng muốn thể hiện khả năng sử dụng Power-point, trong khi không quan 
tâm đến biểu bảng, biểu đồ, nên hiệu quả báo cáo không cao. 
 1.4. Báo cáo thử - Dự kiến câu hỏi và soạn đáp án trả lời: Để bảo vệ luận 
văn, phương pháp thuyết trình của báo cáo viên là rất quan trọng. Vì vậy, trước khi 
bảo vệ luận văn, cần phỉa tạp dượt nhiều lần ở nhà. Trước hết, cần phải nắm vững các 
vấn đề chuyên môn cần trình bày, sau đó học cách diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ, tư thế 
đi, đứng trên diễn dàn chỗ đông người. 
 Trong quá trình báo cáo thử, cần nghiên cứu suy nghĩ trước các câu hỏi có 
nhiều khả năng được đặt ra. Có thể tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn, người 
hướng dẫn khoa học và đồng nghiệp, từ đó tập trung vào việc biên soạn đáp án hay 
dàn ý trả lời. Dự kiến số câu hỏi càng nhiều, đáp án chuẩn bị càng chi tiết, sẽ tạo cho 
mình lòng tin, sự bình tĩnh, chủ động trước khi bảo vệ chính thức. 
 2. Bảo vệ luận văn: 
 2.1. Nắm vững nội dung báo cáo: Coni, một nhà hùng biện đã nói: "Vấn đề 
càng nắm chắc thì càng ít mất bình tĩnh. Mức độ hồi hộp tỉ lệ nghịch với lao dộng bỏ 
ra cho công tác chuẩn bị". Thực tế cho thấy nhiều tác giả không nắm vững nội dung 
cần báo cáo, không xác định được những vấn đề cần báo cáo, chỉ đọc lại Báo cáo tóm 
tắt kết quả nghiên cứu (là tập tài liệu Hội đồng đã có), mà không lý giải, phân tích 
hoặc làm sáng tỏ thêm những vấn đề cần phải thuyết phục người nghe. Đây là một sai 
lầm. Vì vậy, vấn đề đầu tiên là tác giả phải nắm vững nội dung báo cáo, biết lựa chọn 
những vấn đề cốt lõi để phân tích, giải thích, để quyết định đề cập hoặc lướt qua vấn 
đề nào, để tự tin nói chứ không phải đọc trước người nghe. Có thể giải quyết vần đề 
này bằng cách học thuộc nội dung và tập báo cáo thử nhiều lần trước khi báo cáo 
chính thức. 
2.2. Không nên nói quá nhiều: Khi trình bày báo cáo không nên tập trung quá 
nhiều vào các chi tiết hay một vấn đề nào đó, chỉ nên nói vừa đủ, sao cho toát lên 
được ý chính của vấn đề cần nói. Không nên làm cho người nghe phải thu nhận quá 
nhiều thông tin, lúc đó sẽ trở nên nhàm chán và không mang lại hiệu quả mong muốn. 
Cách tốt nhất để tránh khỏi lỗi trên là không áp dụng một cách trình bày cứng nhắc 
cho bản báo cáo, cần tập trung sâu hơn một số khía cạnh, lượt hoặc bỏ qua một số 
 35 
khía cạnh khác. Cần phối hợp chặt chẽ giữa nói và chỉ dẫn trên các biểu bảng. Điều 
cần lưu ý là chúng ta làm người nghe cảm thấy nhàm chán ngay ở những phút đầu thì 
việc lấy lại sự tập trung và hứng thú cho họ là gần như không thể. 
 2.3. Chú ý thời gian: Không nên nói quá thời gian cho phép. Nếu nói quá dài 
sẽ làm mất sự tập trung của người nghe, đôi khi chúng ta còn bị nhắc nhở, làm ảnh 
hưởng đến kết quả báo cáo . Mặt khác, sự chú ý của người nghe là có giới hạn và 
những gì chúng ta cố nói thêm sẽ không hữu ích. 
 2.4. Phong cách nói: Bình tĩnh, đường hoàng, tự tin nhưng không đơn điệu. 
Phải có thái độ sâu sắc, thuyết phục, thể hiện lòng tin vào lời nói của mình. Không 
vội vã và nuốt mất đuôi của các từ. Cú pháp cần dơn giản, rõ ràng, mạch lạc. Cần 
mạnh dạn loại bỏ những cái thừa làm loãng, làm rườm rà nội dung báo cáo, làm giảm 
sự hào hứng và làm cho người nghe giảm sự tập trung chú ý. Ngôn ngữ phải khoa 
học, đúng đắn và thể hiện trình độ văn hoá của tác giả. Không nên nói sai văn phạm. 
Lời nói có cường độ vừa đủ để được nghe rõ, nói nhỏ quá là thể hiện sự thiếu tôn 
trọng người khác, nói to quá lại làm cho người nghe mệt vì "ức chế tới hạn". Khi diễn 
đạt, nên thể hiện sự khiêm tốn, không vung tay quá nhiều. Làm được những điều này, 
báo cáo viên sẽ tranh thủ được tình cảm người nghe. 
 2.5. Trả lời câu hỏi: Cần ghi chép chính xác lại các câu hỏi, trả lời một cách 
thẳng thắn, tư tin, trả lời thắng vào bản chất của vấn đề. Khi trả lời, không nên dấu đi 
những khó khăn, những vấn đề vượt quá tầm nghiên cứu hoặc khả năng của mình, 
khía cạnh nào chưa giải đáp ngay được cần trình bày rõ nguyên nhân (vượt quả khả 
năng hay người nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu...). Nên thể hiện sự khiêm tốn và lịch 
thiệp, trân trọng đối với các câu hỏi hoặc ý kiến nhận xét đóng góp của thành viên 
Hội đồng và người nghe, điều đó có thể giúp cho chúng ta có những gợi ý, những giải 
pháp hợp lý mà chúng ta chưa nghĩ tới để tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện công trình, 
Đồng thời, điều đó cũng gây được thiện cảm ở người nghe. 
(Hết phần 1) 

File đính kèm:

  • pdfphuong_phap_nghien_cuu_khoa_hoc_the_duc_the_thao_phan_1.pdf